Mô hình tông môn nhìn từ Giáo đoàn thuộc Hệ phái Khất sĩ Việt Nam
mo hinh
Mô hình tông môn nhìn từ Giáo đoàn thuộc Hệ phái Khất sĩ Việt Nam
Thích Hạnh Chơn
Phật giáo khởi nguyên chỉ có một Tăng đoàn của Đức Phật. Theo thời gian, khi
Phật giáo phát triển rộng thì nhiều Tăng đoàn, giáo đoàn, bộ phái, tông phái,
thiền phái xuất hiện theo nhu cầu. Theo đó, nhiều tông môn pháp phái được du
nhập vào Việt Nam và cũng có một số được hình thành tại Việt Nam. Từ thế kỷ XV
về trước, sử Phật giáo Việt Nam chủ yếu đề cập đến bốn dòng thiền (thiền phái/tông
phái) là Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử. Sau đó,
các thiền phái này trở nên mờ nhạt và xuất hiện các thiền phái khác như Lâm Tế,
Tào Động từ Trung Quốc truyền vào. Từ hai thiền phái lớn này, nhiều tông môn
pháp phái được sinh ra và phát triển ở Việt Nam. Tất cả các thiền phái hay tông
phái vừa nêu đều thuộc Phật giáo Bắc truyền.
Bên cạnh đó, Phật giáo Việt Nam còn có Phật giáo Nam tông Khmer và Nam tông kinh.
Phật giáo Nam tông Khmer có lịch sử lâu đời tại các tỉnh Tây Nam bộ, sinh hoạt
theo mô hình Hội đồng kỷ luật sư sãi. Phật giáo Nam tông kinh được Hòa thượng Hộ
Tông và nhóm truyền giáo thành lập vào thập niên 30 của thế kỷ XX, sinh hoạt
dưới sự chỉ đạo của Giáo hội Tăng già Nguyên thủy được thành lập sau đó. Đặc
biệt, Đạo Phật khất sĩ do Tổ sư Minh Đăng Quang thành lập vào năm 1947 tại Viêt
Nam, sinh hoạt theo mô hình Giáo đoàn.
Bài viết này sẽ sơ lược mô hình sinh hoạt của Giáo đoàn thuộc Hệ phái Khất sĩ,
trình bày sơ lược sự sinh hoạt của ba thiền phái Phật giáo được xem là lớn hiện
nay ở Việt Nam, đó là Nguyên Thiều, Liễu Quán và Chúc Thánh. Bài viết sẽ đưa ra
một số nhận định từ mô hình sinh hoạt của Giáo đoàn thuộc Hệ phái Khất sĩ và ba
thiền phái nói trên.
Giáo đoàn thuộc Hệ phái Khất sĩ Việt Nam
Đạo Phật Khất sĩ do Tổ sư Minh Đăng Quang thành lập vào năm 1947. Ban đầu Tổ sư
tổ chức đoàn du Tăng khất sĩ đi hành đạo nhiều tỉnh thành Nam Bộ. Các ngôi tịnh
xá đầu tiên được thành lập và không ngừng tăng về số lượng. Các giáo đoàn lần
lược được thành lập theo tiêu chí quy định để hành đạo. Năm 1981, Đạo Phật Khất
sĩ được gọi là Hệ phái Khất sĩ - một tổ chức Phật giáo cùng với 8 tổ chức Phật
giáo khác hợp thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ 1982, Hệ phái Khất sĩ có sáu
Giáo đoàn Tăng có danh xưng là Giáo đoàn I cho đến Giáo đoàn VI và một Giáo đoàn
Ni, trong đó Giáo đoàn III và IV có thêm ba phân đoàn Ni.
Hệ phái Khất sĩ có tổ chức trung ương gồm Ban Chứng minh và Ban Thường trực cùng
các tiểu ban như Tăng sự, Giáo dục, Nghi lễ… Năm 2020, Hệ phái Khất sĩ có 1.395
Tăng, 1.863 Ni, và 550 tịnh xá trong nước.
Ở cấp địa phương, mỗi Giáo đoàn có cơ cấu tổ chức nội bộ của Giáo đoàn gồm Ban
Chứng minh và Ban Tri sự theo mô hình của Ban Trị sự GHPGVN tỉnh thành. Mỗi Giáo
đoàn đều có sự thống kê, quản lý Tăng Ni, tự viện và phát triển Giáo đoàn. Chẳng
hạn, Giáo đoàn III thống kê đến năm 2022 có 164 tịnh xá (90 chính thức và 74
chưa chính thức), 326 Tăng, 322 Ni. Giáo đoàn có 14 vị tiến sĩ, 8 vị đang học
tiến sĩ, 9 vị thạc sĩ, 5 vị đang học thạc sĩ… Chư Tăng Ni thuộc Giáo đoàn gắn
kết sinh hoạt chung trong Giáo đoàn và liên kết sinh hoạt với các Giáo đoàn khác
như bố-tát mỗi tháng, tổ chức khóa tu cho Tăng Ni trong Giáo đoàn và cho Phật tử
nhiều lứa tuổi khác nhau. Các khóa tu đều có nhiều Tăng Ni trong Giáo đoàn cùng
tu tập, phục vụ.
Ba thiền phái Nguyên Thiều, Liễu Quán và Chúc Thánh
Có thể nói từ tỉnh Quảng Trị trở vào các tỉnh miền Nam, ba thiền phái Nguyên
Thiều, Liễu Quán và Chúc Thánh có số lượng Tăng nhân chiếm đa số.
Thiền phái Nguyên Thiều do Thiền sư Nguyên Thiều Siêu Bạch người Hoa kế thừa từ
hai dòng thiền Tổ Định Tuyết Phong với bài kệ “Tổ đạo giới định tông…” và Đạo
Mân - Mộc Trần với bài kệ “Đạo bổn nguyên thành….” Thật ra, thiền sư Nguyên
Thiều chỉ kế thừa thầy tổ thuộc hai dòng thiền nói trên và thu nhận đệ tử đặt
pháp danh theo các chữ kế sau thuộc hai bài kệ đó. Thiền sư Nguyên Thiều không
có biệt xuất kệ lập nên thiền phái riêng. Thiền sư tạo lập chùa Thập Tháp Di Đà
tại Bình Định, chùa Quốc Ân tại Huế và được tin là lập chùa Kim Cang tại Đồng
Nai, cũng như từng trụ trì chùa Hà Trung tại Huế. Thiền phái của Thiền sư Nguyên
Thiều phát triển chủ yếu tại chùa Thập Tháp. Thiền sư viên tịch vào ngày 19
tháng 10 âm lịch và được nhập tháp tại Huế hay tại Đồng Nai còn chưa thống nhất.
Ngày tưởng niệm của Thiền sư không được tổ chức quy mô như các vị đệ tử, đệ tôn
tại chùa Thập Tháp, và cũng chưa được tổ chức quy mô cho Tăng, Ni toàn quốc
thuộc Thiền phái Nguyên Thiều.
Thiền phái Liễu Quán do Thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán người Phú Yên sáng lập.
Thiền sư Liễu Quán là đệ tử của Ngài Tế Viên - Hội Tôn ở Phú Yên, nhưng sau đắc
pháp với Ngài Minh Hoằng - Tử Dung tại chùa Từ Đàm, Huế. Thiền sư Liễu Quán lập
ra Thiền phái Liễu Quán với bài kệ do Thiền sư sáng tác: “Thiệt tế đại đạo…”
Trong cuộc đời hành đạo từ Huế vào Phú Yên, Thiền sư tạo lập chùa Thuyền Tôn,
Viên Thông tại Huế và các chùa Bảo Tịnh, Hội Tôn… tại Phú Yên. Thiền sư viên
tịch vào ngày 22 tháng 11 âm lịch và được nhập tháp tại khu đất gần chùa Thuyền
Tôn, Huế. Thiền sư có nhiều đệ tử, đệ tôn xuất sắc hành đạo khắp các tỉnh miền
Trung và Nam khiến cho thiền phái Liễu Quán phát triển rộng khắp. Tuy nhiên,
ngày tưởng niệm của Thiền sư Liễu Quán hằng năm chỉ được tổ chức lớn tại Huế chứ
chưa khi nào được tổ chức cho tất cả Tăng, Ni trên toàn quốc thuộc Thiền phái
Liễu Quán.
Thiền phái Chúc Thánh do Thiền sư Minh Hải Pháp Bảo người Hoa sáng lập. Thiền sư
Minh Hải được mời sang Việt Nam làm thập sư truyền giới. Sau đó Thiền sư Minh
Hải ở lại Hội An tạo lập chùa Chúc Thánh và sáng lập Thiền phái Chúc Thánh (mang
tên ngôi chùa) với bài kệ do Thiền sư sáng tác: “Minh thiệt pháp toàn chương…”
Thiền sư viên tịch vào ngày 7 tháng 11 âm lịch và được nhập tháp trong khuôn
viên chùa Chúc Thánh. Hàng đệ tử, đệ tôn của Thiền sư có nhiều vị xuất sắc hành
đạo khắp các tỉnh từ miền Trung vào Nam nên Thiền phái Chúc Thánh phát triển rất
mạnh. Trong khoảng 20 năm qua, quý tôn đức thuộc Thiền phái Chúc Thánh đã thành
lập Ban Điều hành và ấn định cứ bốn năm một lần Tăng Ni thuộc Thiền phái Chúc
Thánh trở về tổ đình Chúc Thánh tưởng niệm Thiền sư Minh Hải và được gọi là Về
nguồn. Có lẽ, trong ba thiền phái trên chỉ có Thiền phái Chúc Thánh làm được
việc này cho đến hiện tại.
Thực trạng của Thiền phái Nguyên Thiều, Liễu Quán và Chúc Thánh cho thấy sự sinh
hoạt của ba thiền phái mang tính riêng lẻ, tự túc tại các chùa hay vài chùa và
chưa có một tổ chức thống nhất cho toàn thiền phái. Người ta chỉ việc căn cứ vào
pháp danh của Tăng Ni theo các bài kệ nói trên để xếp họ vào một trong ba thiền
phái. Từ Thiền sư khai sáng thiền phái cho đến hiện tại, các Tăng Ni thuộc ba
thiền phái phát huy khả năng tạo lập chùa, thu nhận đệ tử, đào tạo các thế hệ kế
thừa trong phạm vị tự viện hay liên kết vài tự viện. Do đặc điểm của Phật giáo
hay do tập tục văn hóa mà các thiền phái đều chưa có hệ thống tổ chức để thống
kê, quản lý và phát triển thiền phái. Do đó, việc sinh hoạt gắn kết như khóa tu,
bố-tát… giữa Tăng Ni trong thiền phái bị hạn chế.
Đến khi Giáo hội Phật giáo Thống Nhất ra đời vào năm 1964 và Giáo hội Phật giáo
Việt Nam ra đời vào năm 1981, hầu hết Tăng Ni ở Việt Nam bắt đầu sinh hoạt thống
nhất theo mô hình Giáo hội về mặt hành chánh nhưng chưa có sự gắn kết sinh hoạt
về mặt tu tập thiền môn. Do đó, Giáo hội chưa thể là phương tiện duy nhất gắn
kết Tăng Ni sinh hoạt tập thể.
Một vài nhận định
Kể từ năm 1981, tất cả hệ phái, tổ chức Phật giáo trước đó đều tham gia vào ngôi
nhà chung là Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Dù vậy, nội quy Ban Tăng sự vẫn có
những điều nói về vai trò của truyền thống sơn môn, hệ phái đối với việc quản lý
tự viện, bổ nhiệm Tăng Ni thuộc sơn môn, hệ phái.
Sau khi hợp nhất vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam, một số tổ chức, hệ phái vẫn
được duy trì và phát huy sinh hoạt nội bộ hệ phái, trong đó phải kể đến Hệ phái
Khất sĩ. Hình thành gần 80 năm nhưng Hệ phái Khất sĩ đã làm được nhiều điều Đức
Thế Tôn chỉ dạy khi còn tại thế. Các Giáo đoàn đều có những vị Trưởng lão lãnh
đạo cho việc tu tập và sinh hoạt. Tăng Ni trong hệ phái gắn kết hỗ tương nhau
trong tu tập, học hành, sinh hoạt… Các hoạt động như khóa tu cho các vị Trưởng
lão; khóa tu cho các thế hệ Tăng Ni; sự quan tâm cấp học bổng cho Tăng Ni học
hành… là minh chứng cho mô hình sinh hoạt Tăng đoàn.
Đối với ba thiền phái thuộc Bắc truyền, do được hình thành trên 300 năm nên có
số lượng tự viện, Tăng Ni khá nhiều. Tuy nhiên, ba thiền phái không có tổ chức
chặt chẽ mà chỉ phát triển dựa vào các cá nhân cộng lại nên không có con số
thống kê cụ thể về tự viện và Tăng Ni thuộc thiền phái. Từ đó việc gắn kết sinh
hoạt như mở khóa tu chung, bố-tát, hỗ trợ Tăng Ni học hành hay bị bệnh tật là
rất mờ nhạt. Kết quả, Tăng Ni thuộc ba thiền phái hoặc tự gắn kết sinh hoạt
chung hoặc sinh hoạt cá nhân không theo nếp sống Tăng đoàn. Một số ít Tăng Ni
tham gia Giáo hội thì cũng chỉ sinh hoạt mang tính hành chánh - họp, hội nghị.
Thi thoảng mới thấy có một khóa tu cho thành viên của Giáo hội tại thành phố
lớn.
Có quan điểm cho rằng sinh hoạt theo hệ phái, tông phái sẽ tạo nên sự cục bộ. Sự
thật yếu tố văn hóa cục bộ vẫn diễn ra theo vùng miền, hệ phái, tông môn tại
Việt Nam. Việc sinh hoạt theo hệ phái, tông phái trước hết tạo nhân duyên gắn bó
giữa Tăng Ni với tập thể hệ phái, thiền phái để từ đó Tăng Ni trợ duyên nhau
trong sinh hoạt, chư tôn Trưởng lão hỗ trợ đàn hậu học, các tự viện giúp đỡ
nhau. Sau đó, các hệ phái, thiền phái với tâm rộng lượng không mang tính cục bộ
thì vẫn có thể tạo mối quan hệ tốt với các hệ phái, thiền phái khác.
Bài viết chỉ mới đề cập đến vấn đề tổ chức của ba thiền phái. Điều rất quan
trọng chưa được bàn thảo trong bài viết là pháp học, pháp hành hay giáo lý đặc
trưng được ứng dụng tu tập trong ba thiền phái. Mong rằng sẽ có hành giả, học
giả nghiên cứu chuyên sâu bàn thảo trong tương lai gần.