Di sản nghìn năm
Di sản nghìn năm
Di sản nghìn năm
H.W.Schumann viết: “Thật hiếm nhân vật nào trong lịch sử tư tưởng nhân loại
đã
có ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài như Đức Phật Siddhattha Gotama, và cũng không
ai
đã
để lại dấu ấn sâu đậm trên toàn châu Á như Ngài. Ðạo giáo do Ngài sáng lập không
chỉ đem lại nguồn an ủi cho vô số người mà còn cung cấp nền tảng học thuyết nhân
bản cao thượng và một di sản văn hóa vô cùng tinh tế”.[1]
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại, vị giáo chủ, và cũng là nhà truyền giáo
tích cực nhất, bền bỉ nhất, giản dị nhất, bao dung nhất, không thể ai khác hơn
Đức Phật. Suốt
49
năm, Đức Phật
đã
đi không ngừng nghỉ, từ nơi giàu sang tới chốn nghèo hèn. Đến đâu, Ngài cũng tùy
duyên hóa độ, chỉ dẫn con đường đưa đến sự giải thoát rốt ráo. Vậy thì di sản
của Phật để lại là một triết thuyết hay tôn giáo có những tính chất gì?
Phật giáo: Một tôn giáo dân chủ và “vô thần”
Các
tôn giáo độc thần luôn có một đấng tối thượng. Phật giáo thì chỉ
coi việc
giác ngộ
bản thân
là tối thượng chứ không tồn tại một đấng tối thượng
siêu hình nào bên ngoài ta.
Bậc Vô thượng hay gọi đơn giản là Phật chính là một
“cảnh giới”
mà mọi chúng sinh đều có thể đạt được nếu kiên trì tu tập, tĩnh tâm
thiền định.
Ở các tôn giáo khác có sự hiện diện các
vị thần
với
quyền lực siêu nhiên,
còn
trong Phật giáo, Phật là một người đã giác ngộ, đạt tới giải thoát,
tâm ý
hoàn toàn trong sạch và là người có lòng từ bi thương yêu, cứu giúp tất cả chúng
sinh không phân biệt dù hy sinh cả bản thân mình. Danh hiệu
hay “cảnh giới”
này
ai trong
chúng sinh
cũng
có thể đạt tới, dù thời gian tu tập kéo dài rất lâu,
thậm chí trong nhiều kiếp.
Chính Phật cũng đã khẳng định: "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ
thành".
Các tôn giáo khác thường có Giáo hội và người đứng đầu, lãnh đạo toàn bộ tín đồ
(ví dụ như Giáo hoàng của Công giáo,
Giáo chủ
của Hồi giáo).
Họ có quyền lực gần như tuyệt đối.
Trong Phật giáo, người có thời gian, cấp độ tu hành cao sẽ được các tín đồ trọng
vọng, nhưng họ không có
toàn
quyền chỉ đạo các tín đồ khác. Trước khi nhập diệt, Đức Phật Thích Ca đã để lại
di ngôn rằng Tăng đoàn sẽ không có người đứng đầu (để tránh Tăng đoàn bị sa vào
tranh chấp quyền lực, tài sản), các bài kinh và lời dạy của Phật là điều có thể
giúp các tín đồ dựa vào đó để sử dụng trí tuệ của mình tự soi sáng cho mình: "Này
A-Nan, thầy cho rằng các Tỷ-kheo không có nơi nương tựa, không có ai che chở sau
khi Ta nhập diệt ư? Đừng nghĩ như vậy, những Kinh, Luật mà Ta đã giảng dạy từ
khi thành Phật đến nay sẽ là chỗ nương tựa che chở cho các thầy đó... Này các đồ
đệ, các con hãy tự làm đuốc để soi sáng cho các con, hãy trông cậy vào chính sức
mạnh của các con; hãy tinh tấn tu hành".[2]
Một tôn giáo “khoa học”
Theo cố Giáo sư Phạm Công Thiện thì không thể nói “Phật giáo là một tôn giáo
mang tính chất khoa học”
mà phải nói “khoa học mang tính chất Phật giáo”
vì bản thân Phật giáo là khoa học. Albert Einstein có lần nói “Khoa học mà
thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng”
(Science without religion is lame. Reigion without science is blind).
Ông đã nghiên cứu
đạo
Phật qua các sách báo
do
các học giả Phật học Âu-Mỹ
viết.
Nhờ nghiên cứu như vậy mà A.Einstein đã nhìn thấy
đạo
Phật như là một triết lý cực kỳ sống động và triết lý ấy đã đi vào cuộc đời bằng
chân lý thực chứng của mình, giảm bớt sự chậm tiến, lạc hậu, mê tín của thời
đại. Đạo Phật đã đem lại cho con người một cái nhìn mới, một lối sống mới, một
sự hài hòa mới, sống với nhau như ánh sáng trong không gian, chan hòa với nhau
như nước với sữa.
Einstein đã phát biểu về
đạo
Phật: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi
thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự
nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh
nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực
bên
trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật Giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó”.[3]
Một số tôn giáo cho rằng
trái
đất
là
trung tâm của vũ trụ,
nhưng Phật giáo cho rằng
trái
đất
chỉ là một trong muôn vàn các thế giới cùng tồn tại, mỗi thế giới lại có những
đặc điểm khác nhau,
trong tam thiên thế giới,
tức
là số lượng các thế giới gần như là vô hạn. Đức Phật Thích Ca từng nói: "Trong
vũ trụ này còn vô số những thế giới khác, trong một ly nước cũng có vô số
chúng sinh. Quan
điểm này hiện nay đã được khoa học hiện đại chứng minh là đúng (theo thuật ngữ
của khoa học hiện đại thì "Tam thiên đại thiên thế giới" chính là tương ứng với
những
thiên hà, còn những
chúng sinh
trong
ly
nước chính là vi
trùng, vi
khuẩn).
Một tôn giáo bình đẳng giữa chúng sinh
Các tôn giáo khác coi loài người là sinh vật tối thượng. Còn trong Phật giáo,
được làm người là một điều đáng quý nhưng
loài người (nhân giới) cũng chỉ là một kiếp sống như các loài vật khác (súc sinh
giới, a-tu-la giới, thiên giới), có kiếp sống còn cao cấp hơn loài người. Song
dù là người, a-tu-la, trời hay súc sinh thì cũng đều là sinh vật, phải chịu quy
luật nhân quả, không sinh vật nào là vĩnh cửu mà đều phải có lúc chết; lúc chết
thì sẽ luân hồi sang kiếp sống khác,
tùy theo thiện nghiệp hay ác nghiệp.
Một tôn giáo phi giai cấp
Xã hội
vào thời Đức
Phật có bốn giai cấp với sự kỳ thị rất
lớn:
1- Bà-la-môn (Brāhmaṇā): giai cấp Tăng lữ, đứng đầu xã hội.
2. Sát-đế-lỵ (Khattiya; Kṣtriya):
đây
là giai cấp của vua chúa, tướng lĩnh,
chiến sĩ nắm quyền điều hành, lãnh đạo, quản lý xã hội.
3. Vệ-xá (Vessa; Vaiśya):
gồm
giới thương buôn, buôn bán sỉ và lẻ, các ngành nghề thủ công, canh tác... Họ là
giai cấp trung lưu.
4. Thủ-đà-la (Sudda, Sūdra; Śūdra): Gồm những nghề lao động tay chân nặng
nhọc. Ngoài ra còn có hạng tiện dân, nô lệ Chiên-đà-la (Caṇḍāla) ở tận
đáy xã hội, không được
bốn
giai cấp trên thừa nhận. Họ là “giai cấp” tiện nhân, hạ liệt,
sống cơ cực, bần cùng
và luôn bị xã hội coi khinh, rẻ rúng.
Thời nào cũng vậy, giai cấp Thủ-đà-la luôn bị coi khinh, kỳ thị; riêng giới
Chiên-đà-la thì sống ngoài rìa xã hội, đến nổi luật
Maṇu
có điều khoản: “Giết một người Caṇḍāla không phạm tội giết người, vì Caṇḍāla
không phải là người”.[4]
Trong một lần thuyết pháp cho vua nghe, Phật dạy:
“Này đại chúng, chúng sinh sai biệt nhau về phước nghiệp, chứ không phải vì dòng
dõi hay giai cấp. Ai sống theo thiện pháp thì đó là người đáng kính, chứ không
phải vì người đó thuộc dòng dõi, giai cấp nào cả.
Này đại chúng, Không
có giai
cấp
khi
máu
cùng
đỏ,
không
có
giai
cấp
khi
nước
mắt
cùng
mặn!”[5]
Ngay lúc đó, vua Sudhodana bỗng chứng ngộ một quả vị cao hơn, đứng bật dậy nói:
“Mỗi một hạt bụi dưới chân ta cũng tràn đầy sự sống”. Nhiều người trong hoàng
tộc chứng sơ quả Tu-đà-hoàn, rơi nước mắt vui mừng.
Một tôn giáo mang tính chất triết học
Triết lý siêu việt của đạo Phật đã trở thành một trong những đỉnh cao tư tưởng
của lịch sử triết học Đông phương cũng như Tây phương. Phật giáo đã vượt ra khỏi
một tôn giáo và là một tư tưởng triết học.
Phật
giáo không chấp nhận đức tin mù quáng và tuyệt đối. Nghiên cứu triết học nhằm
giúp ta phán đoán và đi tìm chân lý. Nói cách khác, nếu hiểu triết học là sự yêu
mến trí tuệ giác ngộ thì Phật giáo là một triết học, bởi vì Phật giáo đã hướng dẫn
ta nhận thức sáng suốt về các hành động và tư tưởng của ta.
Trong Tăng chi bộ (Anguttara Nikaya) có ghi lời Đức Phật như sau: “Đừng
tin tưởng những điều gì dựa vào tập quán, những bài văn viết lưu truyền lại.
Đừng tin những gì được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đừng tin tưởng những điều gì
do các bậc thánh nhân, giáo chủ nói lại. Ngay cả đừng tin tưởng vào những điều
mà thầy học của mình, tôn sư của mình nói ra. Điều quan trọng là chúng ta phải
kiểm nghiệm những lời nói, những điều do các bậc nêu trên dạy, ta phải nhận rõ
đâu là chỗ đúng, đâu là chỗ sai, đâu là điều có lợi cho mình, cho kẻ khác. Các
đệ tử hãy lấy đó làm tiêu chuẩn sống ở trong cuộc đời này”.
Như vậy, Phật giáo được coi như là một triết học.
Đức Phật được
xem như
là một triết gia lớn
(the great
philosopher),
một nhà tư tưởng lớn (the great thinker)...[5]
Khi nghiên cứu “Phật giáo như là một triết học”, chúng ta sẽ nghiên cứu các lĩnh
vực triết học chính yếu của Phật giáo như: nhận thức luận, nhân minh luận hay
luận lý học, đạo đức học, giải thoát luận hay con đường giải thoát của đạo Phật.
Chúng ta sẽ tìm hiểu
lý
Duyên
khởi, Tứ
diệu
đế,
triết
học
Tánh
không,
Trung đạo...
qua các kinh điển
Nguyên
thủy và
Đại
thừa.
Trong
kinh
Lăng-già
Đức
Phật nói:
“Ta từ khi thành đạo, trong 49 năm thuyết pháp, chưa từng nói một lời”.
Chúng ta phải hiểu,
Vô hữu
Niết-bàn
Phật
Vô hữu Phật
Niết-bàn
Viễn ly giác, sở giác
Mâu-ni
tịch tịch quán
Thị tắc yểm ly sanh
Thị danh vi bất thủ
Kim thế hậu thế tịnh.
(Kinh Lăng-già)
(Không
Phật vào Niết-bàn
Không
Niết-bàn
của Phật
Xa lìa biết bị biết
Bậc thành lặng quan sát
Nhờ vậy sanh nhàm chán
Ấy là không ôm giữ).
Khi ngã chấp tiêu diệt thì khổ hết, Niết-bàn
hiển lộ như mây tan trăng hiện. Ảo tưởng về ngã vướng vào đâu thì khổ đó, ảo
tưởng về ngã tan đi thì Niết-bàn
ở đó. Cho nên khổ hay Niết-bàn
cả hai vừa ở khắp nơi vừa không ở nơi nào...[6]
Đạo Phật không lưu lại kinh điển do chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni viết bằng một
văn tự nào; đây có thể là một ưu điểm, và có thể là một may mắn cho tư tưởng
Phật giáo. Điều này giúp cho tư tưởng Phật giáo không bị dính chặt vào văn tự,
nhờ thế các nhà diễn giải, các luận sư đã làm rực rỡ, và đã điểm tô triết học
Phật giáo thành rừng triết học đầy kỳ hoa dị thảo. Do đó, khi nghiên cứu tư
tưởng Phật giáo, người học Phật cần đem sự hiểu biết, trí tuệ của mình để có thể
thấu hiểu cái triết lý thâm sâu và siêu việt này.
Chúng ta nhớ
Bốn
điều
y
cứ:
1. Y pháp bất y nhân: nghĩa là y cứ vào
giáo
pháp của Phật mà tu hành, chứ đừng nương tựa, chấp mắc vào người.
2. Y nghĩa bất y ngữ: tức là y vào nghĩa lý mà tu hành, đừng y cứ vào văn tự
ngôn ngữ mà chấp mắc vào đó
3. Y trí bất y thức: nghĩa là y cứ vào lý trí, chứ đừng nương tựa vào thức tình.
4. Y liễu nghĩa bất
y bất liễu nghĩa: nghĩa là y cứ vào kinh điển liễu nghĩa, chứ đừng y cứ vào kinh
điển bất liễu nghĩa, chưa nói rõ hết nghĩa lý.
Tôn giáo không phân biệt giới tính
Theo cố Ni sư Thích Nữ Trí Hải, “Nhiều người đã căn cứ vào Bát kỉnh pháp
và căn cứ vào việc Phật chế giới cho Ni nhiều hơn Tăng mà cho rằng Phật kỳ thị
nam nữ. Thật ra vì phái nữ có những điều kiện vật lý tâm lý khác hẳn nam giới
nên giới luật cũng khác... Mãi đến nhiều năm sau khi thành lập Tăng đoàn, bà mẹ
nuôi
Đức
Phật là
hoàng
hậu Mahāprajāpatī cùng với 500 nữ nhân dòng
họ
Thích
Ca
mới đến xin Phật thế phát xuất gia.
Phật từ chối.
Lần thứ hai khi nghe
Đức
Phật đang ở Kỳ Hoàn tịnh xá,
hoàng
hậu cùng 500 nữ nhân ấy từ xa xôi lặn lội,
đi bộ rách cả gót chân, y phục lấm lem đất bụi đến nơi đứng ngoài cửa khóc lóc
thảm thương. Ngài A Nan thấy thế động lòng can thiệp giúp cho
hoàng
hậu và sau ba lần năn nỉ, Phật mới bằng lòng cho bà và 500 nữ nhân xuất gia với
điều kiện phải tuân Bát kỉnh Pháp. Phật biết tâm lý kiêu căng cố hữu của người
phụ nữ, mặt trái của bản năng
làm
mẹ, ưa bảo bọc và tự cho mình quan trọng.
Bà là đương kim hoàng hậu, lại là mẹ nuôi đã chăm sóc
Thái
tử (Đức
Phật trước khi xuất gia) từ khi mới ra khỏi lòng mẹ được bảy ngày. Bà có đủ tất
cả lý do để kiêu căng ngã mạn khi bước vào hàng ngũ xuất gia. Nếu Phật không chế
ra Bát kỉnh pháp thì bà sẽ trổ trời mà lên, không coi ai vào đâu nữa. Nếu ở đời
bà sai bảo lính tráng quan hầu thì không lý do gì khi vào đạo và lại là mẹ của
Phật, bà không sai bảo được những nam tu sĩ choai choai đáng tuổi con cháu
bà?....”
Chúng ta
cần
hiểu
“trở
ngại lớn nhất cho người đi tìm đạo là thói kiêu căng”.
Gandhi nói,
“Người
tìm chân lý phải xem mình hèn mọn hơn cát bụi”.
Phật đã nói,
“Cũng như nước trong bọt biển chỉ có một vị mặn. Đạo ta chỉ thấm nhuần một vị,
ấy là vị giải thoát”.
Trong số đông đảo phụ nữ xuất gia thời
Đức
Phật còn tại thế,
có
nhiều người chứng quả A-la-hán.
Nếu trong
khi Tăng bộ có
hai
vị
thượng thủ
là Sariputta (Xá-lợi-Phất)
và Mogallamna (Mục-kiền-liên)
thì
trong
Ni bộ cũng
có
hai vị
tương tự
là bà Khema và Uppalavanna.
Chưa kể việc Phật độ cho nàng Ambapali,
một kỳ nữ kiều diễm của thành
Vệ-xá-ly
mà nhan sắc suýt làm cho vua Bimbisara mất mạng.
Đức Phật đã cảm hóa và khiến nàng trở thành một người xuất gia thanh tịnh trong
hàng ngũ Ni,
chứng tỏ đức bình đẳng
và lòng từ bi bao la của
Ngài.
Ni sư kết luận:
“Dưới ánh sáng tâm linh của
Đức
Phật, không có vấn đề kỳ thị mà trái lại mọi người mọi loài đều hiển lộ đúng chỗ
của nó và đều quan trọng cần thiết như nhau.
Như trường hợp Long
nữ
thành Phật trong kinh Pháp hoa, hay Phật thọ ký cho các
bà
Ma-ha-ba-xà-ba-đề
và Da-du-đà-la
thành Phật...
Đức Phật dạy rằng chỉ có tự chúng ta làm cho chúng ta thanh cao hay hèn hạ ,
không ai khác có thể nâng cao hay hạ thấp phẩm giá của ta.
Trong vấn đề phụ nữ cũng vậy khi họ theo đuổi giá
trị tinh thần tâm linh, biết
sống vì chân lý, thì họ không có lý do gì để mặc cảm về thân phận mình, lại càng
không có lý do gì để kiêu căng, mà chỉ sống như một con người, đơn thuần là một
con người, và theo Phật giáo, đấy là một địa vị thuận lợi mở ra muôn ngàn khả
năng đạt đến tuyệt đối, Niết-bàn.[7]
Thế đấy,
di sản của
Đức
Phật còn mãi
với
thời gian, không gian để hiện hữu quanh ta, trong ta với những tính chất nêu
trên. Hãy trân trọng gìn giữ và hoằng dương
Chánh
pháp.
Nguyên Cẩn
Ghi chú:
(1)
H.W.Schumann (1982), The Historical Buddha (Ðức Phật lịch sử),
Trần Phương Lan (dịch) (2000), NXB.TP.HCM.
(2)
https://gdptvietnam.org/duc-phat-nhap-niet-ban.gdpt
(3)
https//phatgiao.org.vn/nha-khoa-hoc-thien-tai-albert-einstein-nghi-gi-ve-giao-ly-dao-phat-d32630.html
(4)
https://luatminhkhue.vn/boi-canh-van-hoa-xa-hoi-ton-giao-tin-nguong-thoi-duc-phat.aspx
(5)
https://thientonphatquang.com/ngan-xua-duc-phat-da-noi-gi-ve-chong-phan-biet-chung-toc/
(6)
https://phatgiao.org.vn/phat-giao-nhu-la-mot-triet-hoc-hay-mot-ton-giao-d38182.html
(7)
Thích Nữ Trí Hải, Từ nguồn diệu pháp, Niết-bàn
sinh tử,
NXB.Tôn
giáo, 2004.
(8)
Thích Nữ Trí Hải, Từ nguồn diệu pháp, Nữ giới trong đạo Phật, NXB.Tôn
giáo, 2004.