CÒN
ĐEM THEO GÌ …
Huệ Trân
Kinh Đại Thừa
Diệu Pháp Liên Hoa,
đã được chính
Đức Thế Tôn
tuyên dương là
Bổn Kinh
Thượng Thừa,
bao gồm những
bí yếu cực kỳ
nhiệm mầu,
vi diệu mà Chư
Phật trao truyền lại cho
những ai đủ
tín tâm thọ nhận.
Pháp-bảo
được
lưu truyền
đến nay, vẫn
sáng ngời toả
rạng
lưu ly qua bao
thăng trầm của
thế sự
vô thường, với
tâm nguyện hoằng
truyền
Chánh Pháp của
các bậc minh sư, tuỳ
căn cơ
chúng sanh mỗi
thời mà soạn dịch.
Một, trong những bổn
kinh Diệu Pháp Liên Hoa
thường được trì tụng tại
các
tự viện là bổn cố
đại lão
Hoà Thượng Thích
Trí Tịnh
biên soạn,
hoàn tất với 557
trang, gồm 7 quyển, chia
thành 28 phẩm , mỗi phẩm
đầy đủ
văn kinh và thi
kệ.
Cũng do nhu cầu và
phương tiện
tu học của
Phật tử mà
Hoà Thượng Thích
Trí Quảng cũng đã lược
soạn
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
thành Bổn Môn
Pháp Hoa Kinh để
Phật tử tại các
Đạo Tràng
Pháp Hoa có thể
hàng ngày trì tụng mà
không bị
gián đoạn vì
không đủ
thời gian.
Bổn Môn
Pháp Hoa Kinh
được
Hoà Thượng
trân trọng
biên soạn, cô
đọng 7 phẩm
cương lĩnh trong
28 phẩm từ
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh,
gồm:
Phẩm Tựa – thứ nhất
Phẩm
Pháp Sư – thứ 10
Phẩm Tùng Địa
Dũng Xuất – thứ
15
Phẩm
Như Lai
Thọ Lượng – thứ
16
Phẩm
Phân Biệt
Công Đức – thứ 17
Phẩm Phổ Môn –
thứ 25, và
Phẩm
Phổ Hiền Bồ Tát
Khuyến Phát – thứ
28.
Phật tử các
Đạo Tràng
Pháp Hoa, khoan
thai chậm rãi trì tụng
Bổn Môn, từ nguyện hương
tới hoàn kinh chỉ khoảng
45 phút. Thưa vâng, chỉ
45 phút, nếu giữ tâm
chánh niệm thì
có thể thọ nhận được
hạnh phúc
vô biên vì
Văn Kinh đã được
truyền đạt qua Ý
Kinh, từ những phẩm
tiêu biểu nhất.
Hành giả
may mắn được
Sư Cô trong một
Đạo Tràng
Pháp Hoa tặng cho
một bổn. Nâng cuốn kinh
mỏng, khổ giấy 4 rưỡi X
7 inch trên tay mà
cảm động xiết bao
trước tâm nguyện
nhiệt thành
hoằng pháp của
Chư Tôn Đức.
Khi trì tụng Bổn Môn
Pháp Hoa Kinh vào
mỗi thời
công phu sáng trong
một lần
phát nguyện
nhập thất,
hành giả đã cảm
nhận niềm
hạnh phúc
an lạc, nhẹ nhàng
như có làn gió
từ không gian
Linh Thứu năm xưa thoảng
tới. Những thời
công phu chiều,
khi
tụng kinh
A Di Đà thì niềm
hạnh phúc lại rõ
hơn khi tiếng
niệm Phật bỗng
lung linh nét chữ trong
một đoạn của Phẩm
Phổ Hiền Bồ Tát
Khuyến Phát:
“ … Tất cả
trí nhân
Cần nên
suy nghĩ
Những gì đáng
quý
Trên cõi
thế gian
Đến lúc
mạng chung
Còn
đem theo được
Rồi nên
tích cực
Đúng pháp
tu hành …”
Sự kết nối
tự nhiên và
thuần khiết này,
như
tình cờ mà thực
chẳng
tình cờ vì
Phật thuyết
nhất ngôn,
chúng sanh tuỳ
loài giải.
Căn cơ
chúng sanh chẳng
đồng, nên trong
kinh điển mới có
con số
tượng trưng là 84
ngàn
pháp môn. Người
tu thiền khi vào
Định có khác người tu
Tịnh Độ khi
niệm Phật đạt
nhất tâm bất loạn
không?
Điều này, nhiều vị
giảng sư đã khai
triển, đã giảng dạy, hầu
giúp giải toả nỗi băn
khoăn của những ai, tuy
đã chọn được
pháp môn cho mình
nhưng đôi khi vẫn cần
phương thức của
pháp môn khác để
hổ trợ cho một khía cạnh
nào đó, mà bỗng
phù hợp với chặng
đường đang đi.
Hành giả tu
Tịnh Độ
cầu vãng sanh
Tây Phương Cực Lạc
mà trong thời
niệm Phật, tâm
bỗng
hiện lên lời
khuyến phát của
Bồ Tát trong phẩm
cuối
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
là
Bồ Tát đang nhắc
nhở gì đây?
Lời nhắc nhở như
quyện vào tiếng
niệm Phật thầm,
vẫn
đều đặn trong
tâm, không áp đặt nhau
và không gì mờ đi. Sự
hài hoà dẫn dắt tâm ý
hành giả tới niềm
hạnh phúc sáng
rỡ!
Là đây! Hỡi
hành giả đang
lặng thinh
niệm Phật
một mình trong
đêm khuya thanh vắng!
Hành giả
niệm Phật, nguyện
phút
lâm chung được
Đức Phật
A Di Đà cùng hàng
Thánh Chúng
phóng quang
tiếp dẫn về
Tây Phương Cực Lạc,
phải không? Vậy, hãy chỉ
nhiếp tâm vào
tâm nguyện đó mà
đi. Bất cứ gì cản lối
đều là những
nghịch duyên,
phải
dũng mãnh gạt bỏ.
Làm sao
nhận diện
nghịch duyên để
kịp thời gạt bỏ?
Phải chăng đó là:
“…Tất cả
trí nhân. Cần nên
suy nghĩ, Những
gì đáng quý. Trên cõi
thế gian. Đến lúc
mạng chung. Còn
đem theo được.
Rồi nên
tích cực. Đúng
pháp
tu hành …”
Lời dạy cất lên,
hình ảnh trong
Alaya-thức bỗng
hiển lộ, hỗ trợ
cho
lữ khách đang độc
hành trên đường thiên
lý. Đó là
hình ảnh ngày
công tử
A Nậu Lầu Đà, với
bạn thiết là tổng trấn
Bạt Đề, cùng mấy
người bạn cũng thuộc
giòng dõi
quý tộc và đồng
trang lứa, một lòng cùng
nhau
lên đường đi tìm
Đức Thế Tôn để
xin
xuất gia.
Chiếc xe
tứ mã vang vang
tiếng cười hoà cùng nhịp
vó rộn rã đưa nhóm người
trẻ đi
cầu đạo. Khi qua
khỏi khu rừng thưa, đến
đầu một thôn xóm, công
tử
Bạt Đề dừng
cương, nhìn một lượt
khắp các bạn rồi phá lên
cười.
Công tử
A Nậu Lầu Đà hỏi
bạn:
-Có
điều chi mà huynh
dừng xe, cười dữ vậy?
-Không buồn cười sao
được? Này,
chúng ta hãy đều
tự nhìn lại mình xem, có
ai đi
xuất gia
tu học mà
ăn mặc
sang trọng như
vậy không? Mũ áo xênh
xang chưa đủ, còn vòng
vàng
châu ngọc đeo đầy
người thế kia!
Chúng ta
không định làm
trò cười đấy chứ!
Bấy giờ,
ai nấy đều xuống
xe, xăm soi, ngắm nghía
mình rồi cùng rũ ra
cười. Thế là họ cùng
đồng ý, buộc giây
cương chiếc xe
tứ mã vào thân
cây sồi bên đường, cởi
bỏ áo quần
sang trọng, chỉ
mặc bộ
đơn giản nhất.
Bao nhiêu
vàng bạc
châu báu cũng
trút hết, cho vào một
túi vải rồi cùng tiến về
thôn làng
trước mặt, với
ý định sẽ trao
tặng cho những người
nghèo khổ trong
làng.
Ngay trên
con đường đất đỏ
dẫn vào làng, họ thấy
một quán lá siêu vẹo. Đó
là quán hớt tóc của một
thanh niên trạc tuổi họ,
gương mặt sáng sủa khôi
ngô nhưng quần áo thì
rách rưới
nghèo nàn.
Họ ghé vào quán, hỏi
đường tới vương quốc
Câu Tát La. Người
hớt tóc biết ngay là
nhóm người trẻ này muốn
tìm
tới nơi
Đức Phật đang
thuyết giảng vì
mấy ngày nay cũng có
nhiều người đi tới đây,
rồi không biết phải
rẽ hướng nào mới
tới
biên giới
Câu Tát La.
Sau khi được
chỉ đường rất
ân cần,
cặn kẽ, công tử
A Nậu Lầu Đà
đại diện các bạn,
tặng người hớt tóc
nghèo khổ gói
châu báu và tất
cả áo quần
sang trọng vì từ
nay họ không còn cần tới
nữa.
Người hớt tóc đứng
lặng, ôm gói
châu báu, nhìn
theo những vị công tử
khuất dần sau cánh rừng
thưa. Khi mở túi vải ra,
người ấy
rụng rời, sửng
sốt! Chưa từng bao giờ
trong đời, người
ấy được nhìn thấy
vàng bạc
châu báu nhiều và
lộng lẫy như vậy. Nay,
không những được nhìn
thấy mà tất cả
tài sản này đang
thuộc về mình! Người ấy
sung sướng tới
run rẩy vì từ nay hết
đói lạnh, hết
nghèo khổ, hết bị
khinh khi. Nhưng chỉ
thoáng chốc thôi, người
ấy lại run rẩy, không
phải vì
sung sướng mà vì
sợ hãi! Nếu có ai biết
những gì người ấy đang
ôm trong tay thì chắc
mạng này không còn! Lại
nữa, với
châu báu này, làm
sao người ấy có thể
an giấc trong đêm
nơi chòi lá trống trải
này? Rồi khai báo với
quan
quyền thế nào khi
một kẻ thuộc
giai cấp bần cùng
hạ tiện bỗng có
tài sản lớn lao!
Có khai thật, cũng ai
tin? Hay nhiều phần sẽ
bị giam cầm, tước
đoạt?!
Người ấy chợt
nhận ra, chỉ dăm
phút trước đây thôi, tuy
nghèo nàn nhưng
an vui,
thanh thản. Dăm
phút sau, có một
tài sản lớn lao
mà
bất an, lo sợ tứ
bề!
Người ấy lại nghĩ,
những vị công tử giòng
dõi
quyền quý kia,
tài sản của họ
hẳn có gấp bội lần thế
này mà họ bỏ hết, đi tìm
Phật, thì chắc là những
gì Phật cho họ phải lớn
lao
vô cùng, so với
tài sản kia. Còn
ta, nghèo quá, chẳng có
gì phải bỏ. còn không
theo bước họ, tính đợi
đến bao giờ?
Nghĩ tới đây, tâm
người ấy
lập tức
trở lại
trạng thái
bình an,
vui vẻ.Người ấy
nhìn quanh rồi chọn một
nhánh liễu cao, buộc gói
châu báu lên đó.
Ai
tìm thấy trước sẽ
là
sở hữu chủ. Rồi
chẳng buồn nhìn lại thôn
xóm, người ấy ba chân
bốn cẳng chạy về hướng
biên giới
Câu Tát La, mong
bắt kịp nhóm vương tử để
được đi cùng.
Người ấy tên là
Ưu Ba Ly, sau này
là một, trong
mười đại đệ tử
của
Đức Thế Tôn với
khả năng
vượt trội về
trì giới nên được
danh xưng là vị Đệ
Nhất Trì Giới.
Qua
giai thoại này,
hành giả đã nhìn
thấy “Những gì đáng
quý. Trên cõi thế gia.
Đến lúc
mạng chung. Còn
đem theo được …”
chắc chắn không
phải là sự giầu sang về
vật chất.
Trong đạo là thế,
ngoài đời thường thì
sao?
Alaya-thức lại đưa
hành giả về thời
điểm mà
cá nhân một
người-chỉ một người
thôi- đã làm rung chuyển
cả
thế giới. Người
đó là Đại Đế Nã Phá Luân
(Alexander) vị vua
nổi tiếng
nhất thời cổ đại.
Vó ngựa phi tới đâu là
chinh phạt,
mở rộng lãnh thổ
tới đó, dựng lập một đế
chế hào hùng
vũ bão từ Âu sang
Á. “Danh” người đó như
sấm sét long trời
lở đất, cũng như “Lợi”
thì phủ ngập không thể
đo lường.
Vậy mà, năm 323 (Trước
Công Nguyên -
theo
tài liệu
Wikipedia ) trên đường
trở về Babylon,
Alexander lâm trọng
bệnh. Trước phút
lâm chung, ông
gọi quần thần
đến gần và dặn dò
phải
tuân thủ 3 việc:
1-Triệu tập các ngự y
giỏi nhất nước, khiêng
quan tài.
2-Rải hết
vàng bạc
châu báu trong
kho trên suốt
dọc đường tới
nghĩa trang cho ai
may mắn kip biết
thì nhặt về.
3-Đặt hai bàn tay thò
ra ngoài nắp quan tài để
mọi người đều
nhìn thấy rõ.
Thông điệp của
một người có
vượt trội cả Danh
và Lợi qua 3 điều tâm
huyết đó chính là:
-Dù tất cả ngự y giỏi
đến đâu cũng không ngăn
được sự chết !
-Dù tiền bạc
của cải nhiều đến
đâu, khi nhắm mắt xuôi
tay cũng chỉ là những
thứ lót đường và thuộc
về người khác !
-Khi lìa đời, ai cũng
ra đi với hai bàn tay
trắng như nhau !
Đáng suy ngẫm biết
bao khi đọc những trang
sử này để
quay về với lời
dạy trong Bổn Môn
Pháp Hoa Kinh,
phẩm thứ 28, mà
nhận diện những
gì không thể
đem theo khi
mạng chung là
Danh và Lợi trong
kiếp người ngắn
ngủi
vô thường này, dù
danh lợi có đạt
tới tột đỉnh !
Rồi
chắp tay búp sen,
hướng tới những gì còn
đem theo được.
Lấy
Chánh Pháp làm
nơi nương tựa,
từng bước
vững vàng tìm cầu
giải thoát
luân hồi sanh tử,
tin lời Phật
hứa khả là
Tam Bảo sẵn có
trong mỗi
chúng sanh:
Khả năng
giác ngộ là Phật
Pháp môn
tu học là Pháp
Những
yếu tố hỗ trợ cho
việc
tu học là Tăng.
Người-con-Phật vững
tin nơi tự-tánh-Tam-Bảo
sẽ có
thiện duyên được
Chư Phật gia hộ
mà
an trú trong
chánh niệm để
tích cực đúng
pháp
tu hành, đến lúc
mạng chung sẽ
đem theo được
những gì đáng quý.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật.
Huệ
Trân
(Tào-Khê
tịnh thất – những
ngày tịnh tu)