Thực Hành Thiền Chỉ Quán
Nguyên Giác
Thực Hành Thiền
Chỉ Quán
Nguyên Giác
Bài này được viết để khảo sát và mời gọi thực
hành Thiền
Chỉ Quán. Đây là pháp
môn giải
thoát do Đức
Phật dạy, có hiệu
lực cực kỳ nhanh chóng, có thể cảm nhận tăng
thượng ngay trong vài ngày, hay thậm chí ngay trong vài phút đồng hồ.
Những gì được viết nơi đây sẽ chủ yếu dựa
vào Kinh Phật, bởi vì người viết tự thấy sức tu, sức học đều kém, tự thấy
không có thẩm
quyền riêng nào.
Đức Phật nói rằng đây là pháp để giải
thoát. Nương theo pháp này sẽ dễ dàng đoạn tận tham, sân, si. Trong Tăng
Chi Bộ, Kinh AN 2.21-31, bản dịch của Thầy Minh
Châu, Đức
Phật dạy:
“Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo,
thuộc thành
phần minh. Thế nào là hai? Chỉ
và Quán. Chỉ được tu
tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi
ích gì? Tâm được tu
tập. Tâm được tu
tập, chờ đợi lợi
ích gì? Cái gì thuộc về tham được đoạn tận. Quán được tu
tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi
ích gì? Tuệ được tu
tập. Tuệ được tu
tập, chờ đợi lợi
ích gì? Cái gì thuộc vô
minh được đoạn tận. Bị tham làm uế nhiễm, này các Tỷ-kheo, tâm
không thể giải
thoát. Hay bị vô
minh làm uế nhiễm, tuệ không được tu
tập. Do vậy, do ly
tham, là tâm
giải thoát. Do đoạn vô
minh, là tuệ
giải thoát.” (1)
Để độc
giả có lòng
tin vào Thiền
Chỉ Quán, nơi đây xin giải
thích thêm. Rằng trong vài thập niên qua, chúng
ta không nghe nói
nhiều về Thiền
Chỉ Quán. Thậm chí trên YouTube, một số tu
sĩ lại nói rằng Đức
Phật dạy rằng Tứ
Niệm Xứ là pháp duy
nhất để giải
thoát, ngoài
ra đều là không cần hoặc là của ngoại
đạo. Lời
nói đó dựa
vào một bản dịch thiếu
sót. Nếu đọc và đối
chiếu nhiều bản dịch tiếng Anh của Tạng Pali, sẽ thấy lỗi dịch thiếu
sót đó. Thực
tế, ngay cả với người kém tiếng Anh, chỉ cần đọc và đối
chiếu nhiều Kinh trong tiếng Việt, cũng thấy lỗi dịch thiếu
sót đó. Đức
Phật đã dạy rằng có rất nhiều pháp để giải
thoát. Tuy
nhiên, cũng cần phân tích điểm này: thí
dụ, nếu chúng
ta định
danh rằng các pháp quán
bất tịnh, quán vô
thường, quán
vô ngã, quán nhàm chán… cũng chính là “niệm pháp” thì đây chính là chi
thứ tư của Tứ
Niệm Xứ. Chỗ này, độc
giả nên đọc và đối
chiếu các bản dịch tiếng Anh sẽ thấy chữ “pháp duy nhất” là cách dịch thiếu
sót.
Như trong Kinh MN 52, Đức
Phật dạy 11 pháp để giải
thoát, chứ không phải có một pháp nào là duy
nhất, theo lời giảng của ngài Ananda, trích bản dịch của Thầy Minh
Châu:
“Khi được nghe nói vậy, Gia
chủ Dasama, người ở thành Aṭṭhaka bạch Tôn
giả Ānanda: -- Bạch Tôn
giả Ānanda, như người tìm một kho tàng cất dấu, trong một lúc tìm được
mười một kho tàng cất dấu. Cũng vậy, bạch Tôn
giả, con đi tìm một pháp
môn bất
tử mà được nghe một
lần mười một pháp
môn bất
tử. Bạch Tôn
giả, như ngôi nhà người ta có đến mười một cửa, khi ngôi nhà bị cháy, thì
chỉ do một cửa người ta cũng có thể thoát ra một cách an
toàn. Cũng vậy, bạch Tôn
giả, chỉ với một cửa bất
tử trong mười một cửa bất
tử này, con có thể
đạt được sự an
toàn cho con.” (2)
Trong Kinh AN 10.60, Đức
Phật dạy có 10 pháp để giải
thoát, chứ không phải có một pháp nào là duy
nhất, và với 10 pháp này, chỉ trong vài khoảnh khắc là có thể làm thuyên
giảm bệnh. Bản dịch của Thầy Minh
Châu, trích:
“Này Ananda, nếu Thầy đi đến Tỷ-kheo
Girimànanda và đọc lên mười tưởng,
thời sự
kiện này có thể xảy ra: Tỷ-kheo Girimànanda sau khi được nghe mười tưởng,
bệnh của vị ấy có thể được thuyên
giảm ngay lập tức! Thế nào là mười? Tưởng
vô thường, tưởng vô
ngã, tưởng bất
tịnh, tưởng nguy hại, tưởng đoạn tận, tưởng từ
bỏ, tưởng đoạn
diệt, tưởng nhàm
chán đối với tất cả thế
giới, tưởng
vô thường trong tất cả hành, tưởng niệm hơi
thở vô hơi
thở ra.” (3)
Trong khi đó, với Kinh DA 12, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ, ghi lời Đức
Phật dạy về nhiều pháp dẫn đến Niết
Bàn, không hề nói rằng chỉ có một pháp nào là duy
nhất, trích:
“Thế nào là một pháp dẫn đến
Niết-bàn? Thường
tinh cần
tu niệm
xứ về thân. Đó là một pháp dẫn đến Niết-bàn...
“Thế nào là hai pháp dẫn đến
Niết-bàn? Chỉ
và quán...
“Thế nào là ba pháp dẫn đến Niết-bàn?
Ba tam-muội: không tam-muội, vô
tướng tam-muội, vô
nguyện tam-muội....
“Thế nào là bốn pháp dẫn đến
Niết-bàn? Bốn
niệm xứ: thân
niệm xứ, thọ
niệm xứ, tâm
niệm xứ, pháp
niệm xứ...
“Thế nào là năm pháp dẫn đến
Niết-bàn? Năm căn: tín
căn, tinh
tấn căn, niệm
căn, định
căn, tuệ
căn....
“Thế nào là sáu pháp dẫn đến
Niết-bàn? Sáu tư niệm: niệm
Phật, niệm
Pháp, niệm
Tăng, niệm
thí, niệm
giới, niệm
thiên...
“Thế nào là bảy pháp dẫn đến
Niết-bàn? Bảy
giác chi: niệm
giác chi, trạch
pháp giác chi, tinh
tấn giác chi, khinh
an giác chi, định
giác chi, hỷ
giác chi, xả
giác chi...
“Thế nào là tám
pháp dẫn đến Niết-bàn? Tám Hiền
Thánh đạo: chánh
kiến, chánh
tư duy, chánh
ngữ, chánh
nghiệp, chánh
mạng, chánh
tinh tấn, chánh
niệm, chánh
định....
“Thế nào là chín pháp dẫn đến
Niết-bàn? Chín thiện
pháp: 1. hỷ, 2. ái, 3. duyệt, 4. lạc, 5. định, 6. thật tri, 7. trừ xả, 8.
vô dục, 9. giải
thoát....
“Thế nào là mười pháp dẫn đến
Niết-bàn? Mười trực
đạo: chánh
kiến, chánh
tư duy, chánh
ngữ, chánh
nghiệp, chánh
mạng, chánh
tinh tấn, chánh
niệm, chánh
định, chánh giải
thoát, chánh
trí...” (4)
Thứ tự tu Chỉ
và Quán là tùy
theo học
nhân, sẽ tự tìm
thấy thế nào là thích
nghi. Trong Kinh AN 4.170, Ngài Ananda nói rằng có người tu chỉ trước,
rồi quán sau; có người tu
quán trước và chỉ sau; có người tu song hành chỉ
quán đẳng dụng; và trường
hợp thứ tư là khi dao
động trong tâm đột
nhiên dứt bặt, thì thánh
đạo hiền lộ ra.
Kinh AN 4.170, bản dịch của Thầy Minh
Châu, trích như sau:
“Tôn
giả Ananda nói như sau: -- Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào tuyên
bố trước
mặt tôi rằng, đã chứng được quả A-la-hán, tất cả vị ấy được đầy đủ bốn chi
phần này, hoặc là một trong bốn chi
phần này. Thế nào là bốn?
Ở đây, này chư
Hiền, Tỷ-kheo tu
tập quán, có chỉ đi
trước; do vị ấy tu
tập quán có chỉ đi
trước, con
đường được sanh
khởi. Vị ấy thực
hành con
đường ấy, tu
tập, làm cho sung
mãn. Do vị ấy thực
hành con
đường ấy, tu
tập, làm cho sung
mãn, các kiết
sử được đoạn tận, các tùy
miên được chấm
dứt.
Lại nữa, này chư
Hiền, vị Tỷ-kheo tu
tập chỉ, có quán đi
trước. Do vị ấy tu
tập chỉ có quán đi
trước, con
đường được sanh
khởi. Vị ấy thực
hành con
đường ấy, tu
tập, làm cho sung
mãn. Do vị ấy thực
hành con
đường ấy, tu
tập, làm cho sung
mãn, các kiết
sử được đoạn tận, các tùy
miên được chấm
dứt.
Lại nữa, này chư
Hiền, Tỷ-kheo tu
tập cả hai chỉ
quán gắn
liền với nhau. Do vị ấy tu
tập cả hai chỉ
quán gắn
liền với nhau, con
đường được sanh
khởi. Vị ấy thực
hành con
đường ấy, tu
tập, làm cho sung
mãn. Do vị ấy thực
hành con
đường ấy, tu
tập, làm cho sung
mãn, các kiết
sử được đoạn tận, các tùy
miên được chấm
dứt.
Lại nữa, này chư
Hiền, Tỷ-kheo với các dao
động đối với các pháp được hoàn
toàn dứt sạch. Này các Hiền
giả, đây là thời khi tâm của vị ấy an
trú, an tọa, nhất
tâm, định tĩnh. Với vị ấy, con
đường sanh
khởi. Vị ấy thực
hành con
đường ấy, tu
tập, làm cho sung
mãn. Do vị ấy thực
hành con
đường ấy, tu
tập, làm cho sung
mãn, các kiết
sử được đoạn tận, các tùy
miên được chấm
dứt.” (5)
Trong Kinh SA 186, bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng về chỉ
và quán như sau:
“Phật
bảo các Tỳ-kheo: Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn
lửa vô
thường mà hừng hực thì cần
phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô
thường, nên tu chỉ. Vậy để đoạn trừ những pháp vô
thường nào phải tu chỉ? Đoạn trừ sắc vô
thường nên tu chỉ; đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô
thường nên tu chỉ… […]
“…Những gì thuộc về sắc, hoặc quá
khứ, hoặc vị
lai, hoặc hiện
tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc
xa, hoặc gần; tất cả chúng chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong
nhau, phải biết như
thật và đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đa
văn Thánh đệ
tử phải chánh quán như vậy, đối với sắc sẽ sanh ra nhàm
chán, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng sanh ra nhàm
chán. Khi đã nhàm
chán rồi thì sẽ không thích, vì đã không thích nên giải
thoát, giải
thoát tri kiến: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm
hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái
sanh đời
sau nữa’.” (6)
Thiền Chỉ Quán có thể dẫn tuần
tự tới Tứ
Thiền, trong nhiều Kinh dẫn trên, như Kinh MN 52 hay như Kinh SA 964 và
nhiều Kinh khác. Tuy
nhiên, đối với riêng pháp Quán, mà không cần vào các tầng Thiền, thậm chí
không cần vào Sơ
Thiền, cũng có thể giải
thoát, trong đó nổi
tiếng có Kinh Susima Sutta còn gọi là Kinh SN 12.70, bản tương đương A
Hàm là Kinh Tu-thâm (Kinh SA 347). Hay nổi
tiếng nhất là Kinh Bahiya.
Về pháp quán để giải
thoát, trong Kinh MN 37, Đức
Phật dạy, theo bản dịch của Thầy Minh
Châu, trích: “Ở đây, này Thiên
chủ, Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng, nếu có thiên
vị đối với tất cả pháp”. Này Thiên
chủ, nếu Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng, nếu có thiên
vị đối với tất cả pháp”, vị ấy biết rõ tất cả pháp. Sau khi biết rõ tất
cả pháp, vị ấy biết một cách rốt
ráo tất cả pháp. Do biết một cách rốt
ráo tất cả pháp, nếu có một cảm
thọ nào, lạc
thọ, khổ
thọ hay bất khổ bất
lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô
thường, sống quán tánh ly
tham, sống quán tánh đoạn
diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm
thọ ấy. Vị ấy nhờ sống quán tánh vô
thường, sống quán tánh ly
tham, sống quán tánh đoạn
diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm
thọ ấy, nên không
chấp trước một vật gì ở đời; do không
chấp trước nên không phiền
não, do không phiền
não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ
tri: “Sanh đã tận, phạm
hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở
lại đời này nữa”. Này Thiên
chủ, một cách tóm
tắt, đến mức độ như vậy, một Tỷ-Kheo ái tận giải
thoát, cứu
cánh thành
tựu, cứu
cánh an
ổn khỏi các khổ
ách, cứu
cánh phạm
hạnh, cứu
cánh viên
mãn, bậc tối
thắng giữa chư
Thiên và loài
Người.” (7)
Có một cách rất tiện
lợi, Đức
Phật dạy rằng, có thể vào Sơ
Thiền -- trạng
thái hỷ
lạc sau khi tâm ly
dục, ly bất
thiện pháp, có tầm (hướng tâm vào), có tứ (dán tâm vào), nhất
tâm – và từ Sơ
Thiền quán vô
thường, quán
vô ngã, quán
không, quán khổ thì sẽ giải
thoát. Đối với người đắc Sơ
Thiền, người này có thể giữ trạng
thái này trong cả khi đi, đứng, nằm, ngồi… và nếu thường
trực giữ như thế, nếu chưa giải
thoát, khi cuối đời sẽ hóa
sanh, tức là sanh
thiên, đắc
quả Bất
Lai (A
Na Hàm) và từ đó sẽ vào cõi bất
tử, nhập
Niết bàn.
Đức Phật dạy như thế (từ Sơ
thiền vào giải
thoát) trong Kinh AN 9.36, bản dịch của Thầy Minh
Châu như sau:
“Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng: “Y chỉ
vào sơ
Thiền, các lậu
hoặc được đoạn tận”, như vậy được nói đến. Do duyên gì, được nói đến như
vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục… chứng và trú sơ
Thiền. Vị ấy, ở đây đối với cái gì thuộc về sắc, thuộc về thọ, thuộc
về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức, các pháp ấy, vị ấy tùy quán là vô
thường, là khổ, là bệnh, là mụt nhọt, là mũi tên, là va
chạm, là tật bệnh, là khách lạ, là biến
hoại, là trống không, là vô
ngã. Vị ấy tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm
mình khỏi những pháp ấy, vị ấy hướng dẫn đến giới bất
tử: “Đây là tịch
tịnh, đây là thù
thắng, tức là sự chỉ
tức tất cả hành, sự từ
bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát
ái, ly
tham, đoạn
diệt, Niết-bàn”. Vị ấy trú ở đây, đạt
đến sự diệt tận các lậu
hoặc, nếu
không diệt tận các lậu
hoặc, với pháp
ái ấy, với pháp
hỷ ấy, do đoạn
diệt năm hạ phần kiết
sử, là vị hóa
sanh, tại đấy chứng được Niết-bàn, không còn trở lui thế
giới này nữa.” (8)
Như thế nào để biết
mình đã vào Sơ Thiền? Đó là một cảm
thọ hỷ
lạc trên toàn
thân được Đức
Phật mô
tả trong Kinh AN 5.28, bản dịch của Thầy Minh
Châu như sau:
“Này các Tỷ-kheo, như thế nào là sự tu
tập Thánh chánh
định gồm
có năm chi phần? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục… chứng đạt và an
trú Thiền thứ nhất với tầm, với tứ. Vị ấy thấm
nhuần, tẩm ướt, làm cho sung
mãn, tràn đầy thân mình với hỷ
lạc do ly
dục sanh, không một chỗ nào trên toàn
thân không được hỷ
lạc do ly
dục sanh ấy thấm
nhuần. Ví
như, này các Tỷ-kheo, như một người hầu tắm hay đệ
tử hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy
với nước. Cục bột tắm ấy được thấm
nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với
nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thấm
nhuần, tẩm ướt, làm cho dung mãn, tràn đầy thân này với hỷ
lạc do ly
dục sanh, không một chỗ nào trên toàn
thân không được hỷ
lạc do ly
dục sanh ấy thấm
nhuần.” (9)
Cách để vào Sơ
Thiền tiện nhất là qua hơi
thở. Nên chú
tâm vào hơi
thở dịu
dàng, nơi cảm
thọ ấm, thoải
mái, nhẹ nhàng nơi hai đầu mũi khi hơi
thở vào và ra. Buông
bỏ hết tất cả mọi chuyện, buông hết tất cả những gì khởi lên trong tâm.
Khi thấy 5 yếu
tố hiện
ra: tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất
tâm (applied thought, sustained thought, rapture, happiness, and
one-pointedness of mind) thì đó là Sơ
thiền. Trong Kinh AN3.63, Đức
Phật nói rằng ngài trong các thời đi đứng nằm ngồi đều có thể an trụ nơi
bốn tầng thiền, tùy
ý. Thực
tế, chúng
ta nên nhắm tới Sơ
Thiền là đủ, vì sẽ dựa
vào nơi đây để quán vô
thường để giải
thoát.
Tới đây, chúng
ta nói tới Thiền
Chỉ Quán trong “Luận Đại
Thừa Khởi
Tín” một tác phầm của Ngài Mã
Minh Bồ Tát. Pháp này còn gọi là Chơn
Như Tam
Muội. Nơi đây, chúng
ta dựa
vào bản Việt dịch của Thầy Thích Thiện Hoa trong ấn bản năm 1961 dịch và
giảng tại Phật
Học Đường Nam Việt.
Chúng ta có thể đối
chiếu Thiền
Chỉ Quán này với Thiền
Tông của Bồ
Đề Đạt Ma. Pháp này không nói về các tầng thiền, vì pháp
Chỉ Quán này, còn gọi là Chơn
Như Tam
Muội là không nương vào đất, nước, gió, lửa (buông tứ
đại), không nương vào thấy, nghe, hay biết (buông cả danh-sắc, hay là
buông cả thân-tâm), không
tưởng cảnh
giới ngoài tâm (ngoài dứt muôn duyên), không khởi tưởng niệm (trong không
khởi niệm), nơi cái được niệm tưởng tư lường biến mất và chính ngay cái tâm đang
niệm tưởng tư lường cũng biến mất (ảnh chiếu và gương chiếu đều được nhận
ra là không, là rỗng, là tịch lặng).
Chương thứ tư Tín
Tâm Tu
Hành được Thầy Thích Thiện Hoa dịch như sau:
“Thế nào là tu Chỉ, Quán?_ "Chỉ"
nghĩa là đình
chỉ tất cả các vọng
tưởng (định), để tuỳ
thuận theo quán
không (xa
ma tha); "Quán" nghĩa là quán
sát các tướng nhơn
duyên sanh
diệt (huệ) để tuỳ
thuận theo quán giả (tỳ bác xa
na). Sao gọi là tuỳ thuận?_ Do hành
giả từ từ tu
tập, một
lần cả Chỉ
và Quán, đều không rời nhau, nên gọi là tuỳ
thuận.
Nếu tu "Chỉ" (định) hành
giả phải ở chỗ thanh
vắng, ngồi ngay thẳng, tâm chơn chánh, chẳng nương hơi
thở, chẳng nương hình
sắc và hư
không, chẳng nương đất, nước, gió, lửa; chẳng nương thấy, nghe, hay
biết, cho
đến các tưởng niệm đều diệt
trừ, rồi hành
giả dẹp luôn cái "tâm niệm" trừ tưởng niệm nữa.
Do tất cả các pháp từ hồi
nào đến giờ, mỗi niệm không sanh, mỗi niệm không diệt, nên hành
giả phải không các tưởng niệm và cũng không
tưởng cảnh
giới ngoài tâm, rốt sau rồi lấy tâm trừ tâm. Nếu tâm vọng
tưởng rong ruỗi, thì hành
giả phải liền đem trở
lại chánh
niệm. Phải biết "Chánh niệm" đây, tức là "Duy tâm", không có ngoại
cảnh. Và cái tâm này cũng không hình
tướng gì có thể tưởng niệm được.
Lại nữa, trong tất cả thì
giờ, khi đi đứng nằm ngồi, tới
lui qua lại, làm tất cả việc, hành
giả phải thường nhớ phương
tiện (phương
tiện tuỳ duyên chỉ), nghĩa là tuỳ
thuận quán
sát. Hành
giả tu
tập như vậy lâu ngày thuần
thục, thì tâm được an trụ; do tâm
an trụ lần lần mạnh mẽ, nên dẹp sâu phiền
não, tín
tâm tăng
trưởng, đặng tuỳ
thuận vào chơn
như tam
muội, mau thành vị Bất
thối. Chỉ trừ những người nghiệp
chướng sâu dày, nghi
ngờ bài báng không tin, hoặc ngã
mạn biếng nhát, thì không thể
nhập Chơn
như tam
muội được. Và hành
giả nhờ nương pháp Chơn
như tam
muội này mà biết được pháp
giới duy
nhứt; nghĩa là nhận rõ Pháp
thân của chư Phật và thân chúng
sanh bình đẳng không hai, nên cũng gọi là Nhứt hạnh tam
muội. Phải biết Chơn
như là căn
bản của các pháp tam
muội; nếu hành
giả tu
pháp tam
muội này, thì lần lần sẽ được vô
lượng pháp tam
muội.” (10)
Sẽ có một số người nghi
ngờ rằng Thiền
Chỉ Quán trong Luận Đại
Thừa Khởi
Tín không hề được Đức
Phật dạy trong Kinh Nikaya và Kinh
A Hàm. Bởi vì Tứ
Niệm Xứ còn phải dựa
vào danh
sắc của khối ngũ uần (Thân, Thọ, Tâm, Pháp) để niệm, trong khi Thiền
Chỉ Quán của Đại
Thừa là một khối tỉnh
thức của gương tâm, nơi dứt bặt các niệm và không còn thấy có thân thọ tâm
pháp nào để phải niệm nữa (Thiền
Tông: Chánh
niệm, tức là niệm vô
niệm).
Đức Phật trong Kinh SA 926 (Tạng A
Hàm) và Kinh AN 11.9 (Tạng Nikaya) đã khen ngợi những người tu theo Thiền
Chỉ Quán của Luận Đại
Thừa Khởi
Tín (và Thiền
Tông của Bồ
Đề Đạt Ma) là những con tuấn mã, những con ngựa giỏi của Chánh
pháp. Nơi đây, chúng
ta trích dẫn lời Đức
Phật từ Kinh AN 11.9, bản dịch của Thầy Minh
Châu:
“Vị ấy Thiền
tư không y
chỉ vào đất, Thiền
tư không y
chỉ vào nước, Thiền
tư không y
chỉ vào lửa, Thiền
tư không y
chỉ vào gió, Thiền
tư không y
chỉ vào Không
vô biên xứ, Thiền
tư không y
chỉ vào Thức
vô biên xứ, Thiền
tư không y
chỉ vào Vô
sở hữu xứ, Thiền
tư không y
chỉ vào Phi
tưởng phi phi tưởng xứ, Thiền
tư không y
chỉ vào thế
giới này, Thiền
tư không y
chỉ vào thế
giới sau, phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm
giác, được thức tri, được đạt
đến, được tầm cầu đến, được ý suy tư, Thiền
tư không y
chỉ vào cái ấy. Tuy vậy, vị ấy vẫn
có Thiền
tư. Lại nữa, này Sandha, với vị ấy Thiền
tư như vậy, chư
Thiên với Thiên
chủ, các Phạm
thiên với chúng Phạm
thiên, dầu từ xa, đảnh
lễ con
người hiền thiện thuần
thục.” (11)
Nếu đọc kỹ đoạn vừa trích dẫn trên, chúng
ta sẽ thấy lại Kinh
Kim Cang về lời dạy là “ưng vô
sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (nơi tâm
không chỗ trụ, Niết
bàn sẽ hiển
lộ). Và đó là những kinh chúng
ta đã khảo sát Tạng Pali về các trường
hợp đốn
ngộ, giải
thoát tức khắc của ngài Bahiya, của đại thần Santati, của chàng nghệ sĩ
gánh xiếc Uggasena… khi tâm các vị này hốt
nhiên buông hết các sắc
thanh hương vị xúc pháp của quá
khứ, không mơ tưởng tới sắc
thanh hương vị xúc pháp của vị
lai, và không nắm giữ sắc
thanh hương vị xúc pháp của cái bây giờ và ở đây. Buông hết cả ba thời.
Cảnh giới đó, Thiền
sư Đạo
Nguyên (Dogen) còn gọi là buông
bỏ thân
tâm. Tức là tư lường cái không tư lường. Tức là trong khối tỉnh
thức của gương tâm, không còn thấy thân thọ tâm
pháp nào để niệm nữa, bởi vì các pháp vốn xưa
nay là rỗng, lặng.
GHI CHÚ:
(1) Kinh AN 2.21-31 https://suttacentral.net/an2.21-31/vi/minh_chau
(2) Kinh MN 52: https://suttacentral.net/mn52/vi/minh_chau
(3) Kinh AN 10.60: https://suttacentral.net/an10.60/vi/minh_chau
(4) Kinh DA 12: https://suttacentral.net/da12/vi/tue_sy
(5) Kinh AN 4.170: https://suttacentral.net/an4.170/vi/minh_chau
(6) Kinh SA 186: https://suttacentral.net/sa186/vi/tue_sy-thang
(7) Kinh MN 37: https://suttacentral.net/mn37/vi/minh_chau
(8) Kinh AN 9.36: https://suttacentral.net/an9.36/vi/minh_chau
(9) Kinh AN 5.28: https://suttacentral.net/an5.28/vi/minh_chau
(10) Luận Đại
Thừa Khởi
Tín: https://thuvienhoasen.org/p19a3244/15-tin-tam-tu-hanh-bon-mon-tin-tam-va-nam-mon-tu-hanh
(11) Kinh AN 11.9: https://suttacentral.net/an11.9/vi/minh_chau
Kinh SA 926: https://suttacentral.net/sa926/vi/tue_sy-thang
______________________
Xem thêm:
Con đường duy nhất? (Bình Anson)