So sánh bài kệ Thỉnh chư thiên và bài kệ Chúc tán Hộ pháp
so sanh bai ke
So sánh bài kệ
Thỉnh
chư thiên
và bài kệ Chúc tán Hộ
pháp
Thích Nguyên Ngộ
Thiên (天)
tiếng Sanskrit là deva, có nghĩa là "người sáng rọi", "người phát quan”.
Với phước báu
đã tạo từ quá khứ, chư thiên
thường
có thọ mạng dài lâu,
hưởng được
sự sung sướng,
tuy vậy
vẫn chưa hoàn
toàn thoát
khỏi
vòng luân
hồi (saṃsāra).
Việc
thọ hưởng
những khoái lạc mà thiên giới mang lại là chướng ngại to lớn khiến
chư thiên
không giải thoát được.
Vì
không tự giác tỉnh về vô thường (dù tuổi thọ rất dài), duyên
sinh,
vô ngã… nên họ
không
có sự nỗ lực tu tập để tiến đến các quả vị giải thoát. Và sau khi thọ hưởng hết
phước của cõi
trời, chư thiên
sẽ tái sinh
trở lại trong các thú, trôi lăn trong luân hồi; và phải thực hành thiện sự,
tích luỹ phước báu mới
có thể
tái sinh
lại vào thiên giới.
Phân loại chư thiên
Chư
thiên được phân thành ba loại:
1. Samati Devatā: Chư
thiên theo kiểu lạm xưng, tự tôn xưng, như các vị vua tự cho mình là thiên tử,
tức con trời. Tuy nhiên, do phước báu quá khứ, được sinh làm vua, thì sự thụ
hưởng ngũ dục của họ là đệ nhất ở thế gian, nên cũng được xem là “ông trời con”.
2- Upatti Devatā: Chư
thiên hóa sinh trong 26 tầng trời, gồm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
3 - Visuddhi devatā:
Thanh tịnh thiên, chỉ cho các bậc lậu tận, đã chấm dứt phiền não, đấy là chư
Phật Toàn giác, Phật Độc giác, Phật Thanh văn giác. Trú xứ của các Ngài lúc còn
thân xác hữu vi bao giờ cũng là cõi người. Có trường hợp các vị A-na-hàm đắc
định Tứ thiền thì trú xứ tại Ngũ tịnh cư rồi Niết-bàn luôn ở đấy.
Trong
kinh
Sāleyyaka, Đức
Thế Tôn đã
thuyết
về 26 tầng trời như sau:
-
Chư thiên cõi Dục giới:
1-
Cātummahārājikā: Tứ
Đại
thiên vương
2- Tāvatiṃsa:
Đao Lợi thiên
3- Yāmā: Dạ-ma
thiên
4- Tusita: Đâu
Suất
Đà
thiên
5-
Nimmāmuratī: Hóa
Lạc
thiên
6-
Paranimmitavasavatī: Tha Hóa Tự Tại thiên
-
Chư thiên cõi Sắc giới:
7- Brāhma
parisajjā: Phạm chúng thiên
8- Brāhma
purohita: Phạm phụ thiên
9-
Mahābrāhma: Đại phạm thiên
10-
Parittābhā: Thiểu quang thiên
11-
Appamāṇābhā: Vô lượng quang thiên
12-
Abhassara: Quang âm thiên
13- Parittā
subhā: Thiểu tịnh thiên
14- Appamāṇa
subhā: Vô lượng tịnh thiên
15- Subhā
kiṇṇā: Biến tịnh thiên
16- Asaññā:
Vô tưởng thiên
17-
Vehapphalā: Quảng quả thiên
-
Suddhāvāsā: Tịnh cư thiên
18- Avihā: Vô
phiền thiên
19- Atappā:
Vô nhiệt thiên
20- Sudassa:
Thiện kiến thiên
21- Sudassī:
Thiện hiện thiên
22-
Akaṇiṭṭhā: Sắc cứu cánh thiên
-
Chư thiên cõi trời Vô sắc
giới:
23-
Ākāsānañcāyatana: Không vô biên xứ thiên
24-
Viññāṇanañcāyatana: Thức vô biên xứ thiên
25-
Ākiñcaññāyatana: Vô sở hữu xứ thiên
26-
Navasaññānāsaññāyatana: Phi tưởng, phi phi tưởng xứ thiên.
Trong A-hàm,
kinh Thế ký, đề cập cõi Sắc như sau: “Chúng sinh cõi Sắc có
22
loại, đó là: 1. Phạm thân thiên, 2. Phạm phụ thiên, 3. Phạm chúng thiên, 4. Đại
Phạm thiên,
5. Quang thiên, 6. Thiểu quang thiên, 7. Vô lượng quang thiên, 8. Quang âm
thiên, 9. Tịnh thiên, 10. Thiểu tịnh thiên, 11. Vô lượng tịnh thiên, 12. Biến
tịnh thiên, 13. Nghiêm sức thiên, 14. Tiểu nghiêm sức thiên, 15. Vô lượng nghiêm
sức thiên, 16. Nghiêm sức quả thật thiên, 17. Vô tưởng thiên, 18. Vô phiền
thiên, 19. Vô nhiệt thiên, 20. Thiện kiến thiên, 21. Đại thiện kiến thiên, 22.
A-ca-nị-trá thiên”.
Còn theo luận
Câu-xá, quyển 8, phẩm 3 - Phân biệt thế giới,
nêu
ra 18 tầng thiên Sắc giới.
Sơ
thiền có ba: 1. Phạm chúng thiên/梵眾天,
2. Phạm phụ thiên/梵輔天,
3. Đại Phạm thiên/大梵天.
Nhị thiền có ba: 1. Thiểu quang thiên/少光天,
2. Vô lượng quang thiên/無量光天,
3. Cực quang tịnh thiên/
極光淨天.
Tam thiền có ba: 1. Thiểu tịnh thiên/少淨天,
2. Vô lượng tịnh thiên/無量淨天,
3. Biến tịnh thiên/遍淨天.
Tứ thiền có tám: 1. Vô vân thiên/無雲天,
2. Phước sinh thiên/福生天,
3. Quang quả thiên廣果天,
4. Vô phiền thiên/無煩天,
5. Vô nhiệt thiên/無熱天,
6. Thiên hiện thiên/善現天,
7. Thiện kiến thiên/善見天,
8. Sắc cứu cánh thiên/色究竟天.
Giữa tầng ba
và bốn của Tứ thiền có một tầng cho chúng sinh Vô tưởng,
được
gọi là Vô
tưởng thiên.
Những trường hợp được sinh thiên
Về
việc tái sinh
vào
thiên giới,
trong kinh đề cập đến những trường hợp khác nhau như sau:
-
Trường
hợp của Tôn giả Pukkusāti. Đã từ lâu, Pukkusāti quy ngưỡng
Đức
Phật và mong muốn xuất gia, tuy chưa chính thức gặp Ngài. Nhân một chuyến du
hành, cả hai cùng trú trong căn nhà của người thợ làm gốm Bhaggava. Nơi đây,
Pukkusāti lần đầu tiên được diện kiến Đức Phật, được nghe Đức Phật thuyết giảng
và Tôn giả đã phát tâm xin xuất gia. Trong
lúc
đi tìm y bát để đầy đủ pháp thọ giới Tỷ-kheo,
Tôn giả bị
một
con bò cuồng chạy, đoạt mất mạng sống. Đối với trường hợp này, Đức Phật xác
chứng rằng Pukkusāti đã chứng đệ tam Thánh quả, sinh
nơi thiên giới.
-
Có
một phụ nữ nghèo đang rang lúa, khi biết Tôn giả Kassapa vừa xuất định sau bảy
ngày nhập định, bà đã phát tâm cúng dường phần lúa ít ỏi của mình cho Tôn giả.
Sau khi dâng cúng xong bà hoan hỷ trở về nhà với thiện sự vừa làm.
Trên
đường đi, tín nữ bất ngờ bị một con rắn độc cắn chết. Do vì chết trong tín tâm
và với thiện sự vừa làm, nên tín nữ tức khắc sinh
lên cõi trời Ba mươi ba với tên gọi mới là thiên nữ Lājā.
-
Thân
phụ của Tôn giả Soṇa trước
đó
làm nghề săn bắn, về già ông bỏ nghiệp sát sinh
phát tâm xuất gia và trở thành một vị Tỷ-kheo.
Khi lâm chung, những ác nghiệp trong quá khứ đã diễn ra kinh hoàng
khiến
ông sợ hãi tột độ. Thấy vậy, Tôn giả Soṇa đã cho người khiêng cha đến gần một
bảo tháp, cắt những cành hoa rồi yêu cầu cha hướng tâm cúng hoa lên tượng Phật
và cây bồ-đề. Ngay khi ấy những cảnh tượng kinh hoàng kia biến mất và sau đó ông
được sinh
thiên.
-
Như được đề cập
trong
kinh Trung bộ, Bà-la-môn Dhānañjāni là một người ỷ thế vua, bóc lột các
Bà-la-môn gia chủ,
rồi lại
ỷ thế các
Bà-la-môn gia chủ, bóc lột vua. Vị Bà-la-môn này có thiện cảm với Tôn giả
Sāriputta trong bài thuyết giảng trước đó, mặc dù chưa phát tâm quy y Tam bảo,
nhưng lúc lâm chung, Bà-la-môn Dhānañjāni đã cho người mời Tôn giả Sāriputta đến
thăm mình. Tại tư thất Bà-la-môn Dhānañjāni, Tôn giả Sāriputta trầm tư: Vị
Bà-la-môn này rất luyến ái Phạm thiên giới, vậy ta hãy thuyết giảng con đường
cộng trú với Phạm thiên, để
nhờ
đó Bà-la-môn Dhānañjāni
sau khi
mạng chung
sinh
lên Phạm giới.
-
Kinh
Đại bát Niết-bàn ghi rằng, có bốn thánh tích, gọi là Tứ động tâm (saṃvejanīyāni
ṭhānāni cattāri),
đó
là nơi
Như Lai đản sinh,
nơi Như Lai chứng Vô thượng
chánh
giác, nơi Như Lai thuyết pháp lần đầu tiên,
và nơi Như Lai nhập Niết-bàn. Nếu như bất kỳ ai, trong khi chiêm bái những
thánh
tích ấy mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại
mạng chung sẽ được sinh
cõi thiện thú, cảnh giới chư
thiên.
Đây là một câu điều kiện, với lưu ý quan trọng rằng, trong khi chiêm bái những
thánh
tích mà từ trần (kālaṁ) với tâm thâm tín hoan hỷ (pasannacittā),
thì mới được sinh
vào cảnh giới chư
thiên
(saggaṃ lokaṃ).
Như
vậy, qua những
trường hợp trên chúng ta thấy,
điều kiện để
được sinh
thiên chính là do phước báu hay thiện nghiệp. Tuỳ theo từng cấp độ mà hành giả
được tương ứng với cõi trời nào, là thành viên của thiên cung nào.
Các cấp độ được
xét dựa trên
tín (đức tin), giới (ngũ giới, bát quan trai giới), văn (nghe pháp), thí (bố
thí, cúng dường), tuệ (biết nhân quả, thiện ác). Phước báu cũng có thể phát sinh
từ 10 nguyên nhân sinh
phước: bố
thí, trì giới, tham thiền, cung kính, phục vụ, hồi hướng, công đức, tùy hỷ công
đức, thuyết pháp, nghe pháp, chuyển tà kiến thành chánh kiến. Và còn nhiều thiện
nghiệp, pháp hành khác cũng có khả năng
giúp
hành giả sinh
thiên
như Tứ
vô lượng tâm, Thập
thiện…
Hai bài kệ thỉnh chư thiên trong
văn hệ
Pāli và Hán ngữ
Bài kệ
Thỉnh
chư thiên
trong văn hệ
Pāli: “Sagge kāme ca rū pe girisikharatate cantalikkhe vimāne, Dīpe raṭṭthe
ca gāme taruvanagahane gehavatthumhi khette, Bhummā cāyantu devā jalathalavisame
yakkhagandhabbanāgā, Tiṭṭhantā santike yaṃ munivaravacanaṃ sādhavo me suṇantu”.
“Xin thỉnh
chư
thiên
ngự trên cõi trời Dục giới cùng Sắc giới;
chư
thiên
ngự trên đỉnh
núi không liền, hoặc nơi hư không; ngự nơi cồn bãi, đất liền hoặc các châu quận;
ngự trên cây cối rừng rậm hoặc ruộng vườn;
chư
Dạ-xoa, Càn-thác-bà, cùng Long
vương
dưới nước trên bờ hoặc nơi không bằng thẳng, gần đây, xin thỉnh hội họp lại đây.
Lời nào là kim ngôn cao thượng của Ðức Thích Ca Mâu Ni mà chúng tôi tụng đây,
xin các bậc Hiền
triết
nên nghe lời ấy.”
Từ năm 1963
đến 1980,
khi Phật giáo Nam tông truyền vào Việt nam, chư
Hòa thượng như Hộ Tông, Pháp Tri, Siêu Việt,
v.v. đã biên soạn nghi lễ nhật hành của Phật giáo Nam tông dựa trên nguồn
kinh
điển Pāli. Từ đó bài kệ thỉnh chư thiên có mặt và được phổ biến trong các buổi
lễ nghe pháp, tụng kinh, v.v. trong truyền thống Phật giáo Nam tông. Nội dung
bài kệ là
thỉnh
mời
các vị chúng sinh
ở các cõi trời, ở khắp mọi nơi, chư Dạ-xoa, Càn-thát-bà, hay long vương đến nghe
pháp thoại và thọ nhận những lời
dạy
của Đức
Phật Thích-ca
mà hành trì tu học.
Bài
kệ Chúc
tán Hộ pháp
trong kinh Vô thường,
thuộc
Đại chánh
tạng:
“天阿蘇羅藥叉等 來聽法者應至心
擁護佛法使長存 各各勤行世尊教
諸有聽徒來至此 或在地上或居空
常於人世起慈心 晝夜自身依法住
願諸世界常安隱 無邊福智益群生
所有罪業並消除 遠離眾苦歸圓寂
恆用戒香塗瑩體 常持定服以資身
菩提妙華遍莊嚴 隨所住處常安樂”
“Trời,
A-tu-la, Dạ xoa thảy
Đến nghe
pháp đó nên chí tâm
Ủng hộ
Phật pháp khiến thường còn
Mỗi vị
siêng tu lời Phật dạy.
Bao nhiêu
người nghe đến chốn này
Hoặc trên
đất liền hoặc hư không
Thường với
người đời sinh
lòng từ
Ngày đêm
tự mình nương pháp ở.
Nguyện các
thế giới thường an ổn
Phước trí
vô biên lợi quần sinh
Bao nhiêu
tội chướng thảy tiêu trừ
Xa lìa các
khổ về viên tịch.
Hằng dùng
giới hương xoa vóc sáng
Thường trì
định phục để giúp thân
Hoa mầu
bồ-đề khắp trang nghiêm
Tùy theo
chỗ ở thường an lạc.”
Bài kệ
Chúc
tán
Hán ngữ
được sử dụng chủ yếu trong nghi lễ tụng kinh của Phật giáo Bắc truyền, để tán
thán các vị Hộ
pháp (Trời, A-tu-la, Dạ-xoa, v.v.) thọ trì lời
Phật
dạy và giữ gìn Chánh
pháp lâu dài.
Hai bài kệ
trên
đều tán thán,
thỉnh mời các vị thiên, dạ-xoa, long vương, thiện thần, mong họ lắng nghe được
Chánh
pháp mà thực hành và hộ trì
Chánh
pháp ấy được tồn tại lâu dài. Trong
kinh Phật,
chư thiên trong
nhiều trường hợp cho thấy
là một vị hộ pháp và thỉnh pháp. Trong kinh Thánh
cầu
(Trường
bộ),
có đề cập việc
Phạm thiên Sahampati
đã
cầu thỉnh
Đức
Phật thuyết pháp sau khi
Ngài chứng ngộ.
Vì mong muốn
chân lý
được lưu truyền ở thế gian nên Sahamapati đã cầu thỉnh
Đức
Phật ba lần,
và sau ba lần thỉnh,
Ngài đã đồng ý.
Tuy nhiên, về
mặt văn cú thì
có một
số điểm dị biệt. Bài kệ
Thỉnh
chư thiên
chỉ mời thỉnh các vị thiên, dạ-xoa, long vương ở các nơi như cõi trời, rừng núi
đến để nghe pháp thoại từ kim ngôn của
Đức
Thế Tôn.
Còn
bài kệ Chúc
tán
lại chứa đựng hàm nghĩa nhiều hơn:
“Đến nghe pháp đó nên chí tâm/ Ủng hộ Phật pháp khiến thường còn”. Ở đây
sau khi thỉnh mời chư thiên,
a-tu-la
đến nghe pháp, còn khuyến hóa
các vị ấy hãy chí thành, tinh tấn tu tập và hộ trì Phật pháp.
Bài
kệ chúc tán thể hiện tinh thần hộ pháp Bồ-tát:
thường sinh
từ tâm (常於人世起慈心)
và làm lợi
ích cho chúng sinh
(
無邊福智益群生
).
Với tinh
thần Bồ-tát của
Phật giáo Đại
thừa, vai trò của vị hộ pháp Bồ-tát vượt
qua
ý nghĩa của
chư thiên thông thường như thọ và hành Phật pháp.
Chư thiên ở đây
còn thể hiện sự dấn thân phụng sự, giúp đỡ chúng sinh
bằng Tứ
vô lượng tâm,
bằng
giới hương, định phục và trí tuệ bồ-đề.
Ở đây
Phật giáo
Đại thừa xem vai trò của chư thiên
là vai trò của
một vị Bồ-tát; chư thiên thực hành hạnh Bồ-tát để hướng dẫn và giúp đỡ chúng sinh,
bằng cách tự
thân thực hành Chánh
pháp, dùng lòng từ quán xét chúng sinh,
luôn sống trong chánh niệm, từ đó tạo nên năng lượng từ bi ảnh hưởng đến chúng sinh,
giúp cho thế giới an
hòa,
chúng sinh
được an lạc.
Những vấn đề liên quan đến chư thiên
Có nên cầu
sinh thiên?
Theo Phật giáo, thiên
giới là một trong các cõi mà con người sau khi chết sẽ tái sinh
vào. Theo
Kathavatthu,
quyển
VIII,
trái ngược với bốn cõi khổ địa ngục, súc sinh,
ngạ quỷ, a-tu-la
thì cõi người và cõi trời là cõi lành. Cõi trời có đầy đủ phước báu và sự an lạc
hơn cõi người, nhưng bên cạnh đó cõi người có vui có khổ nên Phật dạy là nơi
thuận lợi để tu tập chứng quả.
Vì vậy Đức
Phật thị hiện vào cõi người mà không thị hiện nơi cõi khác. Trong kinh
Đức
Phật dạy hàng cư sĩ về cảnh giới hướng thượng qua việc được cộng trú với chư
thiên, sinh
vào thiên giới.
Kinh
Đại bát-niết-bàn,
Trường
bộ
số 16, có đề cập đến số lượng các vị cư sĩ được sinh
thiên: “Cư sĩ Kakudha đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sinh
(thiên giới), và từ đó nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Cư sĩ
Kālinga... cư sĩ Nikaṭa... cư sĩ Kaṭissabha... cư sĩ Tuṭṭha... cư sĩ
Santuṭṭha... cư sĩ Bhadda... cư sĩ Subhadda đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được
hóa sinh
(thiên giới), và từ đó nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Này Ānanda,
hơn năm mươi cư sĩ mệnh chung tại Nādikā, đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sinh
(thiên giới) và từ đó nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Này Ananda,
hơn chín mươi cư sĩ mệnh chung tại Nādikā, diệt trừ ba kiết sử, làm giảm thiểu
tham, sân si, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt
tận khổ đau. Hơn năm trăm cư sĩ, mệnh chung tại Nadika, diệt trừ ba kiết sử,
chứng quả Dự lưu, nhất định không còn đọa vào ác đạo, đạt đến Chánh giác”.
Đức
Phật thuyết pháp nhằm mục đích
giúp
chúng sinh
vượt thoát mọi khổ đau của sinh tử, luân hồi.
Tuy nhiên,
có những chúng sinh
vì sợ hãi cảnh giới địa ngục, chán sự khổ đau của kiếp súc sinh,
và những điều bất toại ý của loài người nên mong muốn được sinh
nơi cõi sung sướng,
vì vậy Đức
Phật chỉ bày cảnh giới an lạc của chư
thiên,
mà đó dường như là nơi hạnh phúc nhất,
đáng
mong cầu nhất
của người dân xứ Ấn lúc bấy giờ.
Nhưng cõi trời không
phải là mục đích tối hậu của người Phật tử, cho nên sau khi sinh
vào thiên giới,
người ta phải
tiếp tục tu
tập để trừ diệt các kiết sử phiền não, thoát khỏi tam giới,
chứng đắc Thánh
quả.
Các vị Thánh hữu học sinh
về đâu?
Khi
tu tập đạt
đến tam quả A-na-hàm, hành giả chắc chắn
sẽ
tiến đến quả
vị giải thoát hoàn toàn
là
A-la-hán.
Tăng sĩ
hay cư sĩ đều có thể chứng đệ tam quả A-na-hàm, nhưng hàng xuất gia với sự ly
dục, ly bất thiện pháp một cách hoàn toàn nên sẽ chứng được quả vị A-la-hán.
Riêng hàng cư sĩ, trong sử chỉ ghi chép có một người chứng được
Thánh
quả A-la-hán, đó
là vua Tịnh Phạn
(Suddhōdana),
do chính Đức
Phật trực tiếp độ trước lúc lâm chung và do túc duyên đã đủ.
Với hành giả
chứng đệ tam quả A-na-hàm
thì
được trú nơi
cõi trời tầng trên cùng trong Đệ
tứ
thiền
thiên,
còn gọi là Tịnh
cư
thiên
(Śuddhāvāsa), và không thối
đọa
trở lại cõi nào nữa nên cũng được gọi là Bất hoàn thiên. Tuỳ theo lúc tu tập,
phát triển chi thiền nào mạnh sẽ được tái sinh
vào một trong năm cõi đó:
nếu
vị Tam quả
có Tín
căn mạnh thì sẽ tục sinh ở cõi Vô
phiền
thiên;
nếu vị Tam quả
có Tấn căn mạnh thì sẽ tục sinh ở cõi Vô
nhiệt
thiên;
nếu vị Tam quả
có Niệm căn mạnh thì sẽ tục sinh ở cõi Thiện
kiến
thiên;
nếu vị Tam quả
có Ðịnh căn mạnh thì sẽ tục sinh ở cõi Thiện
hiện
thiên;
nếu vị Tam quả
có Tuệ căn mạnh thì sẽ tục sinh ở cõi Sắc
cứu
cánh
thiên.
Vị Tam quả
dù không đắc thiền
cũng được sinh
về cõi Sơ thiền,
từ đây các vị A-na-hàm tu tập và chứng được đệ tứ quả A-la-hán;
vị ấy
không còn tái sinh,
hoàn toàn giải thoát.
Có nên
lễ bái chư thiên?
Theo
Phật giáo Nam truyền,
một người
khi đã quy y
hay xuất gia với
Đấng
Vô
thượng sư, thầy của trời người thì không
nên
lễ bái
bất kỳ
vị nào khác ngoài lễ bái
Tam
bảo. Chính vì các vị ấy còn trong luân hồi, còn tái sinh
trong lục đạo, vẫn còn khổ đau phiền não nên không quy y và đảnh lễ các vị ấy.
Cho nên các chùa theo hệ thống Nam truyền Phật giáo không hướng dẫn cư sĩ lễ bái
chư thiên mà chỉ đảnh lễ
Tam
bảo.
Tuy nhiên,
trong
Phật giáo
Bắc truyền,
tinh thần Bồ-tát được nêu cao, và vai trò hộ pháp
của
Bồ-tát mang ý
nghĩa quan trọng. Trong kinh điển Bắc truyền, các vị hộ pháp không chỉ là chư
thiên ở các cõi trời trong tam giới mà còn là các vị
Đại
Bồ-tát, như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Diệu Âm, Đắc Đại
Thế,
v.v. Chư vị này
hóa
hiện thành
vô số
hình tướng khác
nhau
để hoá độ chúng sinh,
làm lợi ích chúng sinh
và khiến Phật pháp trường tồn ở thế gian. Cho nên hình tượng chư thiên hộ pháp
là vị vì đại nguyện xả thân để cứu độ chúng sinh,
gìn giữ kho tàng
giáo pháp của Đức
Phật. Chính vì thế, các chùa Phật giáo Bắc truyền đều đảnh lễ vị hộ pháp chư
thiên với đại nguyện Bồ-tát sâu rộng ấy.
「佛說無常經」(CBETA
2022.Q1, T17, no. 801, p.745b7).