Hoằng pháp: gốc và ngọn

hoang phap

Hoằng pháp: gốc và ngọn


 

Đức Phật Thích Ca sau khi thành đạo đã vân du khắp vùng Trung Ấn để truyền bá chân lý cho những người có duyên học và thực hành theo. Sau khi thành lập Tăng đoàn, Đức Phật và các Tỳ-kheo thành viên Tăng đoàn tùy theo khả năng và sở trường của mình mà vân du giáo hóa nhiều người bao gồm xuất gia và tại gia. Các thế hệ đệ tử Phật tiếp theo cho đến ngày nay tiếp nối đạo nghiệp của đức Phật với tên gọi hoằng pháp. Bài viết này sẽ nêu một số ý về hoằng pháp xưa và hiện nay và đưa ra khái niệm gốc và ngọn trong việc hoằng pháp. 

Đức Phật giáo hóa tạm gọi là hoằng pháp bằng những điều thực tế qua trải nghiệm bản thân. Đối với hàng đệ tử xuất gia, Đức Phật hướng dẫn sống đời sống Tăng đoàn, ly gia đình, ly hưởng thụ dục lạc, tập trung tu tập giác ngộ giải thoát và tiếp nối sự nghiệp hoằng pháp như Phật. Đối với hàng đệ tử tại gia, Đức Phật giáo hóa bằng những lời cụ thể thực hành được như không giết người hay động vật, không trộm cắp…, bằng hình ảnh hay ví dụ hợp thời để họ giác ngộ như kinh bảy loại vợ… Qua sự giáo hóa của Đức Phật, cư sĩ lãnh ngộ tức hiểu và áp dụng thực hành trong đời sống. 

Đức Phật không phủ nhận, không bắt từ bỏ cầu nguyện cúng tế theo tập tục mà dạy dân chúng muốn có kết quả thì bên cạnh cầu nguyện phải thực hành tạo phước như bố thí, cúng dường, tu tập…và phải từ bỏ làm ác như giết động vật cúng tế, trộm cắp…Đức Phật giảng dạy điều cốt lõi là nhân quả chứ không dạy về đấng tối cao, thần linh hay Phật gia hộ theo kiểu ban phước, trừng phạt. Đức Phật tùy duyên giáo hóa cư sĩ và không có quy định sinh hoạt theo tổ chức tập thể dành cho cư sĩ. Cũng theo cách ấy, các đệ tử của Phật cũng giáo hóa cư sĩ theo nhân duyên mỗi vị. Đức Phật không đặt mục tiêu cải đạo đối với cư sĩ, không bắt buộc các Tỳ kheo phải thuyết giảng cho cư sĩ và nhiều vị không có khả năng thuyết giảng. Tuy nhiên, các đệ tử giáo hóa cư sĩ qua thân giáo tức đời sống phạm hạnh và cách hành xử vô nhiễm.

Một đặc điểm nữa là tùy khả năng của mỗi người mà quần chúng đến học đông hay ít. Đức Phật thì lúc nào cũng bận rộn vì biết bao nhiêu người đủ mọi tầng lớp cầu gặp để xin tư vấn, chỉ dạy. Các thánh đệ tử không thể so bì với Phật nhưng cũng tùy năng lực, phước báu mỗi vị mà giáo hóa cư sĩ ít nhiều khác nhau. Nói chung, không có sự đồng đều nào về hoằng pháp trong Phật giáo.

Căn cứ vào các kinh được kiết tập lần thứ nhất và được cho là chính Ngài A-nan đọc lại, nội dung truyền dạy cho cư sĩ không phức tạp, khó hiểu. Bài kinh Người Áo Trắng dạy cư sĩ quy y Tam bảo, giữ năm giới, quán niệm Phật, Pháp, Tăng và Giới. Thực hành bao nhiêu đó là chắc chắn không rơi vào ba đường ác: địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh và chắc chắn dự vào dòng thánh. Bài kinh Thiện Sinh dạy cư sĩ bổn phận, trách nhiệm …trong các mối quan hệ trong gia đình và xã hội. Nếu cư sĩ thực hành được như lời dạy trong bài kinh thì gia đình có hạnh phúc, xã hội sẽ bình yên, phát triển thịnh vượng. 

Thời đức Phật và vài trăm năm sau đó, chư Tăng Ni vân du tùy duyên hóa độ chứ không trú một chỗ. Điều đó có nghĩa là chưa có chức vụ trụ trì một tự viện (tức tinh xá hay chùa…) để điều hành công việc trong tự viện như quản lý Tăng chúng, tiếp đón và hướng dẫn tín đồ như ngày nay. Tín đồ có thể nghe pháp từ cá nhân Tăng Ni rồi nương pháp thực hành, nương tập thể Tăng để cúng dường tạo phước. Đức Phật không chủ trương sùng bái cá nhân nên không cho phép các đệ tử sử dụng thần thông trước quần chúng để lôi kéo họ ủng hộ. Bởi vì nếu dùng thần thông để thu hút quần chúng thì kết quả là quần chúng sùng bái cá nhân chứ không còn nương vào chánh pháp mà tu học thực hành. 

Như vậy, hoằng pháp có hiệu quả là khi Tăng Ni có học và thực hành giáo pháp; có giảng dạy giáo pháp cho tín đồ để họ biết giáo pháp mà thực hành, biết gần gũi Tăng đoàn phát tâm cúng dường tạo phước tức sống đời sống đạo đức, vị tha. Nếu chư Tăng chỉ thuyết pháp rồi đi nơi khác để cho tín đồ tự lực tu tập; nếu không có Tăng đoàn cho tín đồ nương theo học pháp, bố thí cúng dường tạo phước thì việc hoằng pháp khó đạt hiệu quả. 

Ngày nay, hầu hết Tăng Ni đều ở tự viện, ngoại trừ số ít thực hành ở rừng hay ở thất cốc. Có tự viện thì thường có vị trụ trì tức người quản lý tự viện hướng dẫn Tăng chúng và tín đồ tu học, thực hành nghi lễ. Sự nghiệp hoằng pháp là bổn phận, là trách nhiệm của các vị trụ trì các tự viện bởi tín đồ tu học phần lớn là tại chùa. Nói phần lớn là vì cũng có một bộ phận tín đồ không đến chùa tu học mà chỉ học qua phương tiện truyền thông, qua sách báo …rồi tùy sở thích áp dụng vào cuộc sống. 

Tín đồ Phật giáo thường đến chùa vào bốn ngày trong tháng là mùng 1, 14, 15, 30 (hay 29 tháng thiếu) và một số ngày lễ lớn. Một số chùa có tổ chức khóa tu thì tín đồ về chùa tham dự nhưng thường số lượng không nhiều. Ngoài ra, tín đồ có dịp gặp chư Tăng Ni là khi gia đình có lễ tang, cầu an, cầu siêu, xem ngày giờ, xem phong thủy làm ăn…Cơ hội hay thời gian để tín đồ học giáo pháp là khi họ tiếp xúc, gần gũi chư Tăng trong và ngoài tự viện, là khi họ về tham dự khóa tu, khóa lễ... Thực tế, nghề nghiệp gì trong xã hội muốn thành công thì người học trò phải học và phải có vị thầy hướng dẫn. Tu học giáo pháp của Đức Phật muốn có kết quả không lẽ không cần thầy hướng dẫn sao?

Trong thực tiễn tu học của tín đồ Phật giáo, chúng ta thấy rõ phần lớn tín đồ thực hành lễ nghi tín ngưỡng tôn giáo. Điều đó được minh chứng qua sinh hoạt của các tự viện. Có thể nói, hai ngày sám hối của mỗi tháng là cơ hội tốt nhất để các vị trụ trì các tự viện giảng dạy giáo pháp nhưng các tự viện hiện nay dành thời gian hực hiện nghi lễ hơn là giảng dạy giáo pháp. Vậy thì làm sao tín đồ có cơ hội học và hiểu giáo pháp? Một năm có 12 tháng, mỗi tháng có 2 kỳ sám hối thì tổng cộng một năm có 24 lần tín đồ Phật tử về chùa sám hối nếu tự viện tổ chức đủ. Vậy thì, một năm vị trụ trì cần chuẩn bị cho mình 24 bài pháp để giảng dạy cho tín đồ và có thể lặp lại cho năm sau. Giáo pháp của đức Phật không phải là lý thuyết suông mà là pháp để thực hành. Những bài pháp như Tam quy, năm giới, thập thiện, nhân quả, nghiệp, bát chánh đạo, tứ niệm xứ, tứ nhiếp pháp…nếu áp dụng tu học thì đủ để cho hành giả có an lạc ngay hiện tại. Điều quan trọng là chính Tăng Ni phải hiểu và phải thực hành giáo pháp trước rồi mới giảng dạy cho Phật tử. Ví như một vị thầy dạy nghề cho học trò thì vị thầy phải thành thạo nghề đó trước. Cũng vậy, vị trụ trì với trách nhiệm hoằng pháp phải học và thực hành giáo pháp có kết quả rồi mới giảng dạy. Với vai trò lãnh đạo, Giáo hội Phật giáo nên soạn giáo án về giáo pháp của đức Phật và hướng dẫn tất cả tự viện trong nước áp dụng đồng bộ giáo án đó. Dù tín đồ theo tông phái nào thì họ cũng không thể đi ra ngoài lời dạy căn bản của đức Phật Thích Ca.

Như vừa đề cập, cái gốc của hoằng pháp là ở các vị trụ trì và Tăng chúng tại các tự viện. Vị trụ trì và Tăng chúng phải có học và thực hành pháp thì mới có thể hướng dẫn tín đồ của tự viện đó tu học có kết quả. Muốn vậy thì trước khi bổ nhiệm trụ trì cho Tăng Ni, Giáo hội cần phải có quy chuẩn đánh giá sự học và sự thực hành giáo pháp của một vị Tăng Ni được giới thiệu bổ nhiệm trụ trì. Bởi vì, tín đồ của chùa nào thì họ có cơ hội gần gũi chư Tăng Ni chùa đó nhiều nhất và cần sự hướng dẫn của vị trụ trì chùa đó nhiều nhất. Một vị trụ trì có học có thực hành giáo pháp thì sẽ biết cách hướng dẫn Phật tử tu tập cũng như một người thầy lành nghề thì sẽ biết cách dạy học trò nghề nghiệp.

Trường hợp các chùa mở khóa tu rồi mời các giảng sư nổi tiếng đến thuyết giảng là điều cần nhưng chỉ mang tính bổ sung thêm. Ví như vị trụ trì là người phải biết chế biết thức ăn căn bản hàng ngày cho tín đồ tiêu dùng, còn các vị giảng sư đến để làm cho các món ăn phong phú thêm. Các tự viện không thể trông chờ các giảng sư đến làm thức ăn cho mình mỗi ngày và điều này khó có thể xảy ra. Thực tế cho thấy, các giảng sư đến một ngôi chùa giảng pháp vài tiếng rồi đi. Câu hỏi đặt ra là một bài giảng có thể làm cho tín đồ thay đổi chăng? Học trò nào chỉ nghe qua một lần mà có thể thành thạo nghề nghiệp? Hành giả nào có thể nghe giảng sư giảng một bài giảng mà có thể thực hành hiệu quả? Điều này được gọi là hoằng pháp ngọn. 

Đối với vấn đề mời giảng sư, cách hiệu quả là giảng sư nên giảng và hướng dẫn Phật tử tu tập theo bài giảng của mình ít nhất một ngày hay một khóa tu Phật thất 7 ngày, khóa tu của Làng Mai 10 ngày, khóa tu theo thiền sư S.N. Goenka 10 ngày. Nếu làm được như vậy thì sẽ có kết quả tích cực.

Hoằng pháp theo cách lưu diễn thì có thể được xem là ngọn còn hoằng pháp thường xuyên hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng mới là gốc. Phật giáo muốn phát triển bền vững thì phải xác định được cái gốc và ngọn. Cái gốc là nhân sự, tức các vị trụ trì các tự viện và Tăng chúng phải có học và có thực hành giáo pháp theo quy chuẩn Giáo hội đưa ra dựa trên Tam tạng kinh điển đức Phật Thích Ca giảng dạy. Nhờ có học, có thực hành và có trải nghiệm (chứng ngộ) thì các vị trụ trì và Tăng Ni mới có thể hướng dẫn Phật tử tu học (tạm gọi làm công tác hoằng pháp). Khi cái gốc vững rồi thì việc thỉnh mời thêm các giảng sư để bổ sung nhu cầu học tu sẽ làm cho việc tu tập của tín đồ có hiệu hơn. 






 
Chia sẻ: facebooktwittergoogle