Sống với sơ tâm: Như thị
Sống với sơ tâm
Sống với sơ tâm: Như thị
Nguyên Giác
Nói sơ tâm là nói về tâm của người mới học, tâm đơn sơ, tâm như hài nhi trẻ nhỏ,
tâm rất mực hồn nhiên, chưa có chút gì là chữ nghĩa dày đặc, không chút gì là
kiến thức uyên bác. Ngắn gọn, tận cùng của người sống với “sơ tâm” là sống với
“tâm không biết,” bởi vì, hễ “có biết” là có quá khứ, có mài giũa, có lộ trình
nhân quả, không còn là tâm nguyên sơ, tâm bản nhiên. Cốt tủy Thiền tông là sống
với sơ tâm.
Thiền sư Shunryu Suzuki, trong tác phẩm “Zen Mind, Beginner’s Mind” (Tâm Thiền,
Tâm của người mới bắt đầu) ấn bản 1970 đã viết rằng: “Trong tâm của người mới
bắt đầu thì sẽ có nhiều khả thể, nhưng trong tâm của người chuyên gia thì lại ít”.
Nơi trang 22 của sách trên, Thiền sư Suzuki viết: “Trong tâm của người mới
bắt đầu thì không có ý nghĩ, ‘Tôi đã đạt được điều gì đó’. Mọi ý nghĩ quy về tự
ngã đều giới hạn tâm trí rộng lớn của chúng ta. Khi chúng ta không có ý nghĩ gì
về thành tựu, không có ý nghĩ về tự ngã, chúng ta là những người mới bắt đầu
thực sự. Khi đó, chúng ta mới thực sự có thể học được điều gì đó”.
Chỗ này đơn giản lắm: trong tâm của người mới bắt đầu, còn gọi là sơ tâm, hay
tâm ban đầu, luôn luôn là cái tươi mới, luôn luôn là cái xa lìa vô lượng tâm quá
khứ, và do vậy luôn luôn xa lìa vô lượng các tâm dự phóng có thể mơ mộng về
tương lai, và do vậy sơ tâm cũng không phải là tâm hiện tại vì sơ tâm luôn luôn
là tâm tự làm mới chính nó. Ngay nơi sơ tâm, chính là tâm xa lìa cả ba thời: quá
khứ, hiện tại, vị lai.
Đó là lý do trong Thiền tông nói rằng ngồi thiền không thể thành Phật, cũng
tương tự như mài gạch không thể làm thành gương soi mặt được.
Trong cái sơ tâm đó, vì luôn luôn là sơ tâm, cho nên không hề có bóng dáng chút
nào về “cái tôi” và “cái của tôi” vì bất kỳ cái tôi nào cũng là sản phẩm của quá
khứ, của vun bồi, của mài giũa. Trong cái sơ tâm đó, cũng không hề có cái gì gọi
là “tôi đã học xong cái này” hay “tôi đã thành tựu công đức này, tôi đã chứng
đắc được quả kia…”. Bởi vì tâm của người sơ học lúc nào cũng trắng tinh như
trang giấy chưa viết chữ.
Hay là, nói cách khác, đó là tâm của Vô niệm, bởi vì bất kỳ tâm nào hay bất kỳ
niệm nào của hồi nãy, của hôm qua, của hôm kia, của tuần trước, của năm trước,
hễ còn quyến luyến trong tâm thì tâm đó không còn là “sơ tâm” nữa, và tâm đó,
lúc đó là một tâm đã cũ, mất hẳn cái tươi mới khi thấy, khi nghe trong cái dòng
sống liên tục chảy xuyên suốt thân tâm mình. Cho nên, còn gọi là tâm Vô niệm.
Không có nghĩa là, không có niệm, nhưng chỉ có nghĩa là các niệm không còn chỗ
trụ nào trong tâm mình nữa.
Trong nhóm Kinh Tập của tạng Pāli, nơi kinh Sn 4.5 (còn có ký số
cách khác là Snp 4.5), tức là kinh Paramaṭṭhaka (còn có tên là
Kinh về tối thượng), có hai bài kệ, do Nguyên Giác dịch như sau, nói về tâm
của một người không giữ bất kỳ một kiến nào trong tâm (mà chúng ta còn gọi là sơ
tâm, tâm bản nhiên, tâm nguyên sơ, tâm hài nhi), trích lời Đức Phật dạy:
“802. Trong những cái được thấy, được nghe, được nhận biết, chớ để một niệm
vi tế nào khởi lên trong tâm. Với người không nắm giữ một kiến nào như thế, làm
sao có ai trong thế giới này xếp loại được vị đó.
803. Vị đó không dựng lập, không thiên về, không nắm giữ giáo thuyết nào, không
bị dẫn dắt bởi giới luật nào hay nghi lễ tôn giáo nào. Sống với Như thị, vị đó
qua bờ, không lùi lại”.
Trong sách Khóa hư lục của Trần Thái Tông, nơi phần Niêm tụng kệ, chúng
ta sẽ thấy rằng trong hai công án đầu tiên, là chỉ về sơ tâm, là tâm chưa hiển
lộ, là tâm chưa ra thai mẹ nhưng đã độ người, là đứa bé không hình dạng chưa
từng rời quê nhưng lại có khả năng đưa người qua bến mê mà không cần thuyền gỗ
hay phao bè. Nơi công án thứ nhì, sơ tâm này là chỉ cho Thế Tôn khi mới ra đời,
đã đưa một tay chỉ trời, một tay chỉ đất và nói “Trên trời, dưới đất, chỉ mình
ta là tôn quý”. Chính cái “ta” đó là cái sơ tâm, là cái vô ngã, là cái không
hình dạng, là cái tâm nguyên sơ luôn tươi mới, luôn luôn có công năng đưa người
qua bờ giải thoát. Nơi đây, xin trích bản dịch của Thầy Thích Thanh Từ.
“1.- Cử: Thế Tôn chưa rời Đâu suất đã giáng vương cung, chưa ra thai mẹ độ
người đã xong.
Niêm: Gươm báu chưa vung, tướng quân đã lộ.
Tụng: Đứa bé không hình chửa rời quê,
Sớm tối đưa người qua bến mê.
Cất bước ngao du không xen cách,
Chẳng cần thuyền gỗ với phao bè.
2.- Cử: Thế Tôn mới sanh, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất nói: Trên trời dưới
đất chỉ ta tôn quý.
Niêm: Một áng mây trắng che cửa động,
Đàn chim về tổ thảy quên đường.
Tụng: Đạt-đa mới giáng Tịnh vương cung,
Muốn hóa quần sanh tự hiển tung.
Bảy bước đi quanh chỉ trời đất,
Bao người con Phật mất gia phong”.
Ngài Bồ-đề Đạt-ma có chữ để gọi “cái sơ tâm không hình, không tướng mạo” này là
“tánh” và nói rằng hễ thấy tánh là thành Phật.
Bài kệ của ngài là:
Bất lập văn tự;
Giáo ngoại biệt truyền;
Trực chỉ nhơn tâm;
Kiến tánh thành Phật.
Dịch: Không dựa vào chữ nghĩa, văn tự, lời nói; pháp này nằm ngoài kinh điển,
chỉ truyền riêng [cho người thích hợp thôi]. Chỉ thẳng vào tâm người, hễ thấy
tánh là thành Phật.
Nói không dựa vào văn tự, chữ nghĩa, vì chỉ vào sơ tâm, chỉ vào tâm vô niệm, tâm
bản nhiên, nên không có lời nói hay chữ nghĩa (sản phẩm của quá khứ) nào có thể
nói được. Pháp này nằm ngoài kinh điển, nhưng thực tế vẫn có trong một số kinh
trong tạng Pāli. Thấy tánh tức là thấy cái sơ tâm, hay là cái tâm chưa sinh này.
Khi đọc kinh Ud 1.10 (Bahiya Sutta) trong Tiểu bộ, tạng Pāli,
chúng ta sẽ thấy Đức Phật chỉ cho ngài Bahiya cách tiếp cận sơ tâm, và ngài
Bahiya trở thành A-la-hán trong thời gian rất ngắn sau đó, kể như là chớp
nhoáng, hốt nhiên giải thoát. Nghĩa là, sơ tâm hay tâm chưa sinh không phải tâm
ở đây hay ở kia, không phải tâm có nắm giữ nào và là không tâm, và đó là giải
thoát.
Kinh ghi lời Đức Phật dạy ngài Bahiya, nơi đây chúng ta dịch lại như sau:
"Khi nào, này Bahiya, đối với ngươi, trong cái thấy chỉ là cái được thấy;
trong cái nghe chỉ là cái được nghe; trong cái cảm thọ chỉ là cái được cảm thọ;
trong cái nhận biết chỉ là cái được nhận biết, thì này Bahiya, ngươi sẽ không 'ở
với cái đó'. Khi nào, này Bahiya, ngươi không 'ở với cái đó', thì này Bahiya,
ngươi sẽ không 'ở trong cái đó'. Khi nào, này Bahiya, ngươi không 'ở trong cái
đó', thì này Bahiya, ngươi sẽ không ở đây, cũng không ở phía bên kia, cũng không
ở chặng giữa hai nơi đó. Chỉ như vậy là chấm dứt khổ đau".
Cuối bài kinh Bahiya, Đức Phật đọc bài kệ sau khi chứng nhận rằng Bahiya
đã trở thành một vị A-la-hán. Nơi giải thoát đó, chính là nơi xa lìa đất nước
gió lửa, không mặt trời, không mặt trăng, nơi chỉ có ánh sáng trí tuệ. Nơi đây,
chúng ta dịch bài kệ như sau.
“Nơi mà không có nước, không có đất, không có lửa hay không khí, nơi đó không
có sao sáng, không có mặt trời chiếu sáng, không có mặt trăng chiếu sáng, nhưng
nơi đó không có bóng tối ngự trị.
Khi một vị Thánh, một Bà-la-môn, đã tự mình biết điều này thông qua trí tuệ của
chính mình, thì người đó được giải thoát khỏi cõi Sắc và cõi Vô sắc, giải thoát
khỏi cả niềm vui và đau khổ”.
Khi cái thấy chỉ là cái được thấy, và cái nghe chỉ là cái được nghe. Nơi đó,
thực sự là không cón tứ đại (đất, nước, gió, lửa) vì nơi đó đã xa lìa (tự thân
đã xa lìa) các cõi Sắc và Vô sắc. Khi tâm thường trực là sơ tâm như thế, chỉ còn
là một cái biết lặng lẽ, không gì vương vào. Kinh Viên giác gọi đó là
“tri huyễn tức ly”.
Đó là cái tâm thấy huyễn. Tại sao tâm thấy huyễn chính là sơ tâm, vì trong sơ
tâm luôn luôn là tâm “tự làm cho không biết”, cũng tức là tâm luôn luôn nhìn
thấy các pháp hiển lộ trong huyễn tướng, do vậy tâm thấy huyễn này không hề trụ
vào đâu, không hề dính tới bất kỳ sắc thanh hương vị xúc pháp nào. Cũng tương
tự, người nghe tiếng đàn, thường trực nhận ra tiếng đàn là huyễn, luôn luôn hiển
lộ trong huyễn tướng, thì ngay khoảnh khắc biết chính là khoảnh khắc xa lìa tham
sân si.
Kinh Viên giác, bản dịch Thầy Thanh Từ, nơi chương Phổ Hiền, trích: “-
Này thiện nam, biết pháp huyễn hóa tức lìa, chẳng khởi phương tiện, lìa pháp
huyễn hóa liền giác, cũng không có thứ lớp. Tất cả Bồ-tát và chúng sanh đời sau
y đây tu hành. Như thế mới hằng lìa các huyễn”.
Ngay khi biết là giải thoát, không cần mài giũa, vì hễ mài giũa lại rơi vào quá
khứ của cái đã biết. Và khoảnh khắc đó còn gọi là “tâm không biết”, vì không có
gì để níu giữ trong cái biết liên tục tươi mới này. Hãy thường trực như thế, còn
gọi là sống với Như thị, vì không có gì để nắm giữ hay xô đẩy. Đó chính là sống
với sơ tâm.