Nhưng trong đạo, “chiếc áo không làm nên nhà sư” lại có ý
vị sâu
xa khác, ví dụ một nhà
sư vì hoàn
cảnh binh đao hay thời
kỳ tao loạn, ảnh
hưởng tính
mạng, khoác áo thường
dân để ẩn
dật thì dù mặc y
phục kiểu gì, lúc
ấy bản
thể của Tỳ-kheo cũng không mất đi.
Bình nhật trở
lại, nhà
sư cũng không thể mặc hoài y
phục thế
gian là thành ông sư, “chiếc y làm nên nhà sư”. Song, trọng
ca-sa hay trọng giới
thể đó là điều chúng
ta cần bàn.
Câu chuyện trong chùa. Tôi có vị sư
huynh đang tu
học theo hệ Phật
giáo Bắc
tông, sinh
hoạt tại một ngôi cổ
tự - Sài Gòn, sư
huynh thọ
giới Cụ
túc năm 1991, nay có ý
muốn chuyển sang Phật
giáo Nam
tông. Vì nghĩ rằng chiếc y của mình đang khoác không phải màu
y của Phật
giáo nguyên thủy chính
thống, tuy
nhiên còn phân vân chưa dứt
khoát, với lý
do nếu qua đó phải làm Sa-di và thọ
giới Cụ
túc lại từ đầu…
Giới thể vô
biểu
Trong Phật
giáo Bắc
tông có hai vị Trưởng
lão kỳ túc đã đổi y từ Bắc
tông sang Nam
tông nhưng không hề thọ
giới lại theo truyền
thống Nam truyền, đó là Hòa
thượng Thích Minh
Châu và Hòa
thượng Thích Đỗng Minh.
Năm 1978, Hòa
thượng Đỗng Minh bị
bắt, sau hai năm ở tù trở
về, Ôn đổi y Bắc
tông sang y Nam
tông, không vì chuyện này mà nói rằng giới
thể “vô biểu” của Ôn bị mất hoàn
toàn. Thầy Tuệ Sỹ viết về Ôn: Hòa
thượng là một số rất ít trong các Tỳ-kheo trì
luật của Tăng-già Việt
Nam kể từ khi Phật
giáo được trùng hưng, Tăng thể được chấn
chỉnh và khôi phục… Ngài xứng đáng là bậc Long
Tượng trong chốn tòng
lâm, đời
sống phạm
hạnh nghiêm túc, phản
chiếu giới
đức sáng
ngời, tịnh như băng tuyết1. Và khi Ôn viên
tịch, Hòa
thượng Trí
Quang kính tiến tán
tụng: “Kính cúng
dường bậc Đại
đức tôn quý trong hàng tứ
chúng, một
đời trì
luật, thuận Giới giải
thoát (prātimokṣa)” (Phụng cúng chúng trung
tôn, thiện thuận giải
thoát giới 奉供眾中尊善順解脫戒)2.
Vị Tôn trưởng thứ hai, Hòa
thượng Thích Minh
Châu sinh năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành, Quảng Nam.
Năm 1946, Hòa
thượng xuất
gia đầu sư với ngài Tịnh Khiết (Đức Đệ nhất Tăng
thống GHPGVNTN) tại tổ đình Tường
Vân, thành phố Huế. Năm 1949 (Kỷ Sửu) thọ
Cụ túc giới tại Giới
đàn Hộ
Quốc chùa Báo
Quốc.
Năm 1952, Hòa
thượng du học tại Sri Lanka, sau đó sang Ấn
Độ học tại Đại
học Bihar. Tháng 4 năm 1964, trở
về nước, Hòa
thượng làm Viện trưởng Viện Đại
học Vạn Hạnh3... Hòa
thượng thọ
giới theo truyền
thống Bắc
tông (Pháp
tạng bộ) rồi chuyển
y Nam
tông, thời điểm chuyển
y không thấy sử liệu nào ghi chép, có thể là trong giai đoạn
du học?
Từ thời Phật, khi Ngài chế định việc truyền
giới Cụ
túc phải hiện
diện 10 vị Tỳ-kheo mới đủ thẩm
quyền để tiến hành việc truyền
giới Cụ
túc và nghi
thức được tiến hành thông qua ba lần hỏi (yết-ma) lấy biểu
quyết của Tăng, và một
lần tác
bạch thưa thỉnh trước đó là bốn lần, gọi là Bạch
tứ yết-ma (jñapticaturthaṃ karma)4, cho
đến nay cả hai hệ: Phật
giáo Nam
tông y
cứ trên luật
tạng Pāli và Bắc
tông y
cứ hệ luật
Tứ phần đều thực
hiện như nhau.
Và theo các nhà Hữu
bộ luận
giải, khi giới
tử phát sinh tâm
niệm cầu
thọ Cụ
túc giới, được dẫn vào trước Tăng, thành
khẩn nói những lời cầu
thỉnh giới
sư v.v… cho
đến khi Tăng đã thực
hiện một
lần tác
bạch và ba lần yết-ma, tất cả những diễn
tiến này đều được gọi là gia
hành của nghiệp
đạo. Sau khi Tăng đã hoàn
tất Bạch
tứ yết-ma, giới
thể vô
biểu đã phát sinh nơi giới
tử.
Vô biểu (Skt. avijñapti, 無表) là những thế
lực điều động các hoạt
động của thân và ngữ, không biểu
lộ ra bên ngoài cho người khác có thể thấy. Thế
lực đó là khả năng phòng hộ của giới. Nó giống như sự phản xạ
có điều
kiện của một người học võ do tập luyện lâu ngày, có khả năng
phòng vệ sinh mạng của mình trong bất cứ lúc nào và dưới bất cứ trường
hợp nào5. Và năng
lực phòng hộ này chỉ mất với những trường
hợp như sau:
Luật Pāli (Vin. 3.
26), Tứ
phần (p.571b12) v.v… giải
thích: thứ nhất, đối
diện với người có khả năng hiểu mình muốn nói gì, tuyên
bố từ
bỏ học
xứ, như nói: “Tôi bỏ Phật, Pháp, Tăng, … xả giới, xả luật,
muốn làm cư sĩ…” là mất giới. Thứ hai là phạm ba-la-di (pārājika) là
mất giới. Luận Câu-xá6 giảng
thêm: Mất giới khi mạng
chung (xả tụ đồng
phần 捨聚同分); bị lưỡng tính ái nam ái
nữ (nhị
căn chuyển
sinh 二根轉生); thiện
căn bị đoạn (善根斷), như khởi tà
kiến không tin nhân
quả, tham, sân, si trỗi dậy làm mất thiện
căn, mất giới. Không thấy giáo
nghĩa nào nói, một Tỳ-kheo thay đổi y
phục sang hệ phái cùng tông
phái Phật
giáo là mất giới. Ngoại trừ Tỳ-kheo nào ưa
thích muốn làm đệ
tử ngoại
đạo (titthayasāvakabhāvaṃ patthayamāno), cải
tông mới mất giới
hoàn toàn. Vậy vì sao Phật
giáo Nam
tông không
chấp nhận giới
thể của hệ Bắc
tông thọ
trì theo hệ Tứ
phần - Pháp
tạng bộ?
Tư tưởng tự tôn của tông
phái
Mặc dù, Hòa
thượng Minh
Châu và Ôn Đỗng Minh đổi y nhưng Phật
giáo Nam
tông tại Việt
Nam lúc bấy giờ cũng không công
nhận là được “chân truyền”. Sự
thật lịch
sử:
Tháng 4-1976, Pol Pot lên nắm quyền Campuchia, bãi
bỏ mọi tôn
giáo, tiêu
diệt các nhà
sư Phật
giáo. Năm 1978, Việt
Nam giúp Campuchia lật đổ chế độ Pol Pot và phía chính quyền Việt
Nam muốn giúp Phật
giáo Nam
tông tại đây được khôi phục, cho nên tổ chức một phái
đoàn Phật
giáo Nam
tông từ Việt
Nam sang truyền
giới cho các nhà
sư Campuchia.
Theo tài
liệu của Đỗ Trung
Hiếu ghi chép, phái
đoàn gồm 12 người: 1. Hòa
thượng Bửu Chơn (trưởng đoàn); 2. Hòa
thượng Giới Nghiêm (phó đoàn); Thượng
tọa Siêu
Việt, Thượng
tọa Minh
Châu, Thượng
tọa Thiện
Tâm v.v... Ngày 17-9-1979, đoàn Phật
giáo Việt Nam lên
đường. Đến nơi, chiều ngày 18,... Tiếp ngày hôm sau, đúng 9
giờ sáng ngày 19-9 (1979), lễ
xuất gia được tổ chức tại chùa Ounalon (chùa lớn nhất Phnôm
Pênh, nơi vua sãi ở). Có 7 vị sư Campuchia xuất
gia. Hòa
thượng Giới Nghiêm làm thầy tế
độ, Thượng
tọa Siêu
Việt, Thượng
tọa Thiện
Tâm làm Yết-ma, các vị khác làm thành viên của buổi
lễ. Riêng Thượng
tọa Minh
Châu vì là Bắc
tông nên chỉ tham
dự với tư
cách khách danh dự7.
Vì sao Hòa
thượng Minh
Châu không được tham
dự chính
thức, nếu nói do ngài không thạo tiếng Campuchia thì điều này
không hợp lẽ, trong phái
đoàn cũng có Thượng
tọa Thiện
Tâm không biết tiếng Campuchia, lại làm Yết-ma. Tập tài
liệu của ông Hiếu có nhấn
mạnh rõ
ràng: “Ngoài Thượng
tọa Minh
Châu, tất cả sư đều là Nam tông”.
Trường hợp của Ôn Đỗng Minh cũng không ngoại lệ, Ôn từng kể
cho chúng
tôi nghe, có lần Ôn muốn nghiên
cứu cách thức tác
pháp yết-ma của Tăng-già Nam
tông, Ôn đến tham
dự nhưng chỉ dự khán, ngồi bên ngoài Sīmā, tức
chỉ cho cương giới của Tăng Nam
tông yết-ma truyền
giới Cụ
túc. Vì Ôn không phải túc số của Tăng, ngồi vào trong thì buổi
lễ yết-ma đó sẽ bất thành.
Nghi thức truyền
giới Cụ
túc của hai hệ
Nam tông và Bắc
tông tuy sai khác về văn bản tụng đọc và lễ
nghi tổ chức nhưng túc số Tăng để yết-ma cũng 10 vị Tỳ-kheo
mà thôi. Bên Bắc
tông có thêm vị dẫn thỉnh (điển lễ) và bốn vị giám đàn, xét
trên nguyên tắc những người này không cần
thiết, chỉ ảnh
hưởng tập tục nghi tiết của Trung
Quốc, họ không được tính trong túc số Tăng 10 vị.
Theo chúng
tôi biết, hiện nay tại Việt
Nam, cả hai hệ phái tổ chức giới
đàn, trong túc số 10 vị không thấy có sự thỉnh
mời tham
dự xen
lẫn. Giả
thuyết, sư Bắc
tông không thể tụng đọc Pāli, hay sư Nam
tông không biết tụng đọc âm Hán-Việt, nên không thể ngồi
chung; hoặc lý
luận, bên nào quen với truyền
thống bên đó, càng không đúng. Phải
chăng chính do đôi bên tự tôn tông
phái, nảy sinh tính kỳ thị, mới có chuyện không
chấp nhận nhau và có thành
kiến với y
phục, cả sự đắc
giới của đôi bên. Thời
xưa, những vùng miền linh
hoạt luật học thì không bao giờ có chuyện này.
Giới đàn hiện
diện nhiều bộ
phái
Sử liệu lưu
truyền, vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch, Mahinda (摩哂陀,
Ma-sẩn-đà) con trai vua A-dục (Aśoka) nhận Moggaliputta Tissa
(目犍連子帝須, Mục-kiền-liên Tử Đế-tu) làm Hòa
thượng bổn sư (upādhyāya), Mahādeva (大天 Đại
Thiên) là Hòa
thượng (A-xà-lê, ācārya, 阿闍黎) truyền 10 giới Sa-di;
Madhyāntika (摩闡提 Ma-xiển-đề) là Hòa
thượng (A-xà-lê) truyền
giới Cụ
túc.
Trong một giới
đàn có ba hệ phái cùng tham
dự: Moggaliputta Tissa là người Phân
biệt thuyết bộ (Vibhajyavādin), Mahādeva là phái Đại
chúng (Mahāsaṅghika), Madhyāntika là Thuyết
nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin)8. Mahinda chính là Sơ
tổ Phật
giáo Nam
tông bây giờ. Mahinda cùng các vị đại
đức Iṭṭhiya (Iddhiya), Uttiya, Bhaddasāla và Sambala đến Tích
Lan truyền
giáo theo sắc lệnh vua cha và nhóm này hình thành Thượng
tọa bộ, còn gọi Đồng
diệp bộ (Tāmraśāṭīyas, bộ
phái mặc màu y lá đồng đỏ)9, cho
đến tận ngày nay dấu
chân hoằng hóa của họ phát triển khắp nơi trên thế
giới.
Tại Trung Hoa, thời
kỳ đầu Phật
giáo du
nhập, lúc này Tăng sĩ chỉ cạo
tóc xuất
gia, thọ
trì tam
quy ngũ giới, không có luật
nghi. Đến năm 250, niên hiệu Gia
Bình thời Tào Ngụy, Đàm-ma-ca-la (Dharmakāla) người Ấn
Độ đến Lạc
Dương, dịch Tăng-kỳ giới tâm; năm 254, niên hiệu Chánh
Nguyên, Sa-môn Đàm-đế người An
Tức cũng đến Lạc
Dương dịch Đàm-vô-đức
bộ Tứ
phần giới
bổn, thỉnh đủ 10 vị Phạn
tăng tổ chức pháp yết-ma truyền
giới Tỳ-kheo. Đó là giới
đàn truyền
giới Tỳ-kheo đầu tiên tại Trung Hoa. Không rõ 10 vị Tăng
được thỉnh
mời thuộc tông nào nhưng theo tư liệu Hán dịch nói rằng
Đàm-ma-ca-la và Đàm-đế thuộc tông
Pháp tạng bộ trì Luật
Tứ phần10.
Về Ni
giới. Cho
đến đời Tấn, niên hiệu Thăng Bình (357), Sa-môn
Đàm-ma-kiết-đa lập giới
đàn truyền
giới Tỳ-kheo-ni cho Tịnh
Kiểm và bốn cô nữa. Đây được kể là Tỳ-kheo-ni đầu tiên tại Trung
Quốc, nhưng không đủ nhị
bộ Tăng, mà trực tiếp truyền từ Tỳ-kheo Tăng. Vì bấy giờ Trung
Quốc chưa có Ni thì không thể đủ hai bộ để truyền như luật
định. Đàm-ma-kiết-đa cho rằng giới từ Đại
Tăng mà có, nay Đại
Tăng đủ số thì có thể truyền.
Sau đó, vào năm Nguyên Gia 6 (429), có Sa-môn Cầu-na-bạt-ma
(Guṇavarma) đến Trung
Quốc, ni
cô Huệ
Quả đem vấn
đề thọ
giới đắc
pháp ra hỏi, ngài trả
lời: không đắc, vì không đủ nhị
bộ Tăng. Lúc bấy giờ tại Trung
Quốc có 8 vị Tỳ-kheo-ni từ Tích
Lan sang, nhưng Cầu-na-bạt-ma cho là chưa đủ số thập sư nên
chưa chịu tổ chức giới
đàn. Theo lời khẩn cầu của các Ni
cô bấy giờ, Cầu-na-bạt-ma cử người sang đảo Sư
Tử, tức Tích
Lan ngày nay, thỉnh thêm cho đủ Thập ni
để truyền
giới.
Về sau, có thêm Thượng
tọa ni Thiết-sách-la cùng bốn vị nữa từ đảo Sư
Tử sang, nhưng bấy giờ Cầu-na-bạt-ma đã tịch. Giới
đàn khi ấy do Tăng-già-bạt-ma (Saṃghavarman) tổ chức, đủ túc
số hai bộ Tăng truyền
giới Tỳ-kheo-ni. Đây gọi là chính
thức Tỳ-kheo-ni như
pháp được truyền thọ tại Trung Quốc11. Chúng
ta thấy, giới
đàn Ni, trong 10 vị Tăng, Tăng-già-bạt-ma là người Hữu
bộ, những vị Tăng khác có thể
Pháp tạng bộ hoặc Hữu
bộ, còn thập sư Tỳ-kheo-ni là Đồng
diệp bộ (Phật
giáo Nam
tông).
Luận kết
Giới thể của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni được thẩm
định từ người hành
trì Phạm
hạnh và thọ
giới đúng pháp yết-ma, chứ không đánh
giá hình
thức bề ngoài sắc phục là tông
phái nào. Giáo
pháp và quy
chế của Phật vừa cố định vừa quy
ước, nó đã thích
nghi với một xã
hội Ấn
Độ trước thế kỷ thứ V trước Tây lịch.
Về sau, Phật
giáo truyền đến các nước, chư Thánh đệ
tử đã linh
hoạt với nếp
sống hòa nhập, sao cho
không trái phạm với nền tảng giới
luật của Phật chế. Mục
đích giữ luật không phải cực
đoan, cục bộ hay tự tôn tông
phái. Ngày nay Phật
giáo Bắc
tông là Pháp
tạng bộ (Dharmaguptaka), hệ
thống kinh
điển và Luật
tạng gần như là bản sao của Phật
giáo Nam
tông.
Phật giáo Nam
tông hay gọi Phật
giáo Nam truyền cũng xuất
phát từ Phân
biệt thuyết bộ (Vibhajyavādin), Tam
tạng thánh
giáo và nếp
sống gần nguyên
thủy, chứ hoàn
toàn không phải Phật
giáo nguyên thủy. Chính Bhikkhu Bodhi là nhà
sư Nam
tông cũng công
nhận điều này12. Nếu nói là Phật
giáo nguyên thủy là chỉ cho Phật
giáo tiền bộ
phái (Pre-sectarian Buddhism) hay gọi Phật
giáo sơ kỳ (Early Buddhism), tức
chỉ cho thời Đức
Phật tại
thế và kéo dài đến triều
đại vua A-dục (Aśoka) (c. 268 đến 232 BCE) mà thôi13.
Năm 1998, tại Bồ
Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) Ấn
Độ, tổ chức giới
đàn truyền
giới Cụ
túc, với sự hiện
diện đầy đủ của nhị
bộ Tăng-già, bên Tăng có sư Nam
tông, Bắc
tông, bên Ni là các Tỳ-kheo-ni Đài
Loan. Trong giới
đàn có một số giới
tử Ni đến từ Tích
Lan (Sri Lanka), Nepal… Thế nhưng những giới
tử Ni đến từ Tích
Lan (Sri Lanka) đã bị Giáo
hội Tăng-già tại Tích
Lan từ chối sự đắc
giới của họ, cho rằng đó là giới
pháp của Đại
thừa (Mahāyāna)14. Sự
thật này có ghẻ lạnh, vô cảm đến mấy thì Tăng
đồ Nam
tông cũng không thể quên đi lịch
sử quá
khứ, Mahinda Sơ
tổ Phật
giáo Nam
tông đã đắc
giới từ ba vị thầy thuộc ba bộ
phái khác nhau, trong đó Mahādeva là phái Đại
chúng phát triển thành
Phật giáo Đại
thừa sau này.
(Tưởng niệm Ân sư Tuyên Luật
sư Thích Đỗng Minh, viên
tịch 11-5-Ất Dậu - 2005)
Tâm Nhãn
-------------------------------------------------------------
(Giác
Ngộ giữ văn phong
và quan
điểm cũng như các xưng
hô của tác
giả, chỉ xử lý về kỹ thuật theo quy
định của tòa soạn).
1. Tự ngôn trong bản Việt dịch Luật
Tứ phần, thầy Tuệ Sỹ viết tại Quảng
Hương Già-lam, Cuối Đông, 2549.
2. Kỷ yếu Tưởng niệm Tôn
sư, tr.71.
3. https://giacngo.vn/tieu-su-truong-lao-htthich-minh-chau.
4. Luật
tạng: Thập tụng: p.148b12-17; Tứ
phần: p.799c12-29; Ngũ
phần: p.111b2-23, 25; Pāli: I, 28, 3-6, 31, 2; Tăng-kỳ: cf.
pp.412b26 - 413a6, p.416b7-10.
5. Tuệ Sỹ, Yết-ma yếu
chỉ (2011), chương i và chương iii.
6. 《阿毘達磨俱舍釋論》卷11, T29, no. 1559, p.235c3.
7. https://vi.wikipedia.org/wiki/Pol_Pot & “Thống nhất Phật
giáo Việt Nam – 1994”, tr. 8-11, Đỗ Trung
Hiếu.
8. 印順導師, 初期大乘佛教之起源與開展, p.409.
9. Dīpaṃvasa (Đảo
vương thống sử, ch. VIII), Mahāvaṃsa (Đại
vương thống sử, ch. XII), Samantapāsādikā (Nhất
thiết thiện kiến luật chú, pp.63, 19-69, 15); Chuan Cheng,
Designations of Ancient Sri Lankan Buddhism in the Chinese Tripitaka
(Journal of the oxford centre for buddhist studies, vol. 2), p.104.
10.《四分律刪繁補闕行事鈔》卷2, T40, no. 1804, p.51c4 & 《佛祖統紀》卷29, 35, T49, no.
2035, p.296c7, p.332a12.
11.《四分律刪繁補闕行事鈔》卷2, p.51c4; 《高僧傳》卷3, T50, no. 2059, p.342b11; Tuệ
Sỹ, Một thời truyền
luật.
12. Bhikkhu Bodhi, The
revival of Bhikkhunī ordination in the Theravāda tradition, p.35-36.
13. Griffiths, Paul J. (1983) “Buddhist Jhana: A Form-Critical
Study”, Religion 13, pp.55–68. & Collins, Steven (1990) “On the Very
Idea of the Pali Canon”, Journal of the Pali Text Society 15,
pp.89–126.
14. Bhikkhu Bodhi, p.36.