Vài phương thức đoạn trừ phiền não

vai phuong thuc

Vài phương thức đoạn trừ phiền não

Thích Nữ Hạnh Từ

Hòa Thượng Minh Châu từng nói rằng: Sinh ra ở đời ai cũng muốn hạnh phúc, không ai muốn đau khổ, mà đạo Phật chính là đạo giúp con người thoát khổ đau và sống an lạc, giúp con người đoạn tận khổ đau ngay tại đời này, bằng những phương pháp thiết thực và hiện tại mà mọi người chúng ta đều có thể hiểu được và làm được, không phải là những chuyện gì xa xôi, huyền bí, siêu thực[1].

Giáo lý Phật giáo có thể giúp con người thoát khỏi những khổ đau bằng những phương pháp thiết thực. Trong kinh Đức Phật đã tuyên thuyết vô lượng pháp môn để đối trị vô lượng phiền não, ở đây người viết xin chọn một vài phương pháp.

Như lý tác ý

Trong kinh kinh Nhất thiết lậu hoặc Đức Phật dạy rằng mọi khổ đau, tàn hại, nhiệt não khởi lên là do chúng ta có cái nhìn sai lạc, không đúng với sự thật. “Này các Tỷ-kheo, do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sinh được sinh khởi, và các lậu hoặc đã sinh được tăng trưởng. Này các Tỷ-kheo, do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sinh không sinh khởi, và các lậu hoặc đã sinh được trừ diệt”[2]. Nghĩa là việc tác ý đúng tinh thần lời Phật dạy mới có khả năng dứt trừ các lậu hoặc đưa đến đoạn tận mọi khổ đau. Nếu chúng ta tác ý không như lý thì đó là nguyên nhân đưa đến mọi khổ đau. Chính do có sự khác biệt trong cách tác ý như vậy nên đạo Phật chủ trương thực tập “như lý tác ý” hay đặt tâm đúng hướng.

Nguyên nhân dẫn đến phiền não cũng chính do chúng ta có cái nhìn không đúng, chấp chặt, lầm tưởng. Khổ đau lâu ngày không được chuyển hóa sẽ dẫn đến u uất, phiền muộn, căng thẳng, thậm chí dẫn đến tự sát. Chúng ta phải biết rằng ngay tấm thân tứ đại này cũng do duyên hợp lại mà có, vậy còn gì để chấp là của ta để rồi sinh ra phiền muộn. Vị Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã[3].

Nếu nhìn vạn pháp đúng như nó đang là thì mọi phiền não khổ đau sẽ không còn. Do cái nhìn đúng đắn, vạn pháp đúng như nó đang là nên mọi khổ đau không còn, mọi thiện nghiệp được phát sinh. “Do nhân như lý tác ý, do duyên như lý tác ý, do nhân tâm chánh hướng, do duyên tâm chánh hướng, thiện nghiệp được làm, thiện nghiệp được tiếp tục làm. Này Mahāli, đây là nhân, đây là duyên, thiện nghiệp được làm[4].

 Nhờ thực tập cách nhìn các pháp đúng như lời Phật dạy, tức nhận thức rõ hết thảy các pháp đều do duyên mà có mặt, luôn luôn biến đổi, thuộc bản chất khổ đau, không ai làm chủ được, mà tâm trở nên định tĩnh, quân bình, không dao động, không thiên vị, không ái luyến, không chấp trước, được thanh thản, tự do và giải thoát.“Phàm pháp nào thuộc về phần thiện, tất cả những pháp ấy lấy như lý tác ý làm căn bản, lấy như lý tác ý làm chỗ quy tụ; như lý tác ý được gọi là tối thượng đối với những pháp ấy"[5]. Tất cả các thiện pháp đều bắt nguồn từ suy nghĩ đúng đắn và lấy tư duy đúng đắn làm căn bản để phát sinh thiện pháp.

Cái nhìn bằng như lý tác ý là cái nhìn bằng trí tuệ, đây là cách nhìn nhận của bậc Thánh. Chính nhờ tuệ tri mà các phiền não, lậu hoặc, tàn hại nhiệt não không có cơ hội dấy khởi. Nhờ tuệ tri các pháp cần phải tác ý, nhờ tuệ tri các pháp không cần phải tác ý, nên không tác ý các pháp không cần phải tác ý và tác ý các pháp cần phải tác ý[6]. Do vậy, mọi phiền não, khổ đau cũng không còn. Đây là một phương pháp hữu hiệu không chỉ dành cho các thầy T-kheo mà nó hợp với mọi đối tượng, mọi thời đại. Nếu ai khéo hành trì theo thì sẽ đạt được an lạc giải thoát ngay trong kiếp hiện tại.

 “Như sét đánh tan tảng đá
Như gió tạt lửa cháy rừng
như mặt trời xua tan bóng tối
cũng vậy tuệ được tu tập
đoạn tận rừng phiền não thâm căn
nguồn gốc mọi khổ sầu
đấy hạnh phúc ngay đời này
mà con người có thể biết đến”
[7].

Giữ gìn ngũ giới

“Không có lậu hoặc nào
Ở trong đời hiện tại
Bức bách người có giới
Vị ấy còn đào hết
Gốc rễ của đau khổ
Trong những đời vị lai”[8].

Phật giáo có những phương pháp để đoạn trừ phiền não và từng bước đem lại hạnh phúc, trong đó giữ gìn năm giới cấm là điều đầu tiên cần phải làm. Năm giới bao gồm không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Đây là năm điều căn bản nhất mỗi người cần gìn giữ để cuộc sống được an vui hạnh phúc. Ví như một người giữ gìn giới không tà dâm thì cuộc sống vợ chồng được bền lâu, không còn những mối nghi ngờ, không còn cảnh chia tay, không còn cảnh làm tổn thương con cái.

Tình trạng chồng ngoại tình hay vợ ngoại tình là một trong những nguyên nhân khiến gia đình tan vỡ. Nhiều người phụ nữ vì không chấp nhận chồng mình ngoại tình nên đã rất đau buồn, tự k, trầm cảm... Đây là một trong những hiện tượng nổi trội trong xã hội hiện đại. Như vậy nếu chúng ta giữ gìn tốt ngũ giới chắc chắn cuộc sống sẽ vơi bớt những nỗi khổ niềm đau cho mình và cho những người xung quanh.

“Như trồng trọt không rào giậu. Giới khi ấy sẽ bị giặc phiền não xâm nhập, như một khu làng mở cổng sẽ bị trộm cướp xâm nhập. Và tham dục lẻn vào tâm vị ấy như mưa dột ở mái nhà không lợp kín”[12][9].Chúng ta phải phòng hộ sáu căn ví như một người trồng trọt nếu không làm rào chắn k càng thì có nguy bị những con vật bên ngoài vào quấy phá. Nếu một người không giữ gìn luật pháp, giới luật thì mọi giặc phiền não xâm nhập vào. Đây là nguyên nhân khiến xã hội ngày nay có rất nhiều vấn nạn.

 Một trong những nguyên nhân làm cho con người bị căng thẳng, lo lắng, bất an là do mặc cảm tội lỗi; và năm giới này là cách giúp người ta tránh được mặc cảm đó. Phật giáo nhấn mạnh rằng hành vi bất thiện sẽ làm tăng thêm phiền não trong khi việc làm thiện sẽ đem lại cảm giác an vui. Một cuộc sống đơn giản với ít sở hữu và biết đủ là điều rất được tán thán trong Phật giáo. Ngược lại, tích trữ và hám lợi sẽ làm cho người ta bị căng thẳng. “Năm giới này không những đưa người mạnh tiến trên đường giải thoát mà còn đem lại trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, quốc gia, xã hội nữa. Ngũ giới chính là giềng mối chắc thật tạo hạnh phúc cho cá nhân và đoàn thể”[10].

Muốn ít biết đủ

Trong kinh Đức Phật dạy: “Bất tri túc giả tuy xử thiên đường do bất xứng ý, tri túc chi nhân, tuy ngoạ địa thượng do vi an lạc"[14][11]. Người biết đủ, dù nằm trên đất cát vẫn an lạc; trái lại, người không biết đủ, dù ở cung trời cũng không vừa ý. Ít ai bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Người nghèo muốn giàu, người giàu muốn giàu thêm; người có thứ này mong được thêm thứ khác. Cũng vì vô minh, con người tự chui vào lưới ngũ dục, cho đó là hạnh phúc, là cứu cánh của đời mình. Có ý niệm truy đuổi tìm cầu tức không bằng lòng với hiện tại, như kẻ thả mồi bắt bóng, không biết bao giờ mới tìm thấy hạnh phúc. Biết dừng lại tức ổn cố được tâm, không dính mắc với trần cảnh bên ngoài, biết vui với những gì mình đang có, ta sẽ thấy hạnh phúc tại hiện tiền.

Nếu chúng ta ít muốn biết đủ, bằng lòng với những gì mình đang có, sống đời an nhiên tự tại thì sẽ giảm bớt những áp lực từ cuộc sống. Chính tâm tham cầu quá nhiều mới sinh ra khổ đau. Như vậy thiểu dục tri túc là một pháp đối trị lại tâm tham cầu. Chính dục vọng của con người đã làm cho họ khổ đau triền miên. Phật giáo dạy con người đi vào giải thoát, có nghĩa là đi ra khỏi mọi trói buộc mọi ách nô lệ. Nô lệ lớn nhất của hiện tượng giới là nô lệ chính dục vọng của mình”[12].

Trong một bài sám văn có nói rằng hàng ngày chúng ta ở “trong trí Bồ-đề mà thấy không thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà sinh ràng buộc”. Không ai mang khổ đau lại cho chúng ta mà chính chúng ta là chủ nhân tạo ra nó. Hàng ngày chúng ta sống trong trí Bồ-đề nhưng lại thấy không thanh tịnh bởi vì tâm tham cầu, tâm vọng tưởng chi phối và dẫn dắt chúng ta đi lầm đường lạc lối. Như vậy, giải thoát hay ràng buộc là do cách sống của chúng ta chứ không phải do một ai khác. Suốt ngày chạy theo dục vọng thì suốt đời chúng ta chỉ là một kẻ nô lệ của . “Dục vọng như bộ xương khô, như miếng thịt, như hầm lửa, như rắn độc…, hoan lạc ít mà khổ não lại nhiều, đầy dẫy nguy hiểm[13]. Do vậy, thiểu dục tri túc là một phương pháp giúp đoạn trừ những tham muốn, những dục vọng; khi đã đoạn trừ được dục vọng tham muốn thì sẽ không còn khổ đau.

Đoạn trừ chấp thủ

“Tất cả pháp vô ngã

Với tuệ quán như vậy

Đau khổ được nhàm chán

Chính con đường thanh tịnh”[14].

Nhìn chung, khổ là do tập khí chấp ngã quá nặng. Tập khí là thế lực hùng mạnh vô biên, làm chuyển động bánh xe luân hồilôi cuốn con người vào guồng máy sinh tử không cách nào thoát khỏi. Chính vì chấp ngã nên ta thích khen sợ chê, thích sướng sợ khổ. Ta thương người nhưng muốn người ta thương phải là sở hữu của riêng ta. “Do chấp thủ nên đắm trước, không chấp thủ thì không đắm trước”[15].

Chúng ta hiểu cuộc đời là khổ không phải để buông xuôi, phó mặc dòng đời đưa đẩy, mà phải dùng trí tuệ để giải quyết mọi công việc, để chiến thắng mọi nghịch cảnh một cách hiệu quả nhất. Nhờ công phu thiền tập, biết thiểu dục tri túc nên khi gặp khó khổ, ta có sức định tĩnh để vượt qua. Ta không mất nhiều thời giờ lo cho cái ăn cái mặc mà dành tâm trí giải quyết việc lớn của đời mình. Khi chánh niệm trên từng biến chuyển của thân, trên từng vận hành của tâm và trên từng đổi thay của cảnh, ta thấy rõ tất cả đều như huyễn.

 Lòng tham muốn khiến con người tìm kiếm và chấp nhận chút hạnh phúc tạm bợ mong manh mà không biết thú vui đó là nguyên nhân của khổ. Hạnh phúc ấy luôn bị phụ thuộc vào sự đối đãi của tầng số tăng giảm về lạc thú. Vì thế Đức Phật dạy hạnh phúc mà con người thọ hưởng không ngoài sự tham muốn và tưởng nhớ các dục[16]. Sự hưởng thụ dục lạc không bao giờ thực sự thỏa mãn, như người uống nước muối, càng uống càng khát. Chúng tạm bợ mong manh như lửa đom đóm, chỉ có ánh sáng tánh giác sẵn đủ mới là nơi hướng đến của đời mình. “Phàm phu ngu si vô học, không trí tuệ, không sáng suốt, đối với năm thọ ấm nói là ngã, hệ trược làm cho tâm bị trói buộc mà sinh tham dục”[17].

Quán rõ các pháp có được đều do nhân duyên thì có gì để ta chấp nó là của ta. Ngay tấm thân này cũng chỉ do tứ đại hợp thành, nay còn mai mất, một hơi thở ra không thở vào thì không còn. Khi vô thường già bệnh ập về thì tay trắng hoàn không chỉ theo nghiệp dẫn. Hiểu được như vậy thì không còn gì để chúng ta tham chấp, và không có gì có thể làm tổn hại chúng ta.

 “Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cỏ xuân tươi thu đượm hồng

Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi

Thịnh suy như cỏ hạt sương đông”[18].

 



[1] Thích Minh Châu (2002), Đạo đức Phật giáo & hạnh phúc con Người, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.68.

[2] Kinh Trung bộ 1, Thích Minh Châu dịch (2012), kinh Tất clậu hoặc, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.25.

[3] Kinh Tương ưng 3, Thích Minh Châu dịch (1991), Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP.Hồ Chí Minh, tr.299.

[4] Kinh Tăng chi bộ 4, Thích Minh Châu dịch(1997), Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP.Hồ Chí Minh, tr.356.

 

[5] Thích Chơn Thiện (2009), Phật học khái luận, NXB.Phương Đông, TP.Hồ Chí Minh, tr.436.

[6] Kinh Tất clậu hoặc, tr.27.

[7] Bhadantacariya Buddhaghosa (2016), Thanh tịnh đạo, Thích Nữ Trí Hải dịch, NXB.Hồng Đức, tr.727-28.

[8] Sđd., tr.107.

 

[9] Sđd., tr.71.

[10] Thích Thiện Hoa (2012), Phật học phổ thông 1, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.71.

[11] Thích Quang Nhuận (2004), Phật học khái lược, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.50.

[12] Thích Chơn Thiện (2009), Sđd., tr.251.

[13] Kinh Trung A-hàm số 2, Thích Tịnh Hạnh(2000), Taiwan, tr.751.

[14] Thích Minh Châu dịch (2000), Kinh Pháp cú, NXB. Tôn Giáo, tr.69.

[15] Thích Thiện Siêu dịch (1992), Kinh Tạp A-hàm tập 1, VNCPGVN, tr.91.

[16] Thích Thiện Siêu dịch (1992), Sđd., tr.137.

[17] Thích Thanh Từ (2004), NXb.Tôn Giáo, tr.58.

[18] Thích Minh Châu, Sđd., tr.127.

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle