Hình ảnh con người giác ngộ giải thoát trong tác phẩm Khóa Hư Lục của Trần Thái Tông
HÌNH ẢNH CON NGƯỜI GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT
TRONG
TÁC PHẨM
KHÓA HƯ LỤC
CỦA TRẦN THÁI TÔNG
1.
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
1.1. Cuộc đời
và
sự nghiệp của Trần Thái Tông
Trần Thái Tông “Họ Trần, tên húy là Cảnh, trước tên húy là Bồ, làm Chi
hậu chính triều Lý, được nhường ngôi, ở ngôi 33 năm (1225-1258), nhường ngôi
19 năm, thọ 60 tuổi (1218-1277), băng ở cung Vạn
Thọ,
táng ở Chiêu Lăng.”[1]
Ngài
ở
hương
Tức
Mặc,
phủ
Thiên Trường, là con thứ của Trần Thừa,
mẹ là Lê Thị; khi mới 8 tuổi,
ngài
làm
Chi hậu chính chi ứng cục
triều
Lý. Vì có chú họ là Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ nên vua được hầu
trong cung, rồi tìm cách cho lấy Lý Chiêu Hoàng. Trần Thái Tông khi
tám
tuổi được Chiêu Hoàng nhường ngôi, “Năm Ất Dậu (1225), mùa Đông, tháng
12, ngày 12 Mậu
Dần,
lên ngôi
hoàng
đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung”[2],
trở thành vị vua đầu tiên của
nhà
Trần.
Năm
Đinh Dậu-Thiên Ứng Chính Bình
năm
thứ
6
(1236), với lý do Chiêu Hoàng không có con nối dõi, để đề phòng hậu họa,
Trần Thủ Độ buộc vua phải lấy
công
chúa Thuận Thiên (vợ của Trần Liễu) đã có thai,
đưa
vào cung
lập
làm
hoàng
hậu, giáng Lý Chiêu Hoàng làm
công
chúa. Trước những nỗi đau về nội tâm mà
ngài
đã chịu đựng, cha mẹ lại mất sớm, bây giờ lại thêm việc bị ép vào thế trái
với luân thường đạo lý, Trần Thái Tông đã quyết định bỏ ngai vàng lên núi
Yên Tử với ý định xuất gia. Nhưng vì Trần Thủ Độ kiên quyết không chịu và
Quốc sư Phù Vân khuyên bảo,
nên
vua đành quay về ngôi vị, trị nước an dân.
Năm 1259,
Trần Thái Tông nhường ngôi cho con, lên làm Thái Thượng
hoàng,
cùng con trai trị quốc. Năm 1266,
Trần Thái Tông khuyến khích các vương hầu, công chúa, mọi người nên đi khai
hoang thành lập
điền
trang,
vừa tăng thêm thế mạnh cho dòng họ, vừa tạo thêm cơ sở chống giặc ngoại xâm.
Mặc dù Trần Thái Tông rất quan tâm đến việc trị nước, nhưng vẫn không quên
nghiên cứu giáo lý nhà Phật, thực hành thiền định. Năm 1277,
Trần Thái Tông mất.
Theo Thánh đăng ngữ lục, Trần Thái Tông là tác giả các tác phẩm sau:
Văn tập (một quyển), Chỉ nam ca (một quyển), Thiền tông
khóa
hư
(10 quyển), Văn tập và Chỉ nam đã mất, hiện chỉ còn Khóa hư[3].
Theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận, Trần Thái Tông
sáng tác các tác phẩm: Thiền tông chỉ nam, Thái Tông thi tập, Bình
đẳng
lễ sám văn, Lục thời sám hối khoa nghi, Tựa Kim
cương
tam
muội kinh chú giải, Khóa hư lục.[4]
Qua các tác phẩm trên,
cho thấy
vua đã thấu rõ được cuộc đời là biến dịch vô thường, có thịnh ắt có suy.
Nhà vua
đã
từng
nói với Quốc sư Phù Vân: “Trẫm còn thơ ấu, đã sớm mất mẹ cha, chơ vơ đứng
trên sĩ dân, không có nơi nào nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp đế vương đời
trước hưng phế bất thường, cho nên trẫm mới vào đây, chỉ muốn cầu thành
Phật, chứ chẳng muốn gì khác”[5].
Câu nói này như minh chứng rằng đây không phải là
sự
chạy trốn mang theo lòng thù hận, bất mãn với triều chính,
mà
nỗi uẩn khuất kia chỉ làm tăng thượng duyên cho chí nguyện xuất trần của bậc
thượng sĩ. Tuy nhiên, hạt
Bồ-đề
này không thể trong chốc lát mà có thể chín mùi, nó phải
được
ươm từ rất lâu trước đó. Khi Trần Liễu làm
loạn,
Trần Thủ độ muốn giết ông nhưng vua lại che chở và cấp đất phong tước cho
Trần Liễu. Từ đó cho thấy, vua không những là người có tấm lòng nhân từ mà
còn có tầm nhìn xa,
lấy
đại sự quốc gia
làm trọng.
Với sự am hiểu Phật pháp và khéo léo vận dụng tinh thần nhập thế bất biến
tùy duyên của Phật giáo, Trần Thái Tông đã làm tròn trách nhiệm của một bậc
minh quân:
khi đất nước thái bình thì vua lo “làm cán cân cho hậu thế, làm khuôn
phép cho tương lai” (Thiền tông chỉ nam tự), lúc có chiến tranh
thì đích thân lãnh đạo dân chúng đánh giặc, khi nhàn rỗi thì không quên trau
dồi nội điển, mặc dù làm vua nhưng xem thường vinh hoa phú quý, bỏ ngai vàng
như trút chiếc giày rách. Trần Thái Tông xứng đáng là “gương mặt văn hóa
đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sử Việt Nam”[6].
Ông đã để lại cho đời những trang sử vàng sáng chói, ngay giữa lòng xã hội
phong kiến hiện ra một mẫu người hoàn mỹ, là niềm tự hào đối với lịch sử dân
tộc Việt Nam.
1.2. Giới thiệu tác phẩm Khóa hư lục
1.2.1. Ý nghĩa nhan đề
Khóa hư lục
là tác phẩm nổi bật của Phật giáo đời Trần, từ một tác phẩm văn học được
nhân dân ta tôn vinh thành cuốn kinh nhật tụng, vì thế còn được gọi là
Khóa
hư kinh.
Khóa hư là tập hợp nhiều bài viết về chủ đề Phật giáo của Trần Thái
Tông, được giới Phật học sưu tầm, nghiên cứu, dịch thuật. Tuy nhiên, tùy vào
cảm nhận
và
quan điểm của mỗi học giả mà có sự giải thích khác nhau về nhan đề của tác
phẩm Khóa hư lục.
Trong
lời đầu bản dịch Khóa hư lục,
Đào Duy Anh
viết: “Khóa hư nghĩa là tu luyện về đạo hư không”[7].
Ở phần chú giải, ông giải thích: “Khóa hư: luyện tập sự hư vô, tức tu
luyện về đạo hư vô, đạo Phật”[8].
Trong
Khóa
hư diễn nghĩa,
Thiều Chửu
viết: “Cứ theo nghĩa đen, khóa là bài học, hư là rỗng không, nhưng cái ý
nghĩa sâu xa thì tức là một bài học dạy cho ta phải để tâm khiêm nhường
thiếu thốn, tự biết mình còn mang nhiều tội lỗi xấu xa, cò ngu si mê muội,
phải ép minh mà tu tỉnh sám hối nhẫn nhục tinh tấn, mới thâu thái được cái
hay của thánh hiền vào mình, hòng tẩy sạch lòng trần, tới bậc giác ngộ. Nếu
ta cứ tự cho mình là thông minh tài giỏi, là thánh thần khôn khéo thì đọc
sách này vẫn ở đầu lưỡi mà thôi. Ấy đại khái ý nghĩa chữ Khóa hư là thế”[9].
Còn Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì giải thích: “Chữ
khóa có nghĩa là sự hành trì học tập. Chữ hư có nghĩa là với thái
độ không cố
chấp vào hình thức giáo điều. Nhu yếu của Khóa là sự siêng năng thực tập
thiền học không để thời gian luống qua, nhu yếu của Hư là phá chấp tự do
không kẹt vào khái niệm và hình thức. Hai nhu yếu tổng hợp lại thành tinh
thần thực tiễn và khai phóng của đạo Phật: thực hiện một cách tinh tấn đạo
lý giác ngộ trong tinh thần phá chấp tự do và vô niệm”[10].
Thích Phước Đạt giải thích: “Khóa hư là tu luyện về đạo hư không là luyện
tập sư hư vô…
thì dễ gây ngộ nhận về đạo Phật, thậm chí nói đạo Phật là đạo hư vô thì càng
xa rời nguyên ý của tác giả, mặc dù được biết học giả Đào Duy Anh không thể
hiểu đạo Phật như thế”[11].
1.2.2. Nội dung tổng quát của tác phẩm
Theo Việt Nam Phật điển trùng san vào năm 1943,
tác phẩm
Khóa
hư
lục
được sắp
xếp theo thứ tự như sau: 1. Phổ thuyết Tứ sơn, 2. Phổ thuyết sắc thân, 3.
Phổ khuyến phát Bồ-đề tâm văn, 4. Giới sát sinh văn, 5. Giới thâu đạo văn,
6. Giới sắc văn, 7. Giới vọng ngữ văn, 8. Giới tửu văn, 9. Giới định tuệ
luận, 10. Thụ giới luận, 11. Niệm Phật luận, 12. Tọa thiền luận, 13. Tuệ
giáo giám luận, 14. Thiền tông chỉ nam tự, 15. Kim cương tam muội kinh tự,
16. Lục thời sám hối khoa nghi tự, 17. Bình đẳng sám văn tự, 18. Phổ thuyết
hướng thượng nhất lộ, 19. Ngữ lục vấn đáp môn hạ, 20. Niệm tụng kệ.
Từ cơ sở sắp xếp trên, chúng ta có thể chia tác phẩm Khóa hư lục
thành 3 phần chính:
1. Nội dung tổng quát các bài Phổ thuyết.
2. Những bài luận có nội dung bàn về phương cách đi đến giác ngộ và các vấn
đề cụ thể.
3. Các bài khóa lễ lục thời, các bài tựa.
2.
Quan niệm về con người
trong tác phẩm Khóa hư lục
2.1. Con người trong triết học Phật giáo
Từ quan niệm phương Tây, Protagoras cho rằng: Con người là thước đo của vạn
vật. Còn ở phương Đông, Ấn Độ cho rằng: Con người là tiểu vũ trụ. Trung Quốc
thì cho con người và trời đất là một, xuất lưu từ Đạo và cuối cùng cũng quay
trở về với cái Đạo uyên nguyên, bí nhiệm. Vậy theo triết học Phật giáo con
người được hiểu như thế nào?
Theo Phật giáo, con người là một Pháp, nghĩa là con người có tự tính hay có
bản chất riêng biệt để dựa vào đó mà nhận biết, lý giải và phân biệt với các
sự vật hiện tượng khác, hay con người là một thực thể chịu sự quy định của
các pháp tắc tự nhiên, và dù Đức Phật có mặt hay không có mặt cũng không
thay đổi được điều đó.
Con người là hợp thể của Danh và Sắc. Danh - Sắc là tên gọi chung của Ngũ
uẩn, theo sự vận hành của Mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên
sinh thì con người Ngũ uẩn sinh. Danh chỉ cho phương diện tinh thần
hay tâm, còn Sắc chỉ về cơ thể, thể xác hay vật chất. Điều đó có nghĩa con
người là sự tương hợp của hai yếu tố tinh thần và vật chất. Chẳng hạn khi
nhấn mạnh về vật chất, Đức Phật nói lục đại (đất, nước, gió, lửa, không và
thức); khi nhấn mạnh về tinh thần Đức Phật nói Ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng,
hành, thức), Tứ thực (đoạn thực, xúc thực, tư thực, thức thực); khi nhấn
mạnh đến yếu tố nhận thức, Đức Phật nói lục căn, lục trần, lục thức… Cho nên
quan niệm của Đức Phật về con người không nên tách rời chân lý Duyên khởi:
“Hôm nay, ta sẽ nói pháp nhân duyên và duyên sinh. Thế nào là pháp nhân
duyên? Nghĩa là: cái này có cho nên cái kia có... Như duyên vô minh có hành,
duyên hành có thức… như thế thuần đại khổ tụ tập. Thế nào là pháp
duyên sinh? Là vô minh, hành… dù Phật xuất hiện hay không xuất hiện ở thế
gian thì pháp này vẫn thường trụ…”[12]
Như vậy, sự tồn tại của con người là giả hợp, không thật, vì bản chất của nó
là duyên khởi, tùy thuộc các duyên mà hình thành nên con người là vô ngã.
Trong Khóa hư lục, Trần Thái Tông tự đi tìm thân phận mình, bản lai
diện mục của chính mình và ngài đã nhận chân được rằng: “Các ngươi hãy
xem lại cho tường, “sắc thân” kia khi chưa vào bào thai thì do đâu mà có? Ấy
là do niệm nhóm, duyên tụ; ngũ uẩn hợp thành. Dáng vóc lầm sinh, hình dung
giả lộ”[13].
Rõ ràng con người được Trần Thái Tông nhìn nhận là do sự kết hợp của năm uẩn
mà thành, nó chịu sự chi phối của không gian và thời gian.
2.2. Con người trong văn học trung đại
Việt Nam
Như thế, sắc thân năm uẩn của con người cũng chính là thân phận con người
trong cõi đời này. Làm ngươi ai ai cũng muốn hạnh phúc, sung sướng, nhưng do
nhận thức sai lầm về con người mình nên chúng ta thường không tìm được nguồn
an lạc, hạnh phúc. Trái lại, chúng ta thường
chuốc lấy quá nhiều khổ đau. Giải phóng con người ra khỏi những bế tắc kia
là nhiệm vụ lớn của triết học, văn học, đặc biệt là triết học, văn học Phật
giáo. Và do đó, con người trở thành đề tài quan trọng của văn học.
Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống, mà đã phản ánh hiện thực tức phần nào
đó đề cập đến cuộc sống với vận mệnh con người cụ thể, như
M. Gorky nói, “Văn học là nhân học”. Con người là chủ thể của cuộc sống,
cũng là trung tâm, chủ thể để sáng tạo ra văn học nghệ thuật; vừa là đối
tượng khách thể để văn học nghệ thuật nhận thức và phản ánh.
Đặc trưng nổi bật của con người trong văn học trung đại là thể hiện tấm
lòng, như Trần Đình Sử nói: “Con người trong văn học cổ điển ưu thế thuộc
về tấm lòng, con người của chí khí. Việc tỏ lòng, tỏ chí khí là nét đặc
trưng của họ”[14].
Trần Thái Tông là một nhà văn, nhà thơ lớn của văn học đời Trần, đồng thời
là gương mặt tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam. Thông qua tác phẩm
Khóa hư lục, chúng ta thấy ngài luôn quan niệm về con người, cuộc đời,
đồng thời thể hiện tấm lòng nhân ái, vị tha, rộng mở, luôn muốn mọi người
sống tỉnh thức, an trú trong tình yêu và hiểu biết. Thích Phước Đạt nhận
định rằng: “Chỉ có ông là người có thơ văn dám đi sâu vào những ngõ ngách
tâm hồn thật nhạy cảm và tinh tế của mỗi cá nhân ở thời kỳ văn học trung
đại. Đây là giọng thơ khá lạ trong vườn Thiền, nó đi ngược với xu hướng
chung của văn học trung đại thường xây dựng mẫu người mang tính ước lệ
”[15].
Cho nên con người phải biết sống hòa hợp, thuận theo đạo lý,
chung sống cộng đồng. Mỗi người phải tự ý thức giảm trừ ham muốn cá nhân,
thay vào đó chính là tấm lòng cần trang trải. Có như vậy mới từ con người cá
nhân vị kỷ và chứa chất bản ngã, trở thành con người sống theo tinh thần vô
ngã, xa lìa các ham muốn của đời sống vật chất. Chính lẽ đó mà con người
trong văn thơ Trần Thái Tông không còn mang tính ước lệ, khuôn mẫu như văn
học trung đại giải trình. Đó là con người có sự chuyển biến nội tâm đi từ
những thái độ hành vi bất thiện đến sự thăng hoa. Chưa bao giờ con người
được mô tả chi tiết, cụ thể và sinh động như trong Khóa hư lục.
3.
Con người giác ngộ giải thoát trong tác phẩm Khóa hư lục
3.1. Khái niệm về con người giác ngộ giải thoát trong đạo Phật
Giác ngộ giải thoát là mục tiêu tối hậu mà người Phật tử luôn hướng đến. Bởi
vì chúng sinh bị vô minh che mờ, không thấy rõ thật tánh của mình, nên Đức
Phật xuất hiện ở đời nhằm khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến; và
Ngài cũng tuyên bố rằng Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành.
Chính vì vậy, con người luôn là đối tượng, là chủ thể của nhận thức. Tuy
nhiên sự nhận thức của mỗi người là khác nhau. Để hiểu rõ hơn, chúng ta cần
tìm hiểu từng khái niệm cụ thể.
Giác ngộ
(bodhi)
theo nghĩa Hán Việt là sự thức tỉnh, hiểu rõ một chân lý nào đó. Giác ngộ là
sự hiểu biết không chỉ bằng trí thức, lý luận mà bằng sự cảm nhận sâu xa,
bằng kinh nghiệm sống trực tiếp. Do đó đôi khi giác ngộ cũng được gọi là tuệ
giác. Tuy nhiên, hiểu một cách đơn giản, giác ngộ chính là từ bỏ đi tật xấu
của mình mà sống theo lẽ phải. Giác ngộ đó chưa phải là nghĩa giác ngộ của
đạo Phật. Đạo Phật nói giác ngộ là sự thấu triệt được lẽ thật nơi con người
từ ban sơ cho tới cuối cùng, tìm được cái từ xưa đến giờ chúng ta chưa từng
biết.
Nhiều người thường lầm tưởng giác ngộ là giải thoát, cho rằng một khi con
người đã giác ngộ thì tự nhiên sẽ được giải thoát. Thực ra khái niệm giải
thoát đã có từ trước khi Đức Phật ra đời. Nó phổ biến trong nền văn học cuối
thời Veda và trong các Upanishad.
Theo
nền văn học
này,
giải thoát chính là thoát ra khỏi vòng tái sinh luân hồi. Trong khi đó
theo Phật giáo,
giải thoát nghĩa là
giải
phóng ra khỏi
khổ
bằng cách tri kiến nguyên nhân của khổ và tận diệt nó, tức là thực hiện Tứ
diệu đế và đoạn diệt
ô
nhiễm.
Giải thoát tức là thoát khỏi ảo tưởng và khổ, thoát khỏi sự tái sinh trong
luân
hồi và đạt Niết-bàn.
Đức
Phật
dạy
Tứ
Thánh
đế (khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường diệt khổ), Tam pháp
ấn (vô thường, vô ngã và khổ), Duyên khởi (sự tương quan, tương duyên, tương
hữu giữa mọi sự vật)… Đó là những sự thật mà
Đức
Phật đã giác ngộ. Phải hiểu rõ những sự thật này thì
chúng ta
mới
có thể
theo đó mà tu tập. Phải hiểu biết rồi mới thực hành được. Như vậy phải giác
ngộ rồi mới giải thoát được. Cho nên con người giác ngộ giải thoát là con
người thấy biết đúng bản chất của sự vật, hiện tượng trên thế gian này bằng
cái nhìn tuệ giác:
tất cả đều vô thường giả hợp, duyên sinh,
không thực có... Thấu suốt lý
duyên
sinh để xóa bỏ thành kiến chấp ngã hẹp hòi,
bởi thế giới đang tồn tại là thế giới vô ngã, để từ đó thấu đạt được tư
tưởng: “Chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, hết thảy đều là không”.
3.2. Hình ảnh con người giác ngộ giải thoát được khắc họa trong Khóa hư
lục
Từ thời Lý, các thiền sư và Phật tử đã đưa ra quan niệm về con người và tìm
cách giải phóng nó ra khỏi những ràng buộc khổ đau. Các thiền sư như Viên
Chiếu, Diệu Nhân, Viên Học, Đạo Huệ . . . đã đưa ra những quan niệm về con
người để trả lời cho những câu hỏi muôn thuở: Con người từ đâu đến, đến để
làm gì, sau khi chết sẽ đi về đâu.
So với quan điểm con người thời Lý, quan điểm con người thời Trần không còn
mang tính trừu tượng nữa mà được trình bày một cách cụ thể, như được cho
thấy nơi Khóa hư lục
của Trần Thái Tông. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Phật giáo,
Trần Thái Tông lấy con người từ trong hiện thực cuộc sống để làm đối tượng
khắc họa cho hình ảnh con người như chính ngài đi tìm lại thân phận của
mình, bản lai diện mục của chính mình. Con người luôn muốn chuyển hóa cái
hữu hạn thành cái vô hạn, hay nói khác đi con người không bao giờ chịu an
bài, chấp nhận cái thân phận định sẵn, mà luôn tìm cách thăng chứng, chứng
ngộ, giải thoát, vô sinh bất tử. Cho nên khi đọc Khóa hư lục, chúng
ta thấy được khát vọng con người giác ngộ được bắt nguồn từ chính khát vọng
của Trần Thái Tông, muốn lên núi Yên Tử để tu hành làm Phật, như trong
Thiền tông chỉ nam tự viết: “Chỉ muốn làm Phật chứ không muốn làm gì
khác”.
Rõ ràng hình ảnh con người giác ngộ được khắc họa qua tác phẩm đó chính là
thấy được chân Phật - “kiến tính”, thấy rõ chân lý một cách trực tiếp, thấy
Phật tính ở tâm và hằng sống với bản tính thường nhiên, trong sáng, liễu đạt
pháp một cách chân thật. Như lời dạy Quốc sư Viên Chứng: “Tâm tịch nhi
tri, thị danh chân Phật” (Lòng lặng mà hiểu, đó chính là chân Phật)[16].
Trần Thái Tông xác lập con người giác ngộ là con người “kiến tính”,
có nghĩa là thấy được bản tính, thấy được con đường giác ngộ giải thoát.
Trong
bài Tọa thiền luận,
ngài viết: “Phàm
người học đạo, chỉ cần thấy tính”[17].
Còn trong bài Phổ khuyến Bồ-đề tâm văn, ngài viết: “Do thấy ánh
sáng trí tuệ, phản chiếu lại mình thấy được tính mà thành Phật”[18].
Như
vậy, con người phải tự mình hành trì, không nương
tựa
vào ai,
vào
một thế lực nào khác thì mới thấy được tính. Đó là con đường quay đầu nhìn
lại vào phía bên trong của tự thân, trở về quê nhà một cách an nhiên, không
vướng bận hay tiếc nuối, chẳng phải tìm kiếm ở nơi xa xôi mà Trần Thái Tông
diễn đạt bằng hình ảnh “Bất lao tiến bộ đắc hoàn gia”(Đường xa không bước
vẫn về nhà) trong Niêm tụng kệ 19[19].
Rõ ràng con người giác ngộ chính là con người tự tìm lại chính mình. Phật
và chúng sinh không
khác. Điều này đã được Trần Thái Tông khẳng định trong bài Niệm Phật luận:“Thân ta
tức thân Phật, không có hai tướng”[20].
Ý tưởng đó sau này ở phần Đối cơ trong Thượng sĩ ngữ lục được
Tuệ Trung Thượng sĩ diễn dịch:
“ Xưa nay không bẩn, sạch, bẩn sạch đều hư danh. Pháp thân không vướng mắc,
nào
trọc với nào thanh”[21].
Còn trong Cư trần lạc đạo phú, Trần Nhân Tông viết: “Bụt ở
trong nhà,
chẳng
phải tìm xa, Nhân khuấy bản nên ta tìm Bụt, đến cốc hay chỉn Bụt là ta”[22].
Cho nên, sự giác ngộ luôn có sẵn trong mỗi con người, chẳng cần phải tìm đâu
xa.
Chính
lời nhắc nhở của Quốc sư đã làm thức tỉnh con người giác ngộ trong chính nhà
vua. Phật chúng sinh
không khác, tự tánh giác ngộ của mỗi con người đều bình đẳng. Bất cứ ai
cũng
có thể
trở
về bản tính thanh tịnh, chân tâm thường trụ. Cho nên trong Phổ khuyến
Phát Bồ-đề tâm,
ngài
viết: “Nếu có thể phản chiếu hồi quang thì ai ai cũng có thể kiến tính
thành Phật.”[23]
Cho ta thấy được các nhà Phật học, các
thiền
sư chứng ngộ đời Trần tuyên bố thẳng thắng Phật và chúng sinh không khác.
Trần Thái Tông chủ trương Phật ở đây là nhận chân con người thật của mình,
không đâu xa mà ngay chính cõi lòng.
Điều này tất
yếu dẫn đến một tinh thần nhập thế, mà câu nói của Quốc sư như một sự khai
ngộ: “Phàm đã là bậc nhân quân tất phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý
muốn của mình, lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình.”[24]
Nhìn từ góc độ quốc gia dân tộc thì đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước
nhà, tư tưởng Phật tại tâm, tư tưởng vô ngã được vận dụng vào đời
sống trong
nhiều lĩnh vực. Với tinh thần vô ngã, vô trú của đạo lý Thiền tông, Trần
Thái Tông đã biến những ý muốn của thiên hạ, tấm lòng thiên hạ thành những ý
muốn, những tấm lòng cao đẹp của sự giác ngộ chân tâm thường trụ, bản tính
thường lạc. Chính vì thế, con người là một sinh mạng có thể bước qua cái hữu
hạn để đến cái vô hạn. Mỗi người phải tự mình vượt qua các tướng trạng của
khổ đau như là sự vượt qua bốn ngọn núi cheo leo, tường vách dựng đứng như
trong bài Phổ thuyết Tứ sơn, để rồi nhận chân được, sinh mạng con
người rốt cuộc chỉ “mệnh tựa ngọn đèn trước gió, thân hư bọt nước đầu
ghềnh”[25].
Tất cả chỉ là vô thường ảo ảnh, cuộc đời thật mong manh, “có khác gì con
rối; đều nhờ tơ, sợi kéo, lôi. Đùa qua giỡn lại, giống sống mà thôi; buông
thả, thu hồi, thực là xác chết”[26].
Ngay cả công danh phú quý cũng chỉ như giấc mộng dài, con người cần
giáp mặt, thoát ra khỏi sự trói buộc của nó. Chính vì thấu hiểu được điều đó
mà Trần Thái Tông đã viết trong Khóa hư lục, không dưới mười hai
lần mô tả về giấc mộng “vô thường” tiêu biểu như: “Công danh lừng
lẫy, chẳng qua một giấc mộng dài; Phú quý hơn người, khó tránh hai chữ vô
thường”[27].
Nhận thức rõ bản chất cuộc đời này là vô thường, là mộng, tâm thức con người
trở nên mở rộng không cùng, độ lượng hết thảy. Trần Thái Tông nhờ triết lý
ấy mà tỉnh thức, trở thành bậc vĩ nhân, vị vua anh minh, hiếu nghĩa với anh
em, chung tình với người yêu, sẵn sàng xông trận lúc nguy nan, xem tính mạng
nhẹ tợ lông hồng, xem ngai vàng như chiếc giày rách,
chỉ mong
đem lại cuộc sống ấm no cho dân, đất nước được thái bình thịnh
trị. Đối với đạo Phật,
ngài
được mệnh danh là “bó đuốc của Thiền tông”.
Phải chăng con người giác ngộ là con người tự do ra vào thế giới vô
thường ảo ảnh, “đảo xứ mộng trung thuyết mộng”[28],
thoát khỏi sự cám dỗ của ngũ dục. Với tinh thần vô trước, vô trú, con người
bước ra khỏi thế giới tư duy hữu ngã, nhị nguyên phân biệt,
như được
thể hiện qua bài kệ Bát bất: “Không diệt, không sinh, không đoạn,
không thường, không là một, không đa dạng, không vào, không ra”của ngài
Long Thọ (Nagarjuna) trong Trung quán luận.
Khi không còn chấp vào cái thân tứ đại này nữa thì “cái này không
phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi.”[29]
Nhận chân rõ điều đó thì không còn khổ đau, không còn bị trói buộc bởi sinh
tử luân hồi.
Trong kinh
Tạp A-hàm
Đức
Phật dạy: “Do chấp thủ nên đắm trước, không chấp thủ thì không đắm
trước.”[30]
Được như vậy con người ung dung tự tại đi bất cứ nơi nào họ muốn. Trời vẫn
xanh, đất vẫn nở hoa, đâu đâu cũng là pháp tính chân như: “Nay ta vì các
ngươi không ngại miệng hùm vuốt râu, đầu gậy tiến bước. Nói nơi gió táp
thông reo, lặng nơi trăng chiếu hồ trong. Lúc đi như mây bay nước chảy. Khi
đứng như núi yên non trấn. Lời lời như Thích-ca sống, câu câu thái
độ Đạt-ma Tổ sư. Phóng đi thì mở ra tám chữ, thu lại thì một cửa hết lối;
trong hang quỷ ma là lâu đài Di-lặc, dưới núi tối có cảnh giới không khách
của Phổ Hiền. Nơi nơi tạng lớn sáng rực, chân tính là pháp môn không hai”[31].
Đây quả là thái độ sống tự tại, không sợ hãi của con người giác ngộ. Dù vào
tận miệng hố vuốt râu hùm, đi trên đầu gậy, họ vẫn thể nhập sự an lạc như đi
chiêm ngưỡng cảnh nước chảy, thông reo, gió thổi rì rào, trăng in bóng nước,
trong cái động của cảnh vật như ẩn chứa cái tĩnh tận cõi lòng. Con người
giác ngộ trở thành trung tâm và Trần Thái Tông trở thành con người biểu
tượng thời đại, xứng đáng là “gương mặt văn hóa đẹp và lạ đến lạ thường
trong lịch sử Việt Nam”[32].
Để đạt được sự tự do ấy, đòi hỏi con người phải vượt ra tất cả các giáo
điều, bước vào đời sống một cách an nhiên tự tại. Tự thân rũ bỏ, đạp vỡ tất
cả khái niệm, phá bỏ nhị nguyên, lối tư duy hữu ngã sáo
rỗng,
thay vào đó là thái độ sống vô trước, vô chấp. Con người đó sẽ liễu đạt “Tâm
tức là Phật, không cần tu thêm gì cả”[33].
Trong cái thế giới vô thường, Tuệ Trung Thượng
sĩ
từng sống một cách tiêu dao,
tự tại.
Con người tự chuyển hóa thanh tịnh cõi lòng trong ảo mộng phù phiếm, cấu uế
của xác thân ngũ trược này, vì thế Tuệ Trung mới xác định “thanh tịnh
pháp thân” chính là “Ra vào trong nước đái trâu, chui rúc giữa đống
phân ngựa”[34].
Như vậy, rõ ràng giữa những con người giác ngộ luôn có sự đồng điệu. Từ
ý niệm “trong ảo sắc cũng là chân sắc, nơi phàm thân cũng là pháp thân”,
trong Niêm tụng kệ, Trần Thái Tông đã ung dung cất lên tiếng cười
trào lộng của tâm hồn khai phóng “Tăng-già nói dối an rồi đó, Cười ngất
người ngoài chẳng tự hay”[35].
Đó cũng chính là hình ảnh của một con người vô ngã, bước ra từ thế giới thực
tại duyên khởi, hòa nhập với đời. Trần Thái Tông xây dựng quốc gia Đại Việt
trên nền tảng vận dụng triết lý con người vô ngã. Trong bài Phổ thuyết
sắc thân,
ngài
đã khuyến cáo con người cần nhận thức rõ sự thật vô ngã để vượt qua khổ đau
do tự thân chiêu cảm: “Các ngươi hãy xem lại cho tường, sắc thân kia chưa
vào bào thai thì do đâu mà có? Ấy là do “niệm” nhóm, duyên “tụ”; ngũ uẩn hợp
thành… Hết thảy đều do tâm rời bỏ; không làm sao trở gót quay về”[36].
Thẩm thấu triết lý vô ngã trong sự hiện hữu của con người, mỗi cá thể sẽ
có thái độ sống vô chấp, nên ai và bất cứ ở đâu cũng kiến lập cho mình một
thế giới Phật quốc trang nghiêm thanh tịnh. Chính thái độ sống theo tinh
thần vô ngã, hướng con người sống và hành theo lý vô ngại và sự vô ngại, lý
sự vô ngại trùng trùng duyên khởi với tất cả giá trị hạnh phúc mong chờ.
3.3. Đóng góp của con người giác ngộ giải thoát trong hiện thực đời sống
Con người giác ngộ như đã trình bày ở trên là con người tự tìm lại chính
mình, bản lai diện mục của chính mình, thấy rõ bản chất của cuộc đời này là
vô thường giả tạm, không thật có, tất cả đều do nhân duyên giả hợp mà thành.
Cũng vậy, con người giác ngộ không còn ràng buộc bởi sự đau khổ, sinh tử
luân hồi. Con người luôn hướng thượng, mong muốn chuyển hóa từ hữu hạn thành
vô hạn, mở ra chân trời vô ngã, nơi đó có sự bình an tuyệt đối, không có
biên giới phân chia nào cả từ trong tâm thức, vượt lên cả thời gian và không
gian hữu hạn. Một khi đã giác ngộ, giải thoát,
mỗi hành giả cần phải vị tha theo đúng tinh thần Phật giáo, lấy sự giác ngộ
ấy giúp đỡ mọi người để họ cùng giác ngộ giải thoát. Mỗi khi khả tính tình
yêu vô ngã được hóa hiện thì hạnh phúc thật sự đón chào. Con người thực sự
sống an nhiên tự tại, vươn tới chân trời cứu cánh. Cho nên, việc tu hành
giải thoát của cá nhân phải luôn gắn liền với đời sống sinh hoạt của mọi
người, có như vậy mới đem lại hạnh phúc an vui cho bản thân và mọi người
đúng như lời dạy của
Đức
Thế tôn: “Này các Tỷ-kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an
lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc,
vì an lạc cho chư Thiên và loài Người”[37].
Cũng vậy, Trần Thái Tông nhìn nhận thân phận con người là sự kết hợp của năm
uẩn mà thành, chịu sự chi phối của không gian và thời gian. Đứng trước quy
luật vô thường thì ai nấy cũng đều bình đẳng như nhau. Trần Thái Tông đã
hiện thực thế giới, bóc trần tận cùng để phơi bày ra được sự thật. Để thoát
khỏi điều đó, việc tự tri tự giác không còn là vấn đề suy nghiệm trên lý
thuyết mà trở thành việc thực hành trong bổn phận dựa trên nền tảng thăng
hoa tâm thức con người. Một khi chúng ta hiểu rõ bản chất của con người và
vạn vật là vô thường, mong manh, không thật thì chúng ta sẽ sống đời sống
tỉnh thức, không chấp trước, con người sẽ thoát khỏi cái sinh-tử,
có- không, sẽ sống an nhiên vững chải như núi hùng vĩ nơi chân trời xanh
biếc. Con người sở dĩ lo âu, đau khổ vì chưa nhận chân được bản chất của nó,
chưa thấu hiểu được hết vấn đề sinh
tử,
nhưng đối với con người giác ngộ thấy kiếp sống con người không thật, nó tạm
bợ giả dối do duyên hợp mà thành, thân này cũng do bốn đại giả hợp, không
thật có, không có tự tánh.
Trần Thái Tông chủ trương sẽ cung cấp cho con người một lý tưởng, lẽ sống
cao quý đủ để tạo một cảm hứng sáng tạo, vươn lên không chỉ một đời mà nhiều
đời, thậm chí đến khi mỗi con người đều trở thành một vị Phật. Phật ở đây là
nhận chân con người thật của mình, không đâu xa mà ngay chính cõi lòng.
Điều này tất
yếu dẫn đến một tinh thần nhập thế, mà câu nói của Quốc sư như một sự khai
ngộ: “Phàm đã là bậc nhân quân tất phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý
muốn của mình, lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình.”[38]
Vấn
đề phải lưu tâm khi hướng đến sự giác ngộ của con người là “sinh tử”. Con
người phải vượt thoát sinh
tử ngay trong đời sống thực tiễn. Cần có nếp sống đúng
Chánh
pháp, mà trước tiên phải biết sống có mực thước, khuôn mẫu trong xã hội,
ổn định và thanh bình. Vì thế, nhà vua đã tự xem mình là
người có trách nhiệm với Phật giáo,
đồng thời có trọng trách đối với đời sau để nền giáo lý Phật-đà được truyền
bá rộng rãi.
Thực chất việc sống đạo là trở về bản tính thanh tịnh, siêu việt vốn bị che
lấp, vây hãm bởi các khách trần phiền não. Khách trần đó chính là kết quả
huân tập
của
một đời sống chạy theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chân tâm bị nhiễm
ô, không được soi rọi từ ánh sáng trí tuệ: “Chỉ vì sự tập hợp huân nhiễm
lâu đời của chúng sinh
mà phát ra sóng gió tri kiến của thần thức, vì chúng sinh
buông mình theo chiếu soi, khiến cho bốn phương thành xứ lạ, mơ hồ không
biết rõ lối về…”[39]
Con người cần phải có thái độ sống vượt thoát bằng những phương thức hành
trì thiền định khiến bụi bặm phiền não không thể đeo bám tâm thức. Từ đó,
bất kể là ai, sống trong môi trường nào cũng có thể trở về chơn tâm thường
trụ, chứng ngộ giải thoát. Chính tinh thần này đã tác động mạnh vào tâm thức
của Trần Thái Tông trong việc đề ra các chủ trương xây dựng và phát triển
đất nước Đại Việt.
Chính vì thế, con người giác ngộ ở đây được Trần Thái Tông diễn tả chân thực
như chính bản thân của
ngài,
đó là
thực tu và thực chứng ngay từ lúc cầu làm Phật, một tư tưởng chỉ có ở thời
đại nhà Trần. Con người giác ngộ của Trần Thái Tông đã mở ra một tư tưởng
mới, không còn ước lệ, khuôn mẫu như thời Lý.
Chính
những tư tưởng ấy đã tạo ra một vị vua anh minh,
đánh tan
quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất, làm sống dậy hào khí Đông A. Thực
tế, con người giác ngộ Trần Thái Tông đã thực thi hạnh nguyện vô ngã, cai
trị dân không phải vì lợi ích của cá nhân, dòng họ mà vì lợi ích của đất
nước, của toàn dân, thương dân như con và biết lấy lòng dân, ý dân làm lòng
mình, ý mình.
Không những thế, con người giác ngộ Trần Thái Tông còn đặt nền tảng cho
Thiền phái Trúc Lâm ra đời, một Thiền
phái
mang bản sắc Việt, chứng minh cho một thời kỳ đất nước Đại Việt độc lập trên
mọi phương diện.
Đối diện với hiện tại, con người giác ngộ ấy như Trần Thái Tông đã viết
trong Khóa hư lục, đó chính là con người đi tìm lại chính mình, phản
quang tự kỷ.
Khi nhận chân
cuộc đời này là sắc-không, mỗi hành giả sẽ có thái độ sống tích cực hơn, tự
ý thức, tự hoàn thiện bản thân mình, sẵn sàng đối diện với cái chết, tâm
không sợ
sệt
buồn rầu mà luôn cảm thấy an nhàn, hạnh phúc,
thực hiện chí nguyện của con người sống tốt đời đẹp đạo,
phụng sự đạo pháp và dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng (1995), Các triều đại Việt Nam, NXB.Thanh
Niên, Hồ Chí Minh.
2.
Thích Minh Châu dịch (2013), Kinh Tương ưng bộ, tập I, NXB.Tôn Giáo,
Hà Nội.
3.
Thích Phước Đạt (2020), Trần Thái Tông và Khóa hư lục nhìn từ góc độ văn
học, NXB.Hồng Đức, Hà Nội
4.
Nguyễn Lang (2012), Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB.Phương Đông, Hồ
Chí Minh.
5.
Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Viện Sử học dịch,
NXB.Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6.
Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, NXB.Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
7.
Viện Văn học (1997), Thơ văn Lý - Trần, tập 1, NXB.Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
8.
HT. Thiện Siêu và Thanh Từ dịch (1993), Kinh Tạp A-hàm tập 1, VNCPHVN
ấn hành.
9.
Thích Thiện Siêu (1993), Kinh Tạp A-hàm tập 1, Viện Nghiên cứu Phật
giáo Việt Nam.
10.
Trần Đình Sử (1993), Thi pháp học, Trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí
Minh.
11.
Trần Thái Tông, Trần Thái Tông Hoàng đế ngự chế Khóa hư kinh, Thiều
Chửu dịch và diễn nghĩa (1961), NXB.Hưng Long, Sài Gòn, tái bản.
12.
Trần Thái Tông, Khóa hư lục, Đào Duy Anh dịch và giới thiệu (1974),
NXB.Khoa học Xã hội, Hà Nội.
13.
Nguyễn Đăng Thục
(1996), Thiền học Trần Thái Tông, NXB.Văn
hóa Thông tin