Nguyên Nhân của Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo Nam Bộ Giai Đoạn 1920-1945
Nguyên Nhân của Phong Trào Chấn
Nguyên Nhân của Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo Nam Bộ Giai Đoạn 1920-1945
Thích Đồng Hạnh
1. Bối cảnh nghiên cứu
Ý tưởng về
chấn hưng Phật giáo xuất phát đầu tiên từ
HT.Khánh Hòa vào năm 1923. Nhân ngày giỗ tại chùa Long Hoa, quận Tiểu Cầu, tỉnh
Trà Vinh (19-9-Quý
Hợi), HT.Khánh Hòa
đã thỉnh
mời những vị tôn túc ở vùng Tiền - Hậu Giang về dự. Trong buổi lễ giỗ, Hòa
thượng
đã
ngõ ý mời các vị tôn túc cùng thành lập một tổ chức Phật giáo chung nhằm củng cố
và
chấn hưng Phật giáo [15,
tr.43]. Trước ngõ ý rất chân thành của HT.Khánh Hòa và vì một nền Phật giáo
tươi sáng
hơn,
chư
Hòa thượng như Huệ Quang, Chí Thiền, Trí Thiền, Từ Phong, Chánh Quả, An Lạc, Huệ
Định, Diệu Pháp đã
hoan hỷ nhận lời
hiệp tâm với HT.Khánh Hòa.
Quý ngài
đã thành lập
Hội
Lục Hòa Liên Hợp nhằm tạo
cơ sở
cho một hội Phật giáo thống nhất toàn quốc. Nhưng những nỗ
lực ban đầu của HT.Khánh hòa
đã
thất bại [15,
tr.45;
8,
tr.23].
Mãi tới năm 1926, ý tưởng
chấn hưng Phật giáo
mới được cư sĩ Huỳnh Thái Cửu
nhắc lại.
Nhân dịp
lễ
Vu
lan
vào năm này,
cư sĩ đã
thỉnh
mời một số vị Hòa thượng tới
tư
gia tại Trà Vinh để cúng dường trai tăng. Trong buổi tác bạch cúng dường, cư sĩ
đã
thưa trình về
những vấn nạn của giới
Tăng
Ni
và sự suy thoái của Phật giáo nước nhà, và
ông
cũng nêu rõ thành ý muốn thành lập một tổ chức Phật giáo thống nhất để hưng khôi
Phật giáo nước nhà. [15,
tr.44;
26,
tr.431]. Cư sĩ
Huỳnh Thái Cửu đã
đề ra 3 tiêu chí cho việc chấn hưng
như sau:
a.
Lập hội Phật giáo.
b.
Thỉnh ba tạng kinh điển dịch ra chữ Quốc ngữ.
c.
Lập trường Phật học đào tạo
Tăng
tài.
Vào năm 1927,
HT.Khánh
Hòa hiệp thông cùng
HT.Huệ
Quang, Liên Trì, Thiện Niệm, Thiện Chiếu cùng các cư sĩ trẻ tại chùa Linh Sơn
lập
ra
một tổ chức với tên gọi Phong Trào Chấn Hưng, với mục đích ban đầu là làm
cơ sở giáo dục chư
Tăng
Ni
và tàng lưu kinh sách phục vụ cho vấn đề nghiên cứu [15,
tr.50]. Tuy nhiên, do không xin được giấy phép của chính quyền thuộc địa, tổ
chức này không được đi vào hoạt động. Vào đầu năm 1929, nhóm của
HT.Khánh
Hòa lại hiệp thông với
sư
Thiện Chiếu lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học. Nhưng do không xin được giấy
phép, nên tổ chức này
cũng
không
thể
đi vào hoạt động ngay được. Cũng trong năm 1929, nhóm
HT.Khánh
Hòa đã vận động thành lập hai tập san Phật giáo bằng chữ Quốc ngữ là Pháp Âm
và Phật Hóa Tân Thanh Niên. Tuy nhiên, tờ Pháp Âm bị đình chỉ ngay
sau ấn bản đầu tiên; tờ Phật Hóa Tân Thanh Niên vẫn được hoạt động.
Ngày 26-8-1931,
Thống đốc Nam Kỳ Khrautheimer phê chuẩn Nghị định số 2062 chính thức công nhận
tính pháp lý của Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học (Association pour l'etude et la
conservation du Bouddhisme en Cochinchine), đồng thời thông qua bản điều lệ gồm
19 điều và bản quy tắc 51 điều
[15,
tr.54].
Tiếp bước sự thành công của Hòa thượng Khánh Hòa trong việc lập Nam Kỳ Nghiên
Cứu Phật Học Hội, một số vị tôn túc cũng cho thành lập những tổ chức Phật giáo
cũng như
tập
san Phật giáo,
nhằm mục đích cùng
chấn hưng Phật giáo tại Nam bộ. Đến ngày 16-7-1935,
tại Miền Nam có các tổ chức
Phật giáo
được công nhận tính pháp lý là: Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học đăng ký tại
chùa
Linh Sơn, Sài Gòn; Tịnh độ Cư sĩ Phật
Hội
tại chùa Hưng Long, Chợ Lớn; Lưỡng Xuyên Phật học Hội tại chùa Long Phước, Trà
Vinh; Long Xuyên Phật giáo Lương Hữu
Hội
tại chùa Bình An, Long Xuyên; Hội Phật
Học
Tương Tế
tại chùa Thiên Phước, Sóc Trăng; Thiên Thai Thiền
Giáo
Tông
Liên
Hữu
Hội
tại chùa Phước An, Bà Rịa [36,
tr.55].
Thành lập muộn nhất tại Miền Nam là Hội Phật học Kiêm Tế (Association
Bouddhique et de Bienfaisance de Rachgia) vào năm 1937,
và đây là hội Phật giáo cuối cùng được thành lập tại Nam
Bộ
giai đoạn 1920-1945 [6,
tr.8].
Phong trào chấn hưng tại Nam
Bộ
giai đoạn 1920-1945 thật sự đạt được mục tiêu quảng tuyên
Phật
lý theo hướng chuyên nghiệp, phổ thông và dễ tiếp cận, bởi vì mỗi hội nhóm kể
trên đều có những Tập san Phật học. Những tờ báo có ảnh hưởng tới phong trào
chấn hưng trong giai đoạn này là Từ Bi Âm (Nam kỳ Nghiên cứu Phật học
Hội), Duy Tâm ( Lưỡng Xuyên Phật học Hội), Tiến Hóa (Phật học
Kiêm tế Hội), Tạp chí Pháp Âm (Tĩnh
độ
Cư
sĩ),
và Phật Học Tùng Thư ( Đoàn Trung Còn) [12,
tr
567].
Hơn thế nữa, phong trào chấn hưng Phật giáo đã góp phần xác định yếu tố Phật
giáo là một trong những yếu tố quan trọng của văn hóa Việt Nam [12,
tr
568],
mặc dù còn nhiều hạn chế trong thành quả.
Vậy nguyên nhân gì đã thúc đẩy việc chấn hưng Phật giáo trong giai đoạn này?
Để trả lời cho câu hỏi này, bài viết này xin nêu những nguyên nhân đã thúc đẩy
công cuộc chấn hưng
Phật giáo
tại Việt Nam nói chung và tại Nam
Bộ
nói riêng.
2. Những nguyên nhân thúc đẩy sự chấn hưng Phật giáo giai đoạn 1920-1945
2.1.1. Những tác động từ bên ngoài
Trong giai đoạn đầu
của
thế kỷ 20, nhiều cuộc vận động chấn hưng Phật giáo quốc tế đã diễn ra, như
các
phong trào chấn
hưng
Phật giáo
ở
Ấn Độ, Trung Quốc
v.v… Những phong trào này
đã ảnh hưởng tới
giới
trí thức hữu tâm người Việt, và thúc đẩy họ tiến bước khôi chấn
lại
Phật giáo nước nhà [16;
1].
Phong trào chấn hưng Phật giáo tại Ấn Độ được
khởi
xướng bởi David Hewavitarane, người Tích Lan. Ông về sau xuất gia và được gọi là
Đại
đức
Dharmapala [12,
tr.561;
5, tr.645].
Dharmapala bắt đầu công việc chấn hưng Phật giáo tại Ấn Độ bằng việc trùng tu
lại các Phật
tích
quan trọng tại Ấn Độ (12,
tr.565).
Một thời gian sau, song song với việc trùng tu những thánh tích Phật giáo đang
diễn
tiến,
Dharmapala vận động thành lập
Hội
Mahabodhi Society.
Hội
Mahabodhi không chỉ là
nơi
xuất bản tạp chí Phật học mà còn là trung tâm Phật học [12,
tr.564;
5, tr.692].
Hơn thế nữa, Dharmapala cũng là người truyền lửa cho việc chấn hưng Phật giáo
tại Trung Quốc. Theo Nguyễn Lang [12,
tr.563],
vào năm 1908,
Dharmapala đã liên lạc với cư sĩ Dương Nhân Sơn ở Trung
Quốc
để thành lập Kỳ Hoàn
tinh
xá,
làm nơi cho Tăng Ni và cư sĩ hữu tâm về nghiên cứu Phật học. Trung
tâm
Kỳ Hoàn khuyến khích các Tăng Ni và học giả nghiên cứu và dịch thuật Phật pháp
bằng ba ngôn ngữ chính:
Anh, Hán và
Pāli.
Dương Nhân Sơn và những người bạn của ông sau này trở thành những trụ cột chính
trong phong trào chấn hưng Phật giáo tại Trung Hoa.
Phong trào chấn hưng Phật giáo tại Nhật Bản bắt nguồn từ cuộc cải cách của
Thiên
hoàng
Minh Trị vào cuối thế kỷ 18
- đầu thế kỷ 19. Vào cuối thế kỷ 19, với sự ủng hộ của các nước phuong Tây và
lợi dụng sự bất mãn của các Phiên, Minh Trị đã lật đổ thế lực Mạc Phủ và trở
thành người nắm quyền lực tối cao tại Nhật Bản
[22].
Sau khi lên nắm quyền, Minh Trị ban hành chính sách cải cách toàn diện Nhật Bản
[17, tr.60]. Vào thời Mạc phủ Togugawa,
nhà nước
thiết lập chính sách Đàn
gia
(Danka). Theo chính sách này, tất cả người dân phải đăng ký hộ khẩu tại một ngôi
chùa [17, tr.62]. Nói cách khác,
chùa chiền
trở
thành công cụ quản lý nhân khẩu trong một
vùng.
Bởi vậy, khi Thiên
hoàng
Minh Trị lên nắm quyền, Phật giáo bị rơi vào tầm cải cách quyết liệt nhất.
Thực tế, Minh Trị không chủ tâm cải cách để Phật giáo tốt hơn mà chủ trương
triệt hạ sự phát triển của Phật giáo [17, tr.65]. Nhưng sự đàn áp của Minh Trị
lại
đưa đến một chiều hướng khác.
Khi Phật giáo rơi vào tình trạng bế tắc cùng cực,
các tu sĩ Phật giáo
bắt đầu
tìm đường qua Châu Âu du học. Khi
trở
về, những tu sĩ này
được trang bị
một kiến thức sâu rộng về Pāli, Anh và Sankrit,
cộng với kiến thức nghiên cứu hiện đại và hàn lâm của phương Tây.
Họ
đã lập ra những hội phiên biên dịch kinh điển từ Pāli, Sankirt,
Hán
sang
Nhật
ngữ.
Họ cũng lập những trường Phật học để truyền bá và nghiên cứu Phật học
[17, tr.67].
Để nối dài tinh thần học thuật cho Phật giáo, việc đào tạo, bồi dưỡng, giáo
dục là lựa chọn tất yếu. Các trường đại học chuyên khoa của các tông phái Phật
giáo liên tiếp xuất hiện dưới thời Đại Chính.
Đến
nay, sau những nỗ lực toàn diện để cải cách và hiện đại hóa Phật giáo, cùng ảnh
hưởng của
triết
học Phương Tây và Ki-tô
giáo, Phật giáo Nhật Bản đã hoàn toàn thoát ly hình thái và quan niệm của Phật
giáo Trung Quốc. Tầng lớp tu sĩ vào núi tu hành và chờ chúng sinh đến xin cứu độ
đều bị xã hội hiện đại đào thải [17, tr.69].
Phong trào chấn hưng Phật giáo tại Trung Quốc được khởi xướng từ nhóm của cư
sĩ Dương Nhân Sơn và
Đại
sư Thái Hư [12,
tr.557;
24].
Nhưng nguyên nhân của việc chấn hưng là do sự suy thoái và yếu kém của Phật giáo
tại Trung
Quốc
từ đầu thế kỷ 19. Theo
Thích Nữ Tuệ Thanh [24],
dưới thời Gia Khánh, triều đình bỏ chính sách quản lý chùa chiền và ủng hộ mạnh
mẽ sự phát triển của chùa chiền. Với sự ủng hộ này, bao nhiêu tệ hại đã
ập
tới với Phật giáo Trung
Quốc.
Cũng
chính
trong giai đoạn này, Trung Quốc bị tấn công bởi phương Tây và Nhật Bản, điều này
khiến
cho
giới trí thức xem Phật giáo như là vật cản cho sự canh tân đất nước.
Người góp công đầu trong việc canh tân Phật giáo Trung
Quốc
là Dương Nhân Sơn. Ông tên thật là Văn Hội (1837-1911), người Thạch Đại, tỉnh An
Huy. Năm 28 tuổi, khi đang nằm điều trị bệnh,
ông tình cờ đọc được nhiều trước tác Phật giáo.
Sau đó
ông
phát
nguyện đi theo đạo Phật và tiếp tục nghiên cứu các bộ kinh luận
Phật giáo,
như kinh Hoa
nghiêm,
Pháp
hoa,
các bộ
luận
về
Duy
thức
và
Tịnh
độ
v.v…
Điều đặc biệt là trong khi đi công tác tại Anh, ông đã kết giao với một vị trí
thức của Nhật Bản, đó là Tiến sĩ Nam Điều Văn Hùng. Nhờ thiện duyên này mà ông
đã mang được nhiều Phật điển, chương sớ
bị tán thất tại
Trung Quốc nhưng vẫn còn tại Nhật Bản về lại Trung Quốc và cho ấn hành. Năm
Quang Tự hai mươi ba (1897), ông sáng lập
Khắc
kinh xứ tại Kim Lăng. Trải qua nhiều gian lao vất vả,
cuối cùng
đã
in được hơn 2.000
quyển kinh, luận. Sự nghiệp nghiên cứu Phật học và trước tác của ông
đã
được biên tập thành một bộ
sách
gồm 10
quyển
với tên gọi là Dương Nhân Sơn
cư
sĩ
di
trước
[11, tr.25-26].
Mặc dù Dương Nhân Sơn là người đi đầu trong việc chấn hưng Phật giáo Trung
Quốc,
Đại
sư Thái Hư được xem là người tiến hành và phát triển phong trào chấn hưng Phật
giáo Trung
Quốc
[11, tr.25-26].
Ngài họ Lữ, hiệu Duy Tâm, pháp danh Thái Hư, sinh ngày 2 tháng 12 năm 1889 tại
huyện Sùng Đức, tỉnh Triết Giang,
vào
đời vua Quang Tự năm thứ 15. Lúc
16 tuổi, vào năm Quang Tự 30 (1904),
ngài
lên núi
Tiểu Cửu Hoa
cầu
xin xuất gia với Hòa thượng Khoan Công,
và được
bổn
sư đưa về Tứ Minh, làm lễ ra mắt Tổ sư Tráng Niên Lão Nhân và chính thức xuất
gia tại đây.
Vào năm 1924,
ngài
tổ chức Đại hội Phật giáo Liên hiệp thế giới tại chùa Đại Lâm. Và trong thời
gian này, ngài bắt đầu giảng kinh Nhân
vương
hộ
quốc
tại
Trường
Đại học Trung Hoa.
Sau đó
ngài
đi thăm Ngũ Đài
Sơn
và hướng dẫn phái đoàn Phật giáo Trung
Quốc
đi Nhật tham dự Đại hội Phật giáo Đông Nam Á. Về nước,
ngài
đi Thượng Hải lập Phật Hóa Giáo Dục Xã, xuất bản tuần san Tâm Đăng, đến
giảng tại Đại học Hạ Môn và Phật
học
viện
Mân Nam. Bấy giờ trong nước cuộc chiến tranh đã lan tới phương Bắc, Tăng Ni bị
buộc
phải hoàn tục. Trong tình thế này,
ngài
đã
viết ra quyển Tăng
chế
kim
luân
để vận động
cách tân
Phật giáo.
Tóm lược:
Nguyên
nhân của những phong trào chấn hưng Phật giáo tại Ấn
Độ,
Nhật Bản và Trung Quốc đều xuất phát từ sự suy thoái trong chùa chiền. Điều này
cũng đúng với Phật
giáo
Việt Nam
ở
giai đoạn đó,
như
được mô tả rõ trong nhận xét của
Sư
Thiện Chiếu: “Xét lại Tăng giới hiện thời của nước ta, nhất là Nam kỳ, phần
nhiều không chuyên tâm về đường học vấn... Phần lớn chỉ cầu Thần Phật hộ trì cho
cuộc đời mình sung túc, ít ai chịu thậm nhập đạo từ bi bác ái. Chùa chiền giống
công ty bảo hiểm thì tránh sao những kẻ gian tà không lợi dung làm kế sinh nhai,
khiến cho trong giới Tăng sĩ hằng diễn tệ nạn.”
[6, tr.57].
Với sự tương đồng
như vậy,
những cuộc chấn hưng Phật giáo diễn
ra
tại Ấn
Độ,
Nhật Bản và Trung Quốc vô hình chung là chất xúc tác hữu hiệu thúc đẩy những
người
thiện tâm đứng lên cách tân Phật giáo nước nhà.
2.1.2. Những tác nhân từ trong nước
Từ đầu thế kỷ 18 tới giữa thế kỷ 19, xã hội Việt Nam thay đổi liên tục, và
đây là nguyên nhân tạo ra những nhân tố tác động mạnh tới nền Phật học. Theo tư
liệu
mà
chúng tôi có, có bốn nguyên nhân trong nước
đã
tác động mạnh tới sự cải cách và chấn hưng Phật giáo trong giai
đoạn
1920-1945:
sự
thay đổi của nền giáo dục,
sự
kỳ thị tôn giáo của thực dân Pháp,
sự
ra đời một số tôn giáo bản địa mới,
và
sự
suy thoái
của tầng lớp Tăng sĩ.
a.
Sự thay đổi của hệ thống giáo dục
Ngày 21-12-1917, Toàn quyền Albert Sarraut ký Nghị định ban hành Học chính Tổng
quy (Règlement général de l’Instruction publique en Indochine), là bộ
luật giáo dục chính thức quy định về cơ quan quản lý giáo dục, hệ thống trường
lớp, cơ cấu tổ chức các loại trường, chương trình, quy định về giáo viên, cách
thức đánh giá, thi cử, thanh tra nhà trường
[20, tr.42].
Kể từ khi bộ luật giáo dục này được ban hành, nền giáo dục Việt Nam bước vào
ngã rẻ mới:
Tư tưởng giáo dục Nho gia bị thay thế bằng giáo dục thực tiễn,
và Tiếng Việt
cùng
chữ Quốc
ngữ
và
Pháp ngữ được đẩy mạnh, dùng làm công cụ chính cho giáo dục thời kỳ này [20,
tr.45].
Vào
thời
kỳ
này, một đội ngũ trí thức Tây học xuất hiện thay thế tầng lớp trí thức cũ
nặng về
“tầm chương trích cú”
[1].
Giáo dục
Phật giáo Việt Nam
vào
giai đoạn trước khi Pháp ban hành bộ luật giáo dục năm 1917
chịu
ảnh hưởng nặng nề
phương thức giáo dục của
Nho gia, với kiểu
học
tầm chương trích cú phổ biến
trong
giới Tăng lữ.
Vào
giai đoạn này,
hầu hết kinh điển Phật giáo được lưu
giữ
bằng Hán văn. Cho nên khi tư tưởng Tây học được phổ biến rộng rãi trong quần
chúng, Phật giáo bị rơi vào thế lạc hậu
[1].
b.
Sự kỳ thị tôn giáo của Pháp
Vào năm 1885, thực dân Pháp chính thức đô hộ toàn bộ Việt Nam, Lào và
Campuchia cũng như Quảng Tây. Trong thời gian cai trị, ngoài hệ thống giáo dục
thực tiễn, thực dân Pháp
còn
ủng hộ
mạnh mẽ việc
phát
triển Ki-tô
giáo
[12, tr.550].
Với chính sách
này,
Pháp dùng nhiều biện pháp để triệt thoái ảnh hưởng của Phật giáo trong quần
chúng nhân dân. Trong giai đoạn từ năm 1861 đến 1865, Pháp
đã
triệt hạ các chùa lớn, chỉ
để
lại các chùa trong ngõ hẻm [13,
tr29];
trong đó
chùa Kim Chương và chùa Phật Lớn (Ông Phúc) bị dỡ
bỏ
vào năm 1865, trong khi chùa Kim Tiên (Chợ Quán) bị dỡ
bỏ
vào năm 1863. Tồi tệ hơn, trong giai đoạn này, Pháp thực hiện chính sách kỳ thị
tôn giáo. Chúng không chỉ ủng hộ sự phát triển của Thiên Chúa giáo mà còn chiếm
dụng chùa chiền để làm
đồn bốt,
nhà thờ [3,tr.28].
c.
Sự ra
đời
những tôn giáo bản địa mới
Một nguyên nhân khách quan khác ảnh hưởng tới Phật giáo là việc ra đời các
tôn giáo mới mà
chúng
dựa trên nền tảng của Phật giáo,
như Bửu Sơn Kỳ Hương (1849), Cao Đài (1926), Tứ Ân Hiếu Nghĩa (1867),
và Hòa Hảo (1939) [7,
tr.11-12].
Mặc dù nhiều sử liệu trong giai đoạn 1920-1945 cho thấy Hòa
Hảo và Tứ Ân Hiếu Nghĩa không gây được
nhiều
ảnh hưởng,
thì
đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Cao Đài là hai tôn giáo có sức ảnh hưởng cực kỳ lớn đối
với quần chúng nhân dân trong khu vực Nam Bộ
[18].
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương mặc dù được
thành
lập
dựa
trên nền tảng Phật lý, nhưng nó đơn giản và mộc mạc hơn,
vì vậy
nó gần gũi và thu hút được thành phần nông dân nghèo khổ ở lưu vực sông Cửu Long
[14];[10,
tr.46].
Trong khi đó, mặc dù có tuồi đời non trẻ, đạo Cao Đài được cho là có ảnh hưởng
mạnh nhất và thu hút được nhiều người theo nhất trong giai đoạn 1920-1945
[18].
d.
Sự
suy thoái
của tầng lớp Tăng sĩ
Sự suy yếu về phẩm chất tu học của giới Tăng lữ có lẽ là nguyên nhân quan
trọng thúc đẩy sự chấn hưng Phật giáo
[1].
Hòa thượng
Thích
Mật Thể
[25,
tr.53]
trong công trình nghiên cứu sơ lược
về
lịch sử
Phật giáo Việt Nam,
đã
nhấn mạnh
rằng
nguyên nhân yếu kém của
tầng lớp
Tăng lữ là do sự sủng ái quá mức của các vua triều Nguyễn đối
với Phật giáo: “Từ trên vua quan cho đến thứ dân, ai ai cũng an trí đạo Phật
là ở sự cúng cấp cầu đảo chứ không biết gì khác nữa…
Phần đông Tăng đồ chỉ nghĩ đến danh vọng, chức tước: xin bằng Tăng Cang, Trú
trì, Sắc tứ .v.v...
Ôi! Tinh thần Phật giáo đến đây hầu đã tuyệt diệt?”.
Về giáo lý, kinh sách thì bị thất truyền, sai lạc nhiều do sự thâm nhập của lối
sống thế tục và các hình thức mê tín, nhất là của đạo Lão thần tiên. Về sự tu
hành càng bị sa sút. Cư sĩ
Khánh Vân đã miêu tả trong Tạp chí Duy Tâm số 18 năm 1926 rằng: “Có kẻ
mượn Phật làm danh, cũng ngày đêm hai buổi công phu, thọ trì, nhập sóc vọng,
cũng sám hối như ai, nhưng lại luyện bùa học ngải, luyện roi thần, khi lên ông,
lúc gặp bà, gọi là cứu nhân độ thế, nhưng thực ra lợi dụng lòng mê muội của
thiện nam, tín nữ, rộng túi tham vơ vét cho sạch sành sanh.”[27,
tr.301-307].
Cư sĩ
Thanh Quang cũng nói về tình trạng này trong Tạp chí Đuốc Tuệ: “Đau
đớn thay xứ ta, những hạng xuất gia vào chùa phần nhiều chỉ học đặng vài bộ
kinh, lo luyện hơi cho hay, tập nhịp tán cho già, nay lãnh đám này, mai lãnh đám
kia; cũng tràng hạt, cũng cà-sa,
thử lật mặt trái của họ ra mà xem thì có khác nào người trần tục.”
[28,
tr.3-5].
3. Kết Luận
Trong nghiên cứu này,
khảo
cứu
lịch
sử
và
khảo
cứu
văn
học
được sử dụng
như
hai công cụ cho việc tiếp cận dữ liệu. Sau khi phân tích nguồn dữ liệu,
cho thấy có hai nguyên nhân chính thúc đẩy sự chấn hưng Phật giáo giai đoạn
1920-1945, nguyên nhân từ bên ngoài và nguyên nhân trong nước.
Trong khi nguyên nhân từ bên ngoài được cho lưu xuất từ những cao trào chấn hưng
Phật giáo tại Ấn Độ, Nhật Bản
và
Trung Quốc, nguyên nhân từ trong nước bao gồm 4 yếu tố: sự thay đổi của nền giáo
dục, sự kỳ thị tôn giáo của Pháp, sự ra đời các tôn giáo bản địa,
và sự suy thoái của giới Tăng lữ.
Và rồi khi mọi nhân duyên hội đủ, phong trào chấn hưng Phật giáo được khởi động
và tạo nên một làn sóng chấn hưng Phật giáo khắp cả nước, đem lại nhiều thành
quả to lớn cho Phật giáo Việt Nam từ thời chấn hưng cho đến ngày nay.
Tài Liệu Tham Khảo
1.
Lại Như Bằng (2016), Phong trào Chấn hưng Phật
giáo
tại Việt Nam và tại các nước Trung Quốc, Nhật Bản
-
Kỳ 1.
Tham khảo tại
https://toasang-ugvf.org/
2.
Binh Anson (1999), Hòa thượng Hộ Tông Vansarakkhita (1893-1981). Tham
khảo tại
https://www.budsas.org/
3.
Lê Cung (2008), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963,
NXB.Thuận
Hóa, Huế.
4.
Lê Cung (2013), 50 năm nhìn lại phong trào chấn hưng Phật giáo miền Nam Việt
Nam (1963
-
2013),
NXB.Đại
Học Huế, Huế.
5.
David, G ( 2014 ). Rebuilding the Navel of the Earth: Buddhist pilgrimage and
transnational religious networks. Modern Asian Studies, Volume 48 (3),
pp.645-692.
6.
Nguyễn Đại Đồng & Nguyễn Thị Minh (2007), Phong
trào
Chấn
hưng Phật giáo - Tư Liệu báo chí Việt Nam từ 1927-1938,
NXB.Tôn
Giáo, Hà Nội.
7.
Thiện Hậu (2017), Phật giáo Nam tông Kinh Việt Nam (1938-1963), NXB.Hồng
Đức, Hà Nội.
8.
Thích Thiện Hoa (1970), 50 năm chấn hưng Phật giáo-Tập I, Viện Hóa Đạo,
Sài Gòn.
9.
Hội Phật học Kiêm Tế (1937), “Điều lệ”, chùa Tam Bảo, Rạch Giá: 10.
10.
Phạm Bích Hợp (2007), Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa (Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao
Đài, Hòa Hảo), NXB.Tôn
Giáo,
Hà Nội.
11.
Thích Giác Minh Hữu (2019), “Thái Hư
Đại
sư với sự phục hưng Phật giáo Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học,
số tháng 11/2019, trang 25-32.
12.
Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo
sử
luận
toàn tập,
NXB.Văn
Học, Hà Nội.
13.
Trần Hồng Liên (1996), Phật giáo Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến 1975, NXB.Thành
phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM.
14.
Nguyễn Hồng Lương (2018). Ảnh hưởng của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương đến đời sống
tinh thần của người dân Nam Bộ. Tham khảo tại http://btgcp.gov.vn/
15.
Dương Thanh Mừng (2015), “Các tổ chức Phật giáo trong phong trào chấn hưng Phật
giáo Việt Nam trước năm 1945”, Tạp
chí
Nghiên Cứu Tôn Giáo,
số 143, tr.43-59.
16.
Đào Nguyên (2013), Từ phong trào chấn hưng (1928-1945) đến phong trào tranh
đấu của Phật giáo miền Nam. Tham khảo tại
https://giacngo.vn/nguyetsan/2013/07/04/16D00A/
17.
Nguyễn Minh Nguyên & Trần Thị Thúy Ngọc (2015), “Một số biến động của Phật giáo
Nhật Bản Từ Minh Trị Duy Tân (1868-1912)”, Tạp
chí
Nghiên Cứu Tôn Giáo,
số 143, tr.60-69.
18.
Pascal Bourdeaux (2015), Đặng Thế Đại (dịch), Về nguồn gốc lịch sử của Phật
giáo Hòa Hảo. Tham khảo tại http://nghiencuuquocte.org/
19.
Pascal, B (2005). Croyances populaires et rétorsion coloniale dans le delta
du Mékongn Commentaires sur la découverte d'une secte religieuse au
village Hoa Hao mars - mai 1940, In: Aséanie, No 16: 124.
20.
Trần Thị Hòa Phương (2012), “Tổ chức quản lý giáo dục ở Việt Nam trong bộ máy
chính quyền thời Pháp thuộc trước năm 1945”, Tạp
chí
Nghiên Cứu Lịch Sử,
số 10, tr.42-47.
21.
Vũ Ngọc Ruẩn (2013). Minh Trị Thiên hoàng & những yếu tố canh tân thành công.
Tham khảo tại https://baoquocte.vn/
22.
Tôi Có Thể Viết (2018). Bộ máy nhà nước Nhật Bản thời Duy Tân Minh Trị.
Tham khảo tại https://medium.com/
23.
Thích Nhật Từ (2019), Phật học Việt Nam thời hiện đại: Bản chất, hội nhập và
phát triển, Học
viện
Phật
giáo
Việt Nam tại
thành phố
Hồ Chí Minh
ấn
hành.
24.
Thích Nữ Tuệ Thanh (2018), Thái Hư
Đại
sư trong phong trào phục hưng của Phật giáo Trung Hoa.
Tham khảo tại https://budsas.net/sach/vn48huethanh_thaihu.pdf
25.
Thích Mật Thể (2004), Việt Nam Phật giáo sử lược, NXB.Tôn
Giáo, Hà Nội.
26.
Nguyễn Tài Thư chủ biên (1988) và
các
tác giả khác, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB.Khoa
Học
Xã
Hội,
Hà Nội.
27.
Khánh Vân (1937), “Phật giáo ở nước ta vì đâu phải chịu cái hiện trạng suy
đồi?”, Duy Tâm Phật học,
số
18, tr.301-307.
28.
Thanh Quang (1942), “Hiện trạng Phật giáo ở xứ ta”, Đuốc Tuệ, số 178,
tr.3-5.