Hãy Cảnh Giác Với Người “Trộm Tăng Tướng” Hay “Tặc Trụ”
canh giac
Nguyễn Minh Tiến
1. Đặt vấn
đề
Gần đây chúng
ta thấy xuất
hiện trên mạng xã
hội nhiều bài viết kêu gọi người Phật
tử phải cảnh
giác với việc “trộm tăng
tướng” hay “tặc trụ”. Trộm
tăng tướng, trong tiếng Sanskrit (Bắc Phạn) gọi là steya-saṃvāsika, trong tiếng
Pāli (Nam Phạn) gọi là theyya-saṃvāsaka. Đây là một khái niệm được dùng để chỉ
cho những người không thực sự là tăng sĩ, không thực sự là vị tỳ-kheo nhưng giả
mang tăng tướng, sống chung trong tăng
đoàn vì mục
đích để nhận sự lợi
dưỡng, phá
hoại tăng
đoàn. Hán ngữ dịch chữ này là “tặc trụ” (賊住) hàm nghĩa “người
mang tâm trộm
cắp vào sống trong tăng đoàn”. Những kẻ gọi là tặc
trụ này hiện đang ở đâu? Làm thế nào để nhận
biết và cảnh
giác để không bị nhầm lẫn? Có lẽ cách tốt nhất vẫn là phải quay
về tìm
hiểu qua những lời
Phật dạy.
Đức Phật từng dạy rằng: “Tin
ta mà không hiểu ta, đó là phỉ
báng ta.” Do vậy, người Phật
tử cần hiểu
rõ lời
Phật dạy, không thể tin nhận như một niềm
tin mù quáng không hiểu
biết. Trong Kinh Tăng
Chi Bộ (Anguttara Nikāya), khi đang ở Kesaputta, đức
Phật đã dạy những người Kālāmā ở đó rằng: “Này
các người Kālāmā, chớ có tin vì nghe báo
cáo, chớ có tin vì nghe truyền
thuyết; chớ có tin vì theo truyền
thống; chớ có tin vì được kinh
điển truyền
tụng; chớ có tin vì lý
luận suy
diễn; chớ có tin vì diễn
giải tương
tự; chớ có tin vì đánh
giá hời hợt những dữ
kiện; chớ có tin vì phù
hợp với định
kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy
quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo
sư của mình.” (Bản Việt dịch từ kinh văn Pāli của Hòa
thượng Thích Minh
Châu.)
Và đây chính là phẩm tính trí
tuệ của đạo
Phật.
2. Đầu
đà hay khổ hạnh?
Trong thời
gian gần
đây, hàng loạt vấn
đề xuất
hiện trong biển sóng thông tin của thời hiện
đại càng thử
thách niềm
tin chân chánh của người Phật
tử. Đáng buồn thay, không ít những thông tin được đưa ra từ chính những
người nhận trách
nhiệm truyền dạy chánh
pháp nhưng lại hoàn
toàn đi ngược với những lời
Phật dạy, đi ngược với tinh
thần đạo
Phật. Do vậy, đối với người Phật
tử hiện nay thì nhu cầu tìm
hiểu lời
Phật dạy càng trở nên vô
cùng cấp
thiết. Bởi vì nếu
không nỗ
lực tự tìm
hiểu từ chính những lời dạy của đức
Phật trong Kinh
điển thì người Phật
tử sẽ không tránh
khỏi sự hoang mang trước những vấn
đề được đưa ra “nhân danh
đức Phật” nhưng lại hoàn
toàn không phải là lời dạy của ngài. Sự phân
biệt đúng sai trong những trường
hợp này quả
thật không dễ dàng, nhưng xét cho cùng thì sự nhận hiểu chân chánh của
mỗi người đều phải do nỗ
lực của chính mình đạt
đến, không thể hoàn
toàn dựa
vào người khác, như chính đức
Phật đã dạy.
Lấy ví dụ như trường
hợp tu
tập của thầy Minh
Tuệ, nhiều người chỉ
trích cho rằng thầy chọn tu theo con
đường khổ
hạnh vốn đã bị đức
Phật từ
bỏ, phê phán. Mặc dù đã có khá nhiều bài viết chỉ rõ cách hiểu sai
lầm, nhầm lẫn giữa các hạnh
đầu đà với pháp tu
khổ hạnh, nhưng dường như vẫn chưa đủ để làm rõ các khác biệt này nên
không ít người vẫn còn nhầm lẫn.
Trang Thư viện Hoa
sen có đăng bài viết của tác
giả Thích Giới
Luật, trong đó nói: “Đầu đà
là lối
sống khổ
hạnh ép
xác về cách dùng pháp
phục, ăn
uống và chỗ ở, vốn không phù
hợp với chủ trương trung
đạo của đức
Phật.” Mặc dù tác
giả trích dẫn nhiều tài
liệu Phật
học nhưng trong bài này đã đưa ra rất nhiều định nghĩa, khái niệm hoàn
toàn sai
lầm. Chẳng hạn như tác
giả viết: “Lúc mới đi tu, đức
Phật tu đầu
đà số một.” Ở đây, tác
giả đã đánh đồng 2 khái niệm về khổ
hạnh và đầu
đà, vốn là hoàn
toàn khác nhau. Tác
giả lại viết: “Đức Phật suýt
chết vì lối
tu đầu
đà khổ
hạnh trong 6 năm ở Khổ
hạnh lâm.” Câu này sai nghiêm
trọng, vì nếu đúng vậy
thì đức
Phật đã không thuyết
kinh Thập
nhị đầu
đà, khen ngợi những người có thể thực
hành nghiêm túc các hạnh
đầu đà mà tiêu
biểu nhất là Tôn
giả Ma-ha Ca-diếp.
Thật ra, khổ
hạnh là một trường phái tu
tập đã có từ trước thời đức
Phật, và có rất nhiều pháp tu khác nhau theo hướng khổ
hạnh. Trong Phạn
ngữ, các pháp tu
khổ hạnh được gọi chung là duṣkara-caryā, hoàn
toàn khác với các hạnh
đầu đà được gọi là dhūta.
Danh xưng đã khác nhau, tất nhiên ý
nghĩa cũng hoàn
toàn khác nhau.
Các trường phái tu
tập khổ
hạnh dựa
trên một lý
thuyết được quan
sát thấy trong
đời sống hằng
ngày. Những ham
muốn dục
lạc của thân xác dù được đáp
ứng nhiều đến đâu cũng không thể
đạt đến sự thỏa
mãn hoàn
toàn, thay vì
vậy sự ham
muốn sẽ càng mãnh liệt hơn và tinh
thần thì càng sa đọa. Do vậy, các nhà
tu khổ hạnh tin rằng, nếu
có thể làm điều ngược lại, nghĩa là hạn
chế tối đa những ham
muốn của thể xác, thậm chí là chấm
dứt hoàn
toàn, thì tinh
thần sẽ được thăng hoa, sẽ đạt
đến cảnh
giới giải
thoát, và kèm theo đó họ còn tin
tưởng rằng người thực
hành tu
khổ hạnh thì sau
khi chết sẽ được sinh lên các cõi
trời. Tất nhiên, đó đều là những niềm
tin vô
căn cứ, và trong thực
tế chưa có bậc thầy khổ
hạnh nào đạt
đến sự
giải thoát khổ đau.
Người tu
khổ hạnh dựa
vào những niềm
tin như trên nên hành
hạ thân xác theo khuynh hướng “càng khổ càng tốt”. Họ có thể nhịn ăn lâu
ngày, hoặc ăn rất ít; đứng suốt ngày trên một chân; dùng lửa đốt vào thân
thể; hoặc phơi thân ngoài
nắng nóng; hoặc nằm lên
mặt đất trải đầy gai nhọn… Nói chung, họ dùng nhiều hình
thức khác nhau để hành
hạ thân xác. Bản
thân đức
Phật trước khi thành
đạo cũng đã từng trải
qua 6 năm khổ
hạnh tại khu rừng nay được gọi là rừng
Khổ hạnh (Tapovana). Và ngài đã đi đến kết
luận rằng các pháp tu
khổ hạnh hoàn
toàn không thể đưa đến sự
giải thoát.
Các hạnh
đầu đà (dhūta) thì hoàn
toàn khác, được đức
Phật giảng
giải rõ
ràng trong kinh Thập
nhị đầu
đà (佛說十二頭陀經 - Phật
thuyết Thập
nhị đầu
đà kinh). Khoảng nửa đầu thế kỷ 5, ngài Phật
Âm (Buddhaghosa) soạn quyển Thanh
tịnh đạo luận (Visuddhimagga) cũng có đề cập đến và kể ra 13 hạnh
đầu đà, thật ra cũng có thể xem
như tương đồng với 12 hạnh
đầu đà trong bản
kinh dẫn trên. Trong bài viết “Xoay quanh câu
chuyện Thầy Minh
Tuệ - Niềm vui và nỗi buồn”, tôi đã đề cập chi
tiết về các hạnh
đầu đà, quý vị có thể tìm đọc lại.
Chữ đầu
đà (dhūta) mang nghĩa là rũ bỏ, dẹp bỏ… Ở đây là rũ bỏ những phiền
não, những sự vướng bận trong cuộc sống, và như vậy hoàn
toàn không mang nghĩa khổ
hạnh. Quan
sát trong thực
tế, người thực
hành các hạnh
đầu đà không hề tự thấy mình đang chịu khổ, mà ngược lại còn đạt
được niềm vui của sự tự
do tự
tại khi không còn phụ
thuộc quá nhiều vào các nhu cầu ham
muốn của thân xác. Thầy Minh
Tuệ là một sự minh họa sống
động cho điều này. Chúng
ta chưa
bao giờ thấy bất kỳ dấu hiệu khổ sở nào mà chỉ có niềm vui luôn lan tỏa
từ những nụ cười của thầy. Do vậy, nếu bảo thầy tu
khổ hạnh thì rõ
ràng là một sự xúc
phạm do thiếu hiểu
biết.
Những lời
Phật dạy luôn mang tính hợp
lý và thiết
thực. Cho nên các hạnh
đầu đà được Phật nói đến trong kinh có ý
nghĩa sâu
xa để hỗ trợ sự tu
tập chứ không phải là những nghi
thức mang tính tôn
giáo. Các hạnh
đầu đà chia thành 3 nhóm, nhằm vào sự kiểm
soát, hạn
chế sự ham
muốn của người tu
tập đối với 3 nhu cầu là ăn, mặc và ngủ nghỉ. Đối với người không tu
tập thì 3 sự ham
muốn này sẽ chi
phối phần lớn sinh
hoạt trong
đời sống hằng
ngày. Kiểm
soát được những ham
muốn này, không buông thả theo sự đòi hỏi thường tình của thân xác thì
người tu
tập sẽ loại trừ được phần lớn chướng
ngại trên đường tu
tập. Do đó mà nói rằng các hạnh
đầu đà hỗ trợ sự tu
tập. Tuy
nhiên, điều quan trọng ở đây là sự kiểm
soát ham
muốn hoàn
toàn không đi đến mức độ làm suy kiệt cơ thể. Trong thực
tế, với sự rèn
luyện đúng mức thì rõ
ràng một người thực
hành các hạnh
đầu đà như thầy Minh
Tuệ qua nhiều năm đã chứng
tỏ vẫn
có một sức
khỏe bình
thường, một sức chịu
đựng dẻo dai vượt xa cả những người bình
thường khỏe mạnh. Đây là sự khác biệt rõ
ràng so với khổ
hạnh.
3. Hạnh
đầu đà hỗ trợ các pháp
môn tu
Nhưng bản
thân các hạnh
đầu đà không phải là pháp
môn tu
tập. Nếu suy
xét kỹ, chúng
ta sẽ thấy rằng việc thực
hành các hạnh
đầu đà tự nó không mang
đến sự
giải thoát. Ngay cả khi một hành
giả có đủ ý
chí, nghị
lực để kiên
trì thực
hiện các hạnh
đầu đà này trong nhiều năm hoặc thậm chí là suốt
đời, thì điều này cũng không giúp làm phát sinh trí
tuệ giác
ngộ. Do vậy, người thực
hành các hạnh
đầu đà chỉ là nhằm hỗ trợ cho các pháp
môn tu
tập chính của mình.
Trong một video đã được lưu
hành rộng
rãi, thầy Minh
Tuệ có chia sẻ rằng ngay cả vào ban đêm thầy cũng hạn
chế không ngủ nhiều mà dành thời
gian để tu
tập tỉnh
giác. Đây mới chính là phần quan trọng trong sự tu
tập của một hành
giả. Pháp tu được chọn có thể là một trong các pháp quán
niệm, chẳng hạn như Tứ
niệm xứ. Theo kinh
Niệm xứ, đức
Phật dạy:
“Này các tỳ-kheo, ở đây tỳ-kheo sống quán
thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh
niệm để chế
ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh
niệm để chế
ngự tham ưu ở đời; sống quán
tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh
niệm để chế
ngự tham ưu ở đời; sống quán
pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh
niệm để chế
ngự tham ưu ở đời.”
(Bản Việt dịch của Hòa
thượng Thích Minh
Châu)
Cũng trong video nói trên, thầy Minh
Tuệ đã nhắc đến một phần nội dung kinh
Niệm xứ với lời
Phật dạy: “Này các tỳ-kheo, ở
đây, vị tỳ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi
kiết già, lưng thẳng và an
trú chánh
niệm trước
mặt. Tỉnh
giác, vị ấy thở vô; tỉnh
giác, vị ấy thở ra…”
(Kinh
Niệm xứ, bản Việt dịch của Hòa
thượng Thích Minh
Châu)
Do vậy, chúng
ta có thể biết rằng thầy Minh
Tuệ đang tu
tập theo những lời dạy này. Và đây mới chính là phần tu
tập quan trọng sẽ đưa đến sự giác
ngộ, chứ không phải những “hạnh đầu
đà khó làm” như chúng
ta nhìn thấy. Trong những chia sẻ với mọi
người, thầy luôn nhắc lại nhiều lần về sự tu
tập giới, định, tuệ và diệt
trừ tham, sân, si. Thầy không hề nói
nhiều đến các hạnh
đầu đà mà thầy đang thực
hành. Cho nên, phần lớn đạo
hạnh đáng
kính phục của thầy Minh
Tuệ thật ra là ở những đêm dài tinh
tấn tu tập nơi hang đá, gốc cây, nhà hoang, nghĩa địa… và kiên
trì trong nhiều năm như vậy, chứ không phải chỉ ở nơi hình
thức đầu trần chân đất, ba y một bát, ngày ăn một bữa như chúng
ta dễ dàng nhìn thấy bên ngoài. Tuy
nhiên, những người chỉ
trích cũng như tán
thán thầy dường như đều rất ít đề cập đến khía cạnh quan trọng này.
Những người chỉ
trích cho rằng thầy Minh
Tuệ chỉ biết “ôm nồi cơm điện đi lang thang”, tất nhiên là hoàn
toàn thiếu hiểu
biết; nhưng những người tán
thán, khen ngợi thầy mà cho rằng các hạnh
đầu đà là “pháp tu khó làm
nhất, mau giác
ngộ nhất” thì cũng là chưa hiểu đúng vấn
đề. Cũng vậy, nếu
không hiểu đúng những giá
trị tu
tập quý
báu của thầy mà chỉ dựa
vào tâm ngưỡng mộ của mình để tôn xưng thầy là Phật sống, là bậc Thánh
A-la-hán… thì những sự xưng
tán đó cũng đều sai
lầm.
4. Thọ
giới hay không thọ giới?
Nhiều người chỉ
trích khác thì cho rằng thầy Minh
Tuệ chưa thọ đại
giới của vị tỳ-kheo nên không phải một tu
sĩ của Phật
giáo. Đi xa
hơn nữa, những người chỉ
trích cho rằng một người không phải tăng sĩ mà sử
dụng những hình
tướng như cạo đầu, đắp
y phấn tảo… thì đó là “trộm tăng tướng”, là “tặc trụ”. Những người chỉ
trích cho rằng việc thọ đại
giới để trở
thành một vị tỳ-kheo cần
phải có giới
đàn, có đủ “tam sư thất chứng” thì việc thọ
giới mới thành
tựu. Và nếu
không có đủ những nghi
thức này mà mang hình
tướng của một vị tăng sĩ thì đó là giả tăng, là dối gạt người đời.
Chúng ta hãy tạm gác lại việc thọ đại
giới mà thử tìm
hiểu qua việc thọ 5 giới của người cư
sĩ. Theo nghi
thức thọ
giới được ghi rõ trong Thập Tụng Yết
Ma Tì Kheo Yếu Dụng (十誦羯磨比丘要用) thì việc thọ 5 giới của người cư
sĩ phải qua một nghi
thức trang
nghiêm có vị thầy tỳ-kheo truyền
giới và người xin thọ
giới. Trong nghi
thức này, người xin thọ
giới phải quỳ lạy thưa thỉnh 3 lần, sau đó vị thầy nếu chấp
nhận truyền
giới sẽ giải
thích về từng điều giới và đặt câu hỏi trực tiếp với giới
tử (người xin thọ
giới) về mỗi điều giới, có thể phát
nguyện thọ
trì suốt
đời hay không? Người xin thọ
giới phải trả
lời về từng điều giới, rằng mình đã nhận hiểu
rõ ràng và xin phát
nguyện thọ
trì suốt
đời. Sau các nghi
thức này thì người cư
sĩ tại
gia mới được xem là đã chính
thức được thọ 5 giới.
Câu hỏi đặt ra ở đây là, trong số những người tự nhận và được xem là Phật
tử đã thọ 5 giới ngày nay, có bao nhiêu người được thọ
giới qua nghi
thức trực tiếp như quy
định trên? Có bao nhiêu người đã được truyền
giới online, sau đó đến chùa nhận “giấy chứng nhận”? Bao nhiêu người
được truyền
giới trong một buổi
lễ tập thể với hàng trăm giới
tử, thậm chí hàng ngàn, và không hề có cơ hội được hỏi đáp trực tiếp với
vị thầy truyền giới? Và có ai trong số này bị xem là “giả Phật tử”, “giả cư sĩ”
hay chăng?
Trong thực
tế, việc truyền
giới với nghi
thức trang
nghiêm là một lợi
ích lớn lao cho người thọ
giới. Bởi vì điều này tạo ra một niềm
tin, một sức
mạnh tinh thần, củng
cố quyết
tâm và ý
chí của chúng
ta trong việc giữ
giới. Nhờ vậy, khi đứng trước những hoàn
cảnh phân vân lựa
chọn, chúng
ta sẽ mạnh mẽ hơn trong việc quyết
định không phạm
giới, vì nhớ đến vị thầy, nhớ đến nghi
thức phát
nguyện trang
nghiêm long
trọng khi thọ
giới. Bất cứ ai đã thọ
giới và quyết
tâm giữ
giới nghiêm túc đều có thể dễ dàng nhận hiểu được điều này. Việc sống
buông thả theo những thói
quen xấu là hết
sức dễ dàng, nhưng việc chống
lại các thói
quen xấu để giữ trọn giới
luật luôn đòi hỏi một sự quyết
tâm, một ý
chí dũng
mãnh. Và việc thọ
giới trực tiếp với vị thầy qua nghi
thức trang
nghiêm mang lại cho chúng
ta sức
mạnh tinh thần cần
thiết đó.
Tuy nhiên, câu hỏi quan trọng mà mỗi người chúng
ta cần tự trả
lời bằng sự suy
xét của chính mình là, trong trường
hợp không được thầy truyền
giới qua nghi
thức trang
nghiêm đúng quy
định, thì liệu chúng
ta có được phép tự mình sống theo 5 giới hay không? Và nếu sống đúng theo
5 giới thì ta có được lợi
ích gì không?
Câu trả
lời của
riêng bản
thân tôi là có. Khi tôi có đủ
trí khôn để tự mình tìm
hiểu về giới
luật, tôi nhớ lại rằng việc thọ nhận năm
giới của mình từ thuở nhỏ hoàn
toàn không đúng theo những nghi
thức như trên, thậm chí khi ấy tôi còn chưa đủ năng
lực tự thân để tự mình quyết
định phát
nguyện thọ
giới. Tuy
nhiên, cho
đến nay thì việc giữ theo 5 giới đối với tôi vẫn là một nguyên tắc sống thiêng
liêng nhất
định phải tuân
theo, và hơn thế nữa, tôi nhận được vô vàn lợi
ích từ việc giữ
giới, kể cả tinh
thần lẫn vật
chất.
Mỗi người có thể tự suy
xét và đưa ra câu trả
lời của
riêng mình. Tuy
nhiên, về mặt lập
luận thì chúng
ta vẫn cần
phải thừa
nhận những gì hợp
lý. Trong thực
tế, đức
Phật là người chế định và dạy cho chúng
ta các điều giới, nhưng tự thân giá
trị mang lại lợi
ích cho người thọ
giới lại không phải do đức
Phật tạo ra hay ban phát, mà đó chỉ là những giá
trị tất yếu do quy
luật vận
hành khách quan của sự việc. Lấy ví dụ, đức
Phật chế định và dạy chúng
ta giữ
giới không nói
dối, và khi ta không nói
dối thì tự
nhiên ta nhận được sự tin
cậy từ những người quanh ta. Sự tin
cậy đó là lợi
ích tất nhiên của việc không nói
dối, không phải do đức
Phật ban
cho ta. Cũng giống như trước thời Isaac Newton thì mọi quả táo vẫn rơi, định
luật vạn
vật hấp
dẫn vẫn vận
hành, nhưng Newton là người giúp ta nhận hiểu nó. Cũng vậy, với trí
tuệ của bậc Giác
ngộ, đức
Phật đã chế định và truyền dạy hệ
thống giới
luật để giúp người Phật
tử sống tốt và tu
tập đúng chánh
pháp, nhưng tác
dụng của giới
luật trong việc mang lại lợi
ích cho người thọ
trì là những giá
trị khách quan, bất cứ ai cũng có thể thực
hành để nhận được. Cho nên, dù là người có điều
kiện được thọ
giới hay không, nếu
có thể học hiểu đúng và thực
hành giữ
giới theo đúng lời dạy của Phật thì vẫn nhận được lợi
ích lớn lao từ việc giữ
giới.
Tuy nhiên, như đã nói, nghi
thức truyền
giới được quy
định là nhằm mang lại sức
mạnh tinh thần hỗ trợ cho người thọ
giới. Ngoài
ra, với những điều giới phức
tạp thì kinh
nghiệm và sự hiểu
biết của vị thầy trực tiếp truyền dạy là hết
sức cần
thiết để giúp người thọ
giới có thể hiểu đúng, thực
hành đúng, không sai lệch. Chính vì
vậy mà các nghi
thức truyền
thống cần được bảo
vệ và lưu
truyền cũng như cần
phải được tuân
theo trong mọi trường
hợp có thể. Vấn
đề là chúng
ta vẫn phải biết phân
biệt đâu là giá
trị cốt
lõi và đâu là các giá
trị phụ
thuộc. Học, hiểu và thực
hành nghiêm túc các điều giới là giá
trị cốt
lõi, mang
đến lợi
lạc; trong khi các nghi
thức, hình
thức truyền thọ là giá
trị phụ
thuộc, hỗ trợ. Nếu có được trọn
vẹn cả hai thì tất nhiên là điều tốt nhất, nhưng nếu chỉ có một trong hai
thì tất nhiên là các giá
trị cốt
lõi vẫn mang lại lợi
ích, trong khi các giá
trị phụ
thuộc sẽ là hoàn
toàn vô
ích. Nói rõ hơn, người không có điều
kiện thọ
giới mà học hiểu và giữ
giới nghiêm túc thì vẫn
có lợi
ích, trong khi người thọ
giới một cách nghiêm túc, đúng nghi
thức nhưng sau đó hủy phạm, không giữ trọn giới
luật đã được truyền thọ thì việc thọ
giới trước đó là hoàn
toàn vô
ích, thậm chí còn có thể xem là tội
lỗi.
Việc thầy Minh
Tuệ có thọ
giới hay không thọ
giới, chỉ chính thầy mới có thể đưa ra câu trả
lời, nhưng ít
nhất cho
đến hiện nay, theo những gì chúng
ta nhìn thấy thì thầy là người giữ
giới rất nghiêm túc. Do vậy,
việc cho rằng thầy là người “trộm tăng tướng” hay “tặc trụ” là những chỉ
trích hoàn
toàn không thuyết
phục.
5. Việc giữ
giới khó hay dễ?
Câu trả
lời tất nhiên vẫn tùy
theo cách nhìn và cảm nhận của
riêng mỗi người. Tuy
nhiên, để có một ý
niệm khái quát trước khi nhận hiểu vấn
đề, chúng
ta sẽ thử tìm
hiểu qua 10 giới sa-di, tức là giai đoạn chuẩn bị học
giới, tập sự để trong tương lai sẽ thành một vị tỳ-kheo. Trong Thập
tụng luật (十誦律), quyển 21 có ghi chép như sau:
1. 盡壽離殺生。是沙彌戒。 - Tận
thọ ly sát
sanh. Thị sa-di giới.
2. 盡壽離不與取。是沙彌戒。- Tận
thọ ly bất
dữ thủ. Thị sa-di giới.
3. 盡壽離非梵行。是沙彌戒。- Tận
thọ ly phi
phạm hạnh. Thị sa-di giới.
4. 盡壽離妄語。是沙彌戒。- Tận
thọ ly
vọng ngữ. Thị sa-di giới.
5. 盡壽離飲酒。是沙彌戒。- Tận
thọ ly ẩm
tửu. Thị sa-di giới.
6. 盡壽離處高床大床。是沙彌戒。- Tận
thọ ly xử cao sàng đại sàng. Thị sa-di giới.
7. 盡壽離著華瓔珞香塗身香熏衣。是沙彌戒。- Tận
thọ ly trước hoa anh
lạc hương đồ thân hương huân y. Thị sa-di giới.
8. 盡壽離作伎歌舞不往觀聽種種樂器。是沙彌戒。- Tận
thọ ly tác vũ ca kỹ bất vãng quan thính chủng
chủng nhạc khí. Thị sa-di giới.
9. 盡壽離受畜金銀錢寶。是沙彌戒。- Tận
thọ ly thụ súc kim
ngân tiền bảo. Thị sa-di giới.
10. 盡壽離非時食。是沙彌戒。- Tận
thọ ly phi
thời thực. Thị sa-di giới.
Dịch nghĩa:
1. Suốt
đời tránh xa việc giết hại sinh mạng. Đây là giới của sa-di.
2. Suốt
đời tránh xa việc lấy của không cho. Đây là giới của sa-di.
3. Suốt
đời tránh xa việc dâm
dục. Đây là giới của sa-di.
4. Suốt
đời tránh xa việc nói
dối. Đây là giới của sa-di.
5. Suốt
đời tránh xa việc uống rượu bia và các chất gây say nghiện. Đây là giới
của sa-di.
6. Suốt
đời tránh xa việc nằm, ngồi trên giường ghế cao, rộng. Đây là giới của
sa-di.
7. Suốt
đời tránh xa việc trang điểm bằng vòng
hoa, chuỗi
ngọc, xông ướp
hương thơm trên thân
thể, y
phục. Đây là giới của sa-di.
8. Suốt
đời tránh xa việc ca múa và xem, nghe các
loại khí cụ âm
nhạc. Đây là giới của sa-di.
9. Suốt
đời tránh xa việc thọ nhận và cất giữ vàng
bạc, tiền tài, vật quý giá. Đây là giới của sa-di.
10. Suốt
đời tránh xa việc ăn trái giờ, [chỉ ăn một bữa trước lúc giữa trưa]. Đây
là giới của sa-di.
Trong 10 điều giới này, có 4 điều trùng khớp với các giới của người cư
sĩ tại
gia (1, 2, 4 và 5), riêng giới thứ ba là đoạn dứt sự dâm
dục, khác với giới của người tại
gia chỉ là tránh sự tà
dâm. Từ giới thứ 6 đến thứ 10 được chế định đặc
biệt dành riêng cho đời
sống xuất
gia, vì rõ
ràng là rất khó thực
hiện theo trong
đời sống của người thế
tục.
Sau thời
gian tập sự và học
giới, thường được quy
định ít
nhất là 2 năm, nếu vị sa-di tự thấy đủ
sức thọ nhận và được vị thầy xét thấy đủ
khả năng thì sẽ tiếp
tục thọ đại
giới, còn gọi là cụ
túc giới, bao
gồm 250 giới theo Luật
Tứ phần. Có đôi chút khác biệt giữa các bộ luật, chẳng hạn như Luật Ngũ
phần là 251 điều, Luật Thập tụng là 263 điều, Luật Tăng-kỳ là 218 điều,
Luật Hữu
bộ là 192 điều, Luật Nam
tông (Pali) là 227 điều. Tuy
nhiên, sự khác biệt về số điều giới chỉ là rơi vào cách phân
chia, diễn
đạt hơi khác nhau, còn nếu so
sánh nội dung tổng thể thì có thể xem
như không khác biệt. Ở các nước theo truyền
thống Bắc
tông thì Luật
Tứ phần được vận dụng phổ
biến nhất. Cần nhấn
mạnh rằng, giới
luật có khác biệt rất ít giữa tất cả các tông
phái, truyền
thống khác nhau trong Phật
giáo, không giống như Kinh
điển hay Luận
giải thường
có sự khác biệt nhiều hơn. Gần
đây, tôi có nghe một vị tỳ-kheo nói chuyện trước đại
chúng giải
thích rành
mạch về điều giới
không giữ tiền bạc, rằng theo Nam
tông thì cấm, còn Bắc
tông không cấm tỳ-kheo nhận tiền (?). Cách giải
thích này rõ
ràng hoàn
toàn không có căn
cứ vào đâu cả và là trái ngược với lời
Phật dạy.
Vì 10 giới của sa-di đều thuộc loại “tận thọ” (盡壽) nghĩa là người phát
nguyện sẽ giữ
giới cho
đến suốt cuộc
đời, nên 250 giới của vị tỳ-kheo được chế định để mở
rộng hơn phạm
vi giữ
giới nhưng hoàn
toàn không thiếu khuyết nội dung nào so với giới
luật của sa-di.
Xét qua nội dung 10 giới của vị sa-di như trên, rõ
ràng là cũng không dễ để giữ trọn. Tuy
nhiên, dù khó cũng không phải là không thể được. Ở đây chúng
ta sẽ thử cân
nhắc về tính khả thi của các điều giới trong môi trường xã
hội hiện
đại.
- 5 giới đầu tiên là tất yếu, nhất
thiết phải nghiêm giữ, không cần bàn đến.
- Các giới thứ sáu, thứ bảy và thứ tám thật ra chỉ là điều
chỉnh thói
quen. Nếu người có quyết
tâm tu
hành xuất
thế thì 3 giới này chắc
chắn phải thực
hiện được. Giới thứ sáu hạn
chế sự tham
muốn ngủ nghỉ; giới thứ bảy và thứ tám giúp trừ bỏ sự đắm mê vào hương
thơm, hình
sắc, âm
thanh. Đây đều là những nội dung giúp hạn
chế, kiểm
soát sự ham
muốn.
- Giới thứ chín thì nhiều người cho là bất khả thi trong hoàn
cảnh xã
hội hiện
đại. Tuy
nhiên, nếu chúng
ta xét theo ý
nghĩa của điều giới này là để dứt trừ sự bám chấp vào tiền bạc của một
người xuất
gia, thì điều giới này vẫn
có thể được thực
hiện ở mức độ hạn
chế hợp
lý, chẳng hạn như chỉ vừa
đủ đáp
ứng những nhu cầu tối cần
thiết của người xuất
gia. Nếu được như vậy vẫn
có thể xem là lợi
ích. Ngược lại, nếu một người đã thọ
giới mà lại hành xử theo cách buông thả phóng
túng với tiền bạc như thể chưa từng nghe biết đến điều giới này thì rõ
ràng là hoàn
toàn không đúng chánh
pháp.
- Giới thứ mười hiện nay vẫn được một số vị xuất
gia giữ theo nghiêm túc, và chính cuộc sống khỏe mạnh bình
thường của các vị này là căn cứ cho chúng
ta thấy rằng điều giới này hoàn
toàn khả thi. Thầy Minh
Tuệ có chia sẻ về thời
gian đầu thầy giữ theo giới này thì cơ thể suy
yếu, sụt ký rất nhiều, da xanh như tàu lá, nhưng sau khi vượt
qua được một năm như vậy
thì cơ thể bình
thường trở
lại và thậm chí tăng cân hơn so với khi còn ăn 3 bữa trong ngày. Điều này
cho thấy khả năng thích
nghi của cơ thể và do đó điều giới này hoàn
toàn có thể thực
hiện được. Khi thực
hành điều giới này, người thọ
giới sẽ đối
trị được sự tham
muốn đối với việc ăn
uống, đồng
thời cũng thuận
lợi hơn về thời
gian tu
tập trong ngày. Trong thực
tế, kinh sách ghi lại rằng vào thời đức
Phật thì tất cả các vị tỳ-kheo đều vâng giữ nghiêm túc điều giới này.
Như vậy, nếu từ việc nhận hiểu 10 giới của sa-di, xét lên đến 250 giới của vị
tỳ-kheo hay 348 giới của tỳ-kheo-ni, chúng
ta có thể thấy rằng việc giữ theo trọn
vẹn các giới là cực kỳ khó khăn.
Tuy nhiên, đức
Phật dạy rằng giới
luật là nền tảng của sự tu
tập. Nếu
không tròn giới
luật thì không thể dựa
vào đâu để tu
tập. Trong Tam
vô lậu học là Giới, Định và Tuệ thì giới là khởi điểm, là đứng
đầu. Có giới rồi mới có thể có định; có định rồi mới có thể có tuệ. Ngay
cả đối với người cư
sĩ tại
gia, nếu
không giữ
giới thì cũng không tu
tập được gì khác. Ví dụ, nếu muốn tu
pháp niệm
Phật, tất yếu cũng phải là người giữ
giới niệm
Phật thì mới có kết quả.
Việc giữ
giới tất nhiên là khó, nhưng chính vì
vậy đức
Phật mới dạy rằng “giới luật là phương
tiện để giải thoát”, không có giới
luật thì tất nhiên cũng không thể
đạt đến sự
giải thoát. Thấy và hiểu được sự khó khăn trong thực
hành giới
luật, chúng
ta mới càng thêm kính
trọng chư vị tăng
ni, những người đã lưu
truyền mạng mạch Phật
pháp qua nhiều thế
hệ cho
đến chúng
ta ngày nay bằng cách tự thân mình thực
hành giới
luật và tu
tập Phật
pháp. Bản
thân tôi từ ngày có đủ cơ
duyên để chuyển dịch bộ Luật
Tứ Phần từ Hán ngữ sang Việt ngữ đã luôn tâm
niệm rằng, đối với một vị tỳ-kheo dù chỉ mới vừa thọ đại
giới cũng vẫn xứng đáng để người cư
sĩ chúng
ta cung
kính lễ
lạy, bởi vì vị ấy thực sự là cao quý hơn tất cả mọi chức tước, học vị,
bằng cấp của thế
gian. Chính vì
vậy, đức
Phật dạy rằng người xuất
gia có 3 ý
nghĩa: xuất
thế tục gia là ra khỏi đời
sống gia
đình thế
tục; xuất phiền
não gia là ra khỏi những ràng
buộc phiền
não của đời
sống; và cuối
cùng xuất tam
giới gia là ra khỏi căn nhà ba
cõi, tức là chấm
dứt vòng
sanh tử luân
hồi.
6. Thầy Minh
Tuệ là một tấm gương
Như tôi đã nói trong một bài viết trước, thầy Minh
Tuệ là một tấm gương buông
xả mà chúng
ta rất hiếm khi gặp được. Nhìn vào nếp
sống tối giản của thầy, mỗi người đều có thể tự cảm
thấy có thêm động
lực để hướng đến sự thiện lành, để giảm
bớt đi lòng tham
muốn. Trong thực
tế, tôi đã thực sự xúc
động khi đọc được rất nhiều chia sẻ của nhiều người, thuộc đủ mọi tầng
lớp trong xã
hội. Tất cả đều bày tỏ sự hướng thiện nhiều hơn, cảm
thông nhiều hơn với mọi
người quanh mình và cũng kham
nhẫn nhiều hơn với những bất toàn trong cuộc sống. Thật ra, đó chính là
những điều
kiện để hướng đến hạnh
phúc chân
thật cho bản
thân mỗi người. Lời “chúc mọi
người hạnh phúc” mà thầy rất thường
xuyên nói ra đã thực sự lan tỏa và mang lại hiệu
quả cụ
thể trong cuộc sống mỗi người.
Tuy nhiên, như người xưa thường nói, “đồng
thanh tương
ứng, đồng khí tương cầu”, những tâm
thức thiện lành sẽ hướng về sự thiện lành, người hướng thiện mới có sự
đồng cảm với người hướng thiện. Mặc dù mỗi chúng
ta đều chưa phải người hoàn
toàn hiền thiện, nhưng chỉ cần ta có tâm hướng thiện, biết quý
trọng và hướng đến sự thiện lương, thì tấm gương tu
tập của thầy Minh
Tuệ sẽ tất yếu tạo ra một sức hút mạnh mẽ khiến ta phải rung
động và hướng về. Đó chính là lý
do giải
thích việc hình
ảnh thầy trong thời
gian qua đã thu hút một
lượng người ngưỡng mộ đông đảo chưa từng thấy. Và sự cảm
thông, thương
yêu đã lan tỏa trong những người ngưỡng mộ thầy để kết thành những hành
động giúp đỡ, sẻ chia cụ
thể, mang
đến niềm vui và sự giảm nhẹ khó khăn cho rất nhiều gia
đình còn nghèo
khổ. Còn hơn thế nữa, tôi tin rằng những chuyển
hóa trong sự tu
tập của đông đảo người Phật
tử khắp nơi chắc
chắn sẽ còn tiếp
tục trong thời
gian tới và rồi sẽ đơm hoa kết trái thành những việc
làm cụ
thể, mang
đến nhiều sự thay đổi tốt
đẹp hơn cho cộng
đồng.
Và điều ngược lại tất nhiên cũng đúng đối với những ai không có sự đồng cảm
hướng thiện. Một khi không có sự đồng cảm với tấm gương tu
tập của thầy, họ sẽ chỉ thấy đó như một con
người “bất thường”, một kẻ ngu
ngốc từ
bỏ đời
sống ấm êm để lang thang đây đó, sống
vất vưởng trên đường, trong nhà hoang, nghĩa địa… mà chẳng đạt
được điều gì, chẳng hưởng thụ được gì, chỉ toàn là những sự khổ sở, khó
nhọc, và cũng chính do đó mà họ có khuynh hướng cho rằng thầy tu
khổ hạnh.
Cho nên, trong một ý
nghĩa nào đó, thầy Minh
Tuệ không chỉ là tấm gương
sáng để người tu
tập noi theo, mà còn là một tấm gương phản
chiếu, một tấm gương soi để khi nhìn vào trong đó ta có thể thấy rõ các yếu
tố bất
thiện tương phản. Có người gọi thầy là “tấm gương chiếu yêu”, tuy có hơi
nặng lời nhưng không phải là không
có lý. Có rất nhiều sự việc từ trước đến
nay dường như đã trở
thành quen
thuộc đến mức bình
thường trong nhận
thức của mọi
người, nay đối trước tấm gương của thầy bỗng trở nên xấu
xí, khó coi và thậm chí gây khó chịu. Đơn
giản chỉ vì chúng thuộc về nhóm những điều bất
thiện.
Không ai có thể biết
trước được tương lai, nhưng cơn gió lành Thích Minh
Tuệ cũng như ngọn
đèn Giới
Định Tuệ mà thầy đã thắp lên trong thời
gian ngắn ngủi vừa qua đã chứng
tỏ sức lan tỏa nhiệm mầu của Phật
pháp, cũng như cho thấy rằng những hạt
giống lành và sự khát khao hướng thiện luôn tồn
tại trong mỗi người chúng
ta.
Và đến đây chúng
ta có thể quay lại với vấn
đề được nêu ra ở đầu bài này. Liệu người Phật
tử hiện nay có nên cảnh
giác với việc “trộm tăng tướng” hay “tặc trụ” như nhiều bài viết đã nêu
ra hay không? Câu