Kinh nghiệm nội tâm và ngôn ngữ

kinh nghiem noi tam

KINH NGHIỆM NỘI T�M V� NG�N NGỮ*

Đại sư  SUZUKI

Huỳnh Ngọc Chiến dịch

 

Tự chứng, tự ngộ c� thể xảy ra được l� nhờ v�o sự hiện hữu của Như Lai tạng (Tathāgata-garbha) trong t�m mỗi ch�ng sinh. Tạng (garbha) theo nghĩa đen l� �thai� hay �một c�i g� đ� ch�n dấu b�n trong, n� c� nghĩa l� chủng tử (hạt giống) của Như Lai, từ đ� sinh ra sự to�n gi�c. Tuy nhi�n, tạng n�y thường bị che lấp dưới những lớp vỏ của ph�n biệt vọng tưởng (parikalpa hay vikalpa) v� chấp trước phi l� (abhiniveśa). Vọng tưởng ph�n biệt được sinh ra do bởi kh�ng thấy được chư ph�p y như thực (yathābhūtam), nghĩa l�, kh�ng chịu sự chi phối của nguy�n l� sai biệt do t�m t�c động l�n c�c ph�p ngoại tại. C�n chấp trước l� hậu quả kh�ng tr�nh khỏi của vọng tưởng ph�n biệt, n� g�y cho ta đủ thứ sầu bi khổ n�o. Do đ�, Như Lai tạng (Tathāgata-garbha) bản lai thanh tịnh v� v� nhiễm, phải được phục hồi trở về trạng th�i tự nhi�n v� chấp. N� thường được v� như vi�n ngọc v� gi� bị ch�n v�i dưới lớp vải che uế trọc. Bỏ lớp vải che kia đi, vi�n ngọc rực rỡ kia sẽ chiếu tỏa �nh linh quang tu�n tr�o l�n vạn hữu để vạn hữu hiển lộ y như thực. Sự chiếu diệu giải minh đạt được đ� l� trạng th�i tự chứng v� l�c ấy, ta thấy Như Lai tạng r� r�ng như thấy tr�i amalaka trong l�ng b�n tay. Một khi Như Lai tạng được gột sạch hết mọi � nhiễm th� n� vượt ngo�i tầm tư ngh� của h�ng ngoại đạo v� sở đắc của h�ng Tiểu thừa. T�c giả kinh Thập địa (Daśabhūmka) cũng như kinh Lăng-gi� gọi n� l� V� ph�n biệt tr� (avikalpa hay nirvikalpaj�āna) hay Ch�n như tr� (Tathataj�āna).

Cho d� cứu c�nh c� mang t�nh thực tiễn đi chăng nữa, song kinh Lăng-gi� vẫn đầy c�c danh từ trừu tượng, điều đ� đ� đẩy những người chưa quen thuộc với nền văn học Phật gi�o xa khỏi c�ng việc nghi�n cứu kinh s�u hơn. Nhưng điều n�y kh�ng thể tr�nh khỏi, bởi v� cảnh giới m� kinh Lăng-gi� tuy�n thuyết kh�ng nằm trong tầm thể hội của � thức vốn thường bị ngột ngạt bởi c�c kh�i niệm đối nghịch m�u thuẫn lẫn nhau. Về điểm n�y, lập trường kinh rất r� r�ng minh bạch khi thuyết rằng kẻ n�o c�n b�m v�u, chấp trước v�o ng�n từ th� sẽ kh�ng thể hội được ch�n l�[1] (tattvam) v� �cảnh giới th� thắng vượt ngo�i ng�n thuyết v� ph�n t�ch.�[2] Quả thực trong kinh, Đức Phật nhắc nhở kh�ng mệt mỏi cho ta một điều rằng: ng�n ngữ qu� ngh�o n�n để m� tả đ�ng cảnh giới tự chứng. �iều n�y nằm trong ch�nh bản chất của ng�n ngữ. Ng�n ngữ lu�n mang t�nh ph�n biệt, khi ta đề cập đến vật n�y th� n� phải được ph�n biệt với c�c vật kh�c, như thế l� đ� giới hạn n� trong một dung độ hay tr�nh hạn n�o đ�. C�n gi�y ph�t tự chứng tối thượng th� kh�ng bị ước th�c v� biện biệt dưới bất kỳ h�nh tướng n�o, c� lẽ c�ch duy nhất để diễn tả n� l� n�i �C�i đ�, hoặc trừu tượng hơn, l� �Như Như� (Tathatā), song l�m như thế cũng vẫn l� vọng chấp (prikalpa) v� l�m m�o m� kh�i niệm đ� đi. Chừng n�o ch�ng ta vẫn c�n y nhi�n l� ch�ng ta, c�n bị tr�i buộc v�o c�c đ�i hỏi của cuộc sống vật chất, v� c�c y�u cầu tự nhi�n của suy tư luận l� th� ng�n ngữ l� điều kh�ng thể tr�nh khỏi. V� cho dẫu ch�ng ta kh�ng d�ng ng�n ngữ đi nữa th� vẫn phải, bằng c�ch n�y hay c�ch kh�c, nhờ đến c�c điệu bộ v� chuyển động của v�i bộ phận tr�n cơ thể[3]. Như kinh Lăng-gi� nhận x�t, tr�n khắp thế gian, kh�ng thiết yếu phải sử dụng ng�n ngữ mới truyền đạt được tư tưởng v� cảm x�c, bởi v� ở một v�i c�i Phật, Đức Phật chỉ cần gi�o h�a bằng c�ch nh�n, hoặc bằng c�ch chau mặt, nhướng m�y, hoặc mỉm cười, hoặc tằng hắng hoặc bằng c�c cử động kh�c. Ng�n ngữ minh bạch kh�ng phải l� điều thiết yếu tuyệt đối trong sự giao dịch giữa lo�i người. Kinh ch�p rằng trong non nước của Phổ Hiền Bồ-t�t (Samantabhadra) chỉ cần nh�n su�ng l� đủ để một người chứng được V� sinh ph�p nhẫn (Anutpattikadharmakshānti). Ngay trong thế giới n�y, kinh n�i, c�ng việc trong đời sống thường ng�y vẫn được tiến h�nh c� hiệu quả giữa lo�i kiến v� lo�i ong, l� những lo�i kh�ng d�ng đến ng�n ngữ. Nếu thế th� ta cũng chẳng cần phải ngạc nhi�n về việc c�c Thiền sư chỉ đưa một ng�n tay hoặc h�t một tiếng v� nghĩa để minh chứng cho cảnh giới th�m huyền nhất m� � thức con người c� thể đạt đến, khi m� trong t�m hồn ta kh�ng c� g� để sẵn s�ng đ�p ứng hoặc kh�ng c� g� được đ�nh thức dậy để nắm bắt những tia chớp l�e từ một t�m hồn kh�c, th� cho d� người đ� c� d�ng ng�n ngữ diễn đạt tinh tế đến mức n�o đi nữa, t�m hồn ta cũng vẫn ho�n to�n m� l�a trước ch�n l�. Mặt kh�c, nếu c� một sự h�a thanh tương ứng giữa hai b�n th� khi chạm v�o b�n n�y sẽ tạo n�n sự cộng hưởng ở b�n kia. Một năng lực như thế kh�ng c� trong ng�n ngữ, d� ta kh�ng thể kh�ng cần đến n� bằng mọi c�ch.

Ở điểm n�y, kinh Lăng-gi� ph�n biệt r� r�ng giữa văn tự (ruta) v� � nghĩa (artha), v� khuy�n ta kh�ng n�n chỉ dựa v�o văn tự để hiểu � nghĩa (y ngữ thủ nghĩa), v� điều đ� sẽ ph� hủy ho�n to�n Thực Tướng. C�c từ chỉ l� sự phối hợp giữa �m v� tu�n theo sự ph�n t�ch của tri thức c�ng l� luận. Ng�n ngữ do ng�n từ h�a hợp với vọng tưởng m� th�nh (vāgakshana-samyoga-vikalpa). Khi ta đ�m thoại, ng�n ngữ tho�t ra từ khẩu c�i giữa hai h�m răng, h�m, v�m họng, lưỡi v� m�i. C�c biến th�i, c�ch chia động từ, c�ng c�c th�m thắt tu từ v� ngữ ph�p được ph�t sinh t�y theo vọng chấp ph�n biệt (vikalpa) v� tập kh� (vāsanā) [4] của người n�i. C�n � nghĩa (artha) l� sức nội qu�n sở đắc trong tự chứng khi ta tạo ra được, tr�n đường đi đến Niết-b�n, sự chuyển y (parāvritta)[5] trong phần s�u thẳm nhất của � thức được gọi l� A-lại-da thức (Ālayaj�āna). �ể đạt được sức nội qu�n n�y, ta phải ẩn một nơi c� tịch v� do ki�n tr� tu tập thiền qu�n, tr� B�t-nh� (Praj�a) hoặc Tự gi�c (svabudhi) sẽ bừng s�ng l�n từ dưới lớp tập kh� (vāsanā) của tư tưởng, cảm x�c v� h�nh động được t�ch lũy từ v� thuỷ. � nghĩa (artha), được liễu chứng như thế trong tận c�ng � thức, l� một c�i g� đ� m� kh�ng một sự kết hợp n�o của gi�c quan lại c� thể diễn đạt tương xứng với kinh nghiệm n�y. Nhưng cũng như t�m một vật g� đ� trong b�ng tối th� ta phải nhờ đến ngọn đ�n[6], cuối cũng � nghĩa phải được l�nh hội bằng phương tiện ng�n ngữ, �t nhất n� phải c� khuynh hướng như thế. Sự thấu triệt mối tương quan giữa văn tự (ruta) v� � nghĩa (artha) sẽ l� điều cần thiết ng�n ngữ nếu ta muốn biết bản chất của th�nh tr� tự chứng (svapratyātmaj�āna).

Sự tương quan giữa ng�n ngữ v� � nghĩa, hoặc giữa văn từ (akshara) v� thực tướng (tattvam hoặc tathāvam), hoặc giữa ng�n thuyết (deśana) v� ch�n l� (siddhānta), cũng giống như sự tương quan giữa ng�n tay v� mặt trăng. Cần phải c� một ng�n tay để chỉ mặt trăng nhưng kh�ng n�n chấp ng�n tay l�m mặt trăng. Nếu ta chấp văn tự (aksara) hoặc ng�n ngữ (ruta) hoặc ng�n thuyết (deśana) l�m ch�nh tự th�n của thực tại th� điều đ� cũng g�y n�n c�c hậu quả tai hại tương tự. Những kẻ n�o kh�ng thể rời mắt được khỏi đầu ng�n tay sẽ kh�ng bao giờ liễu ngộ được đệ nhất nghĩa đế (paramārtha) của c�c ph�p[7]. Lại cũng giống như nu�i một đứa b� bằng thức ăn kh�ng nấu, sẽ qu� trễ để cứu sống n� khi n� đ� gục chết trước sự nu�i dưỡng dại dột của b� mẹ kia. Những ai tu tập v� h�nh tr� gi�o l� Phật gi�o n�n ph�n t�ch điểm n�y cho r� r�ng. Lẽ dĩ nhi�n ch�ng ta sẽ kh�ng biết được nội dung của Phật ph�p nếu như ta kh�ng c� sự hội th�ng với ngữ ng�n văn tự. Văn tự rất cần thiết, nhưng khi kh�ng c� sự tương ưng giữa văn v� � th� ng�n thuyết tự n� sẽ trở n�n v� nghĩa. Suốt cuốn kinh Lăng-gi� lu�n lu�n nhắc nhở rằng Như Lai kh�ng thuyết c�c ph�p đọa v�o văn tự (đọa văn tự ph�p 墮 文 字 法 aksarapatita), do đ� Phật c�ng c�c bậc ph�p sư tuy�n bố rằng: Như Lai chưa từng n�i một lời n�o d� để trả lời hay thuyết ph�p trong suốt qu�ng đời từ khi chứng ngộ cho đến l�c nhập Niết-b�n.[8] � đ� c� nghĩa l� ��ừng chấp v�o ng�n ngữ văn tự.� (Na deśanā-ruta- 'bhiniveśatam). Bởi v� dharmo naira ca śesito bhagavatā pratyātmavedyo yata. [9]

Ta phải xem văn tự, trong mức độ tương quan với � nghĩa, như �nh trăng trong nước. �nh trăng vẫn c� đấy, song ch�nh vầng trăng kh�ng đi v�o (apravishtam) trong nước, nhưng cũng kh�ng được xem như trăng kh�ng c� ch�t tương quan (nirgatam) n�o với nước, bởi v� cũng c� một ch�t g� đ� trong nước phản chiếu lại vầng trăng.[10] Chỉ cần ch�ng ta đừng để m�nh rơi v�o th�i quen b�n su�ng một c�ch hời hợt về thực nghĩa. ��y l� lời cảnh c�o của kinh Lăng-gi�: �Yathārutār-thābiniveśasanidhau na prapatata. [11]

Ghi ch�

* Bản dịch được thực hiện theo nguy�n t�c tiếng Anh Studies in Lakāvatāra Sutra, Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., New Delhi, 1998, của đại sư Suzuki, c�c trang  105-110.

[1]       "Giống như những người ngu chấp ng�n tay l�m mặt trăng, cũng thế, những kẻ n�o chấp v�o văn tự sẽ kh�ng hiểu được ph�p của ta".

[2]       "Ch�n l� chứng đắc l� cảnh giới gi�c ngộ th� thắng vượt ngo�i ngữ ng�n văn tự v� ph�n biệt, n� đưa đến cảnh giới v� lậu; n� ch�nh l� căn cơ của sự chứng ngộ, n� kh�ng li�n quan g� với tr� huyền đ�m h� luận của ngoại đạo cũng như của t� đạo, ph� hủy luận điểm của ngoại đạo v� t� đạo, th� sự chứng ngộ sẽ hiện r� tự th�n".

[3]       C� lẽ t�c giả muốn đề cập đến c�i m� hiện nay gọi l� "ng�n ngữ th�n x�c" (body language) (N.D)

[4]       Vikalpa nghĩa đen l� "sai biệt", "x�c định", "ph�n biệt", tiếng Trung Quốc dịch l� "ph�n biệt 分別", l� chức năng đặc biệt của suy tư; c�n vasana (tập kh�) l� từ kh� hiểu, bao h�m to�n bộ triết học v� t�m l� học của Đại thừa. Trong Anh ngữ kh�ng c� từ tương đương, n� được dịch l� "k� ức: memory", "năng lực của th�i quen: habit energy", "ấn tượng: impression". 

[5]       Theo bản dịch đời Đường: "Họ [c�c nh� Tiểu thừa] kh�ng hiểu rằng đại Niết-b�n chỉ đạt được th�ng qua nội chứng, trong đ� xảy ra sự chuyển y trong A-lại-da thức, l� thức l�m điểm tựa cho thế giới ngoại trần." T�c phẩm Triśikāvij�aptikārikā XXIX của Thế Th�n cũng n�i đến sự chuyển y n�y.  

[6]       "Nhờ v�o �nh s�ng của ng�n ngữ v� ph�n biệt, Bồ-t�t Ma-ha-t�t vượt ngo�i ng�n ngữ v� ph�n biệt, để đi v�o con đường tự chứng." 

[7]       "Ph�m phu m� chấp v�o ng�n-tay-chỉ của ng�n ngữ n�n đến chết cũng kh�ng đạt được ph�p v� thượng".

[8]       � tương tự cũng được tr�nh b�y trong Như Lai b� mật kinh (Tathāgataguhya - Sūtra).

[9]       Sūtra-lāmkāra, XII, 2, "Đức Phật kh�ng bao giờ thuyết giảng về Ch�n đế, bởi v� Ng�i muốn mọi người phải tự chứng lấy."

[10]      Jalacandra hay Udakacandra: trăng trong nước. Điều n�y cũng được d�ng để ph� diễn năng lực của Như Lai tự thị hiện như c�c m�n đồ h�nh dung. đồng thời cũng biểu tượng h�a bản t�nh của hiện hữu, xem như chỉ l� giả tướng.

[11]      "Đừng rơi v�o sai lầm vi tế khi chấp v�o � nghĩa như n� được diễn tả trong ng�n ngữ."

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle