Lục kiến xứ (六見處) - sáu nơi trú ngã

luc kien xu

Lục kiến xứ (六見處) - sáu nơi trú ngã

Thạnh Châu

 

Vào thời Đức Thế Tôn tại thế, tư tưởng Veda[1] phổ biến rộng rãi trong đời sống xã hội và tâm linh của người Ấn Độ. Theo tư tưởng Veda, mỗi người là một Tiểu ngã (Atman), và cần phải tu tập để được trở về với Đại ngã (Brahman). Với niềm tin có một cái ngã hiện hữu, các nhà hiền triết Ấn Độ suy tư về các vấn đề liên quan đến ngã, ví như hình dáng ngã, nơi trú của ngã. Và vấn đề được đặt ra là, cái ngã đó ở đâu trong cơ thể con người?

Con người nhận biết thế giới thông qua các giác quan, qua đó hình thành những nhận thức, quan điểm về mọi sự vật, hiện tượng trên thế gian, kể cả bản thân mình. Các nhà hiền triết Ấn Độ quan niệm rằng “con người” là sự kết hợp của nhiều bộ phận khác nhau, nhưng tựu chung có thể bao gồm hai phần chính, đó là danh (nāma) và sắc (rūpa). Ở đây sắc chính là phần thân thể vật lý, còn danh chỉ cho các trạng thái tâm lý, như thọ, tưởng, hành, thức... Các triết gia Ấn Độ cho đây là nơi trú ẩn của ngã. Đức Thế Tôn gọi quan điểm này là Lục kiến xứ (六見處), tức sáu quan điểm về nơi chấp ngã. Thực tế, ngã là một sản phẩm của tâm thức có tính trừu tượng. Vì thế các nhà hiền triết Ấn Độ không thể mô tả cụ thể hình tướng của ngã, như cách làm thông thường đối với mọi sự vật, hiện tượng trên thế gian. Thay vào đó, họ nghĩ về nơi trú của ngã, nhằm đáp ứng mục đích khẳng định có ngã hằng hữu, dù bên trong hay bên ngoài cơ thể con người.

Trình bày về sáu nơi trú của ngã, trong kinh Sanh tử lưu chuyển (kinh Tạp A-hàm)[2] Đức Phật có dạy các đệ tử: “Này các Tỷ-kheo, vì có sắc, sinh khởi sự của sắc, hệ lụy sắc, nơi sắc mà thấy ngã, khiến cho chúng sinh bị vô minh che lấp, bị ái cột cổ, phải dong ruổi nơi đường dài, luân hồi theo sinh tử, lưu chuyển trong sinh tử. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

Cho nên, này các Tỷ-kheo, những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy

Cũng vậy, cái thấy, cái nghe, cái hay, cái biết, cái sở cầu, cái sở đắc, cái được nhớ nghĩ; tất cả đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.[3]

Qua đoạn trích trên chúng ta có thể thấy rằng khái niệm sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã phổ biến ở Ấn Độ cổ đại, có trước hoặc cùng thời với Đức Phật Thích Ca. Người Ấn cổ đại cho rằng cơ thể con người được cấu thành bởi các yếu tố khác nhau, rồi phân biệt và đặt tên cho chúng là sắc, thọ, tưởng, hành, thức; đồng thời xem chúng làm nơi nương gá của ngã. Không những thế, các khái niệm này còn được mở rộng theo chiều thời gian: quá khứ, hiện tại, tương lai; theo chiều không gian: trong - ngoài, trên - dưới…, tạo thành bức tranh đa chiều, có nhiều góc nhìn khác nhau cho cùng một đối tượng. Lý giải điều này, Đức Phật cho rằng do vì con người nhận thức được yếu tố sắc (thân thể vật lý) nên sinh khởi các quan điểm, tư tưởng liên quan đến sắc, chấp chặt (hệ luỵ) vào đó và phân biệt đúng sai với các nhận thức khác. Việc này cũng xảy ra tương tự đối với các thành phần khác, thuộc về trạng thái tâm lý như cảm thọ, tri giác, suy tính, nhận thức… Tất cả những thứ này đều không phải ngã, không phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Như vậy, ở đây Đức Phật phủ nhận mọi quan điểm về ngã, bao gồm cả quan điểm có hay không có ngã.

Tương tự, trong kinh Đại duyên phương tiện (kinh Trường A-hàm), Đức Phật cũng giảng giải cho Tôn giả A Nan các quan điểm khác nhau về sự liên hệ giữa ngã và các yếu tố sắc, thọ, tưởng và thức[4]. Theo đó, có bốn quan điểm về sắc[5], bốn loại cảm thọ[6], bảy loại thức[7] và hai loại tưởng[8] liên hệ đến tư duy chấp ngã. Mỗi người đều cho rằng quan điểm của mình đúng, còn quan điểm của người khác thì sai, từ đó đưa đến những tranh luận bất đồng. Trái lại, với sự chứng biết như thật đối với các pháp, Đức Phật nhận thấy tất cả quan điểm của người thế tục không đúng với chân lý. Thế nên, Ngài dạy các Tỷ-kheo nên nói: “Cái ấy không phải là ta. Ta không phải là cái ấy[9]. Người đệ tử Phật với tri kiến như thật có thể giải thoát khỏi mọi kiến chấp sai lầm.

Ngoài ra, trong nhiều bản kinh A-hàm khác, Đức Phật đã nói đến chính kiến về các thành phần cơ thể con người có liên hệ đến các tư tưởng chấp ngã. Cụ thể, trong kinh Thuyết vô thường (kinh Trung A-hàm) Đức Thế Tôn dạy: “Sắc là vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã. Thọ cũng vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã. Tưởng cũng là vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã. Hành cũng là vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã. Thức cũng là vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã.”[10] Kinh Phi ngã (kinh Tạp A-hàm) cũng viết: Sắc không phải là ngã. Nếu sắc là ngã, không nên ở nơi sắc mà bệnh, khổ sinh và cũng không thể có ước muốn khiến như vậy hay không như vậy đối với sắc. Vì sắc là vô ngã cho nên ở nơi sắc có bệnh, khổ sinh và nó cũng có ước muốn khiến như vậy, hay không như vậy đối với sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy”[11]

Ở đây, Đức Phật đã căn cứ vào hình tướng thực tế để lý giải về sự vô thường, vô ngã của các pháp. Nếu như sắc là ngã thì sắc ấy không bị bệnh đau. Con người, từ lúc sinh ra và đến khi qua đời, không ai không một lần trải qua sự đau bệnh đối với thân thể vật chất, và cả bệnh về tâm lý. Dù là người giàu hay nghèo, ở quốc gia này hay xứ sở khác đều có những căn bệnh do luật vô thường chi phối. Ai có bệnh thì có khổ, khổ là vì chúng ta không làm chủ được sự thay đổi của thân và tâm. Thế nên, các pháp (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là vô ngã. Nói cách khác, năm uẩn là vô ngã. Đó là quan điểm của Phật giáo. Triết lý này không chỉ có trong văn hệ A-hàm (thuộc Hán tạng) mà có cả trong văn hệ Pāli. Khi nghiên cứu về bản chất của con người (nhân tính) trong kinh tạng Pāli, Hòa thượng Thích Chơn Thiện có đưa ra nhận định: “Cái gọi là con người là một tập hợp của năm uẩn vốn rỗng không, nên con người hẳn phải là vô ngã và không phải là ‘Ta’, không phải ‘của Ta’, không phải là ‘tự ngã của Ta’. Ðiều này nghe khá lạ, nhưng là sự thật[12]. Kết quả nghiên cứu này[13] một lần nữa khẳng định quan điểm của Phật giáo về các thành tố cấu tạo nên con người: Năm uẩn đều rỗng không, đều vô thường, vô ngã. Và, phải chăng thuyết năm uẩn này có nguồn gốc hoặc có liên hệ với quan điểm về sáu xứ trú ngã của các nhà ngoại đạo? Mọi sự vật, hiện tượng trên thế gian được con người nhận biết qua sự tiếp xúc giữa các căn bên trong và cảnh vật bên ngoài, hình thành khái niệm và phân biệt các đối tượng. Bản thân con người được phân thành hai đối tượng nhận thức chính: thân thể vật lý và trạng thái tinh thần; hoặc có thể phân chia nhỏ hơn thành các bộ phận thuộc thân thể như đầu, mình, tay, chân….; và các tâm lý như buồn, vui, thương, ghét… Tuy nhiên, theo quan điểm Phật giáo, bản thân con người cũng như vạn pháp đều là những hình tướng do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, chúng luôn luôn biến đổi. Trong cái tổ hợp nhân duyên đó, không có bất kỳ thành tố nào cố định, bất biến để được cho là tương đồng với ngã hay là nơi lưu trú của ngã.

Như thế, chúng ta có thể hiểu Lục kiến xứ - sáu nơi trú của ngã, xuất phát tử quan điểm của các nhà ngoại đạo. Đức Phật đã tổng hợp và chỉ ra sự sai lầm của họ. Đây có thể gọi là tuỳ thuận thế gian mà Đức Phật phân biệt sáu xứ, kỳ thật không có pháp nào thật có để lập thành xứ, làm nơi chốn để cho đối tượng khác có thể đánh đồng hay nương gá.

 


 

[1][1] Kinh Veda là thánh điển của Bà-la-môn giáo. Theo Phạn ngữ, Veda có nghĩa là tri thức, kiến thức. Người Ấn xưa xem kinh Veda là tri thức truyền thống. Theo các nhà nghiên cứu, hiện nay kinh này còn lại bốn bộ, đó là:1. Rig-veda (Lệ Câu Vệ Đà), Tri thức về các thánh ca tán tụng; 2. Sama-veda: Dạ Nhu Vệ Đà, Tri thức về các giai điệu; 3. Yajur-veda, Tri thức về các lời khấn khi tế lễ; 4. Atharva-veda, Tri thức về các thần chú.

[2]  Trong phần Tương ưng kiến (kinh Tạp A-hàm) có hai bài kinh cùng nội dung, cùng mang tên Sanh tử lưu chuyển (số 135, tr.296 và số 138, tr.299). Sau mỗi bản kinh, có hai kinh kế tiếp có cùng nội dung chính, chỉ khác nhau phần cuối mỗi kinh. Ngoài ra, nội dung hai kinh này trùng với kinh Ưu não sanh khởi (số 141, tr.303). Theo chú thích của Tuệ Sỹ, phần Tương ưng kiến này có đến 93 kinh, nhưng chỉ có 6 kinh có nội dung. (Thích Đức Thắng dịch, Kinh Tạp A-hàm, cuốn Chú thích số 1, phần Tương ương kiến, NXB.Hồng Đức, Hà Nội, 2019, tr.296).

[3] Thích Đức Thắng dịch, Kinh Tạp A hàm, cuốn 1, số 135, Kinh Sanh tử lưu chuyển, NXB.Hồng Đức, Hà Nội, 2019, tr.296-297.

[4] Tuệ Sỹ dịch, Kinh Trường A-hàm, tập 1, kinh Đại duyên phương tiện, số 13, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, 2007, tr.302- 306.

[5] Bốn quan điểm liên hệ giữa ngã và sắc, như 1. Hữu hạn, sắc là ngã; 2. Vô hạn, sắc là ngã; 3. Hữu hạn, vô sắc là ngã; 4. Vô hạn, vô sắc là ngã.

[6] Bốn quan điểm liên hệ giữa ngã và cảm thọ, gồm 1. Thọ là ngã; 2. Thọ không phải ngã, ngã là thọ; 3. Thọ không phải ngã, ngã không phải thọ; nhưng thọ pháp là ngã; 4. Thọ không phải ngã, ngã không phải thọ, thọ pháp không phải ngã; nhưng thọ là ngã.

[7] Bảy quan điểm liên hệ ngã và thức gồm: 1. Hạng chúng sinh, với nhiều thân khác nhau và nhiều tưởng khác nhau, tức chư Thiên và loài Người; 2. Hạng chúng sinh với thân đồng nhất nhưng với nhiều tưởng khác nhau, như trời Phạm chúng; 3. Hạng chúng sinh có thân sai biệt nhưng tưởng đồng nhất; đó là trời Quang âm; 4. Hạng chúng sinh với thân đồng nhất, tưởng đồng nhất, tức trời Biến tịnh; 5. Hạng chúng sinh trú nơi không vô biên xứ; 6. Hạng chúng sinh trú nơi thức vô biên xứ; 7. Hạng chúng sinh trú nơi vô sở hữu xứ.

[8] Hai quan điểm liên hệ ngã và tưởng, gồm: 1. Vô tưởng xứ; 2. Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

[9] Tuệ Sỹ dịch, Kinh Trường A-hàm, tập 1, kinh Đại duyên phương tiện, số 13, NXB.Tôn giáo, Hà Nội, 2007, tr.306.

[10] Tuệ Sỹ dịch, Kinh Trung A-hàm, tập 1, số 120, kinh Thuyết vô thường, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, 2008, tr.877.

[11] Thích Đức Thắng dịch, Kinh Tạp A-hàm, cuốn 1, số 79, kinh Phi ngã, NXB.Hồng Đức, Hà Nội, 2019, tr.163.

[12] Thích Chơn Thiện, Lý thuyết Nhân tính qua tạng kinh Pāli, NXB.Phương Đông, TP.Hồ Chí Minh, 2009, tr.153.

[13] Tác phẩm Lý thuyết Nhân tính qua tạng kinh Pāli là luận án tiến sĩ Phật học của Hòa thượng Thích Chơn Thiện. Đây là bản tiếng Việt do Tâm Ngộ dịch tử bản nguyên tác tiếng Anh: The Concept of personality revealed through The pancanikaya.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle