Bàng Long- Ngôi chùa của Việt kiều ở thủ đô Vientiane

bang long

Nguyễn Đại Đồng

 

Ng�y26 th�ng 8 năm 1938 (tức mồng 2 th�ng 7 nhuận năm Mậu Dần), đ�p thư của Hội Khuyến thiện của Việt kiều ở Vientiane, Thủ đ� Vương quốc L�o, Hội Phật gi�o Bắc Kỳ đ� cử Thượng toạ Th�ch Tr� Hải v� Ho� thượng Th�ch Đại Hải (Đỗ Danh Giao, trụ tr� ch�a D�u, huyện Thuận Th�nh, tỉnh Bắc Ninh) sang Vientiane, l�m lễ kỳ si�u v� quy y cho c�c kiều b�o.

B�o Đuốc Tuệ, cơ quan hoằng dương Phật ph�p của Hội Phật gi�o Bắc Kỳ, đăng b�i k� sự Sau khi thăm L�o v� Th�i Lan của Thượng tọa Tr� Hải, cho biết[1]:

-   Chiều ng�y 1 th�ng 9 (8/7 nhuận) đo�n đến Vientiane.

-   Từ ng�y 4-7 th�ng 9 năm 1938, Thượng tọa Tr� Hải v� H�a thượng Đại Hải thuyết ph�p về vấn đề Phật gi�o với ch�ng sinh,Tam quy v� � nghĩa Tam quy, Từ bi phương tiện, C�ng ph� ngục đ�n kết, giảng đại � nghĩa giải kết ph� ngục v� phương ph�p b�o �n cha mẹ tổ ti�n; L�n đ�n l�m lễ quy y cho Phật tử;Sau n�i về c�c c�ng việc của Hội Phật gi�o Bắc Kỳ từ khi th�nh lập tới nay.

-   C�c Phật tử đều ch� � lắng nghe v� nhiệt liệt hoan ngh�nh hai diễn giả. Họ b�y tỏ ước ao th�nh lập chi hội Phật gi�o v� dựng một ng�i ch�a ri�ng để cho c�c kiều b�o lễ b�i v� nghe giảng diễn về gi�o l� đạo Phậtở Vientiane.Ng�i Tr� Hải n�i: “Việc n�y ch�ng t�i xin hết sức về tr�nh với Hội m� c�n phải xin ph�p Ch�nh phủ nữa mới c� thể thi h�nh được. V� Điều lệ của Hội chỉ thi h�nh ở xứ Bắc Kỳ th�i, song ở b�n n�y đất rộng c�c kiều b�o đ�ng đ�c c� h�ng vạn người rồi, m� phần nhiều l� người theo đạo Phật. Vậy c�c ng�i kh�ng l�m th� th�i m� đ� định l�m n�n l�m cho c� quy củ chắc chắn vững v�ng rộng r�i, trước l� để thờ phụng chư Phật, để noi gương của c�c vị m� tu theo, ở trong ch�a cần n�n c� thư viện, trường học, nh� dưỡng l�o để nu�i những người sang đ�y kh�ng c� người th�n nhn cấp dưỡng, n�n c� nghĩa địa để an t�ng c�c vị qu� cố, c� nơi thờ c�c vị qu� cố v� ph� độ hết cả �m hồn. Xung quanh ch�a n�n c� vườn hoa, vườn cảnh để c�ng v� để khi rỗi nh�n c�ng th�ng 2 tuần lễ Phật ngoạn cảnh để di dưỡng tinh thần, sau nữa n�n c� những nh� tịnh thất, để khi người gi� ai kh�ng muốn ở nh� c� thể ra đấy đ tu dưỡng, sống chết nhờ cảnh Phật th� lại c�ng hay. N�i t�m lại trong ch�a ấy cần phải l�m c�c việc từ thiện về thực tế, c�n những hoang đường huyễn hoặc giả dối hư danh ta n�n b�i bỏ, cần phải thương y�u nhau cứu gi�p lẫn nhau ở nơi đất kh�ch qu� người, trong khi hoạn nạn lấy ch�a l�m cơ quan l�m quỹ”.Mọi người đều t�n th�nh.

- Chiều ng�y 10 th�ng 9 (17/7 nhuận), đo�n đến ch�o quan c�ng sứ v� quan kh�m sứ,tr�nh b�y về việc c�c người Việt Nam ở b�n L�o đ�ng đ�c m� c� nhiều người khao kh�t muốn l�m ng�i ch�a để c�ng lễ v� giảng diễn. C�c quan đều vui l�ng t�n th�nh, nếu l�c n�o l�m th� c�c quan sẽ gi�p sức v� cho ph�p.

- Tối ng�y 10 th�ng 9,c�c gi� c�ng c�c gi�o hữu ở Vientiane ngồi chờ từ tối để ch�o đo�n sắp từ biệt xứ L�o. Ai nấy đều khẩn khoản muốn biết điều lệ của Hội Phật gi�o Bắc Kỳ v� mong ở Vientiane ch�ng c� một ng�i ch�a của người Việt Nam để c� nơi lễ Phật nghe giảng v� chỗ thờ c�ng tổ ti�n, mong rằng Phật gi�o hết l�ng gi�p v�o cho c�ng việc ch�ng kết quả. H�a thượng Đại Hải n�i:“Việc đ� l� việc c�ng đức lợi �ch chung cả ch�a của cả kiều b�o b�n L�o, cần phải c� nhiều người đồng t�m hiệp lực cố hết l�ng sốt sắng l�c n�o cũng lo đến lu�n lu�n. C�n Hội Phật gi�o Bắc Kỳ d� c� gi�p được, cũng chỉ được một hai phần m� th�i, ho�n to�n cả th� kh� lắm. Bởi v� c�ng việc Hội hiện nay cũng nhiều lắm m� cũng chưa l�m xuể được.

- Ng�y 12 th�ng 5 năm 1942,  �ng Trịnh Văn Ph� - Ch�nh Hội trưởng Phật gi�o Vientiane, L�o đ� gửi điện c�m ơn Hội Phật gi�o Bắc Kỳ về việc tr�n.

ASSOCIATION BOUDDHIQUE                                                           Vientiane, le 12 Mai 1942

DEVIENTIANE                                                                                 Le Pr�sident de l’Association

PHẬT GI�O HỘI                                                                                  Bouddhique de Vientiane

N0 104                                                                                                   � Monsieur le  Pr�sident de

                                                               l’Association Bouddhique

du Tonkin

HANOI

Thưa ng�i

Ch�ng t�i lấy l�m vinh dự v� may mắn được qu� Hội đ� đặc ph�i hai H�a thượng Đại Hải v� Tuệ Chiếu sang đ�y dự lễ kh�nh th�nh ch�a Phrakeo v� để chỉ dẫn ch�ng t�i trong l�c Phật gi�o ở đ�y c�n trong buổi sơ khai.

Hai Ho� thượng ở Vientiane chung quy c� hơn một tuần (từ 29 Avril đến 7 Mai), nhưng ảnh hưởng rất s�u xa. V� ngo�i lẽ bang giao hai H�a thượng đ� lấy Phật gi�o để thắt chặt mối t�nh th�n thiện giữa hai d�n tộc, v� đ� hết sức cổ động cho Phật gi�o được khuếch trương ở L�o. Hai H�a thượng để lại Vientiane cho to�n thể người Ph�p-Nam, L�o một cảm t�nh rất tốt, thật l� một điều đ�ng mừng v� c�ng.

H�m lễ kh�nh th�nh ch�a Phrakeo, ng�i Đại Hải c� diễn giảng, được Quốc vương L�o c�ng tất cả th�nh giả hoan ngh�nh. B�i diễn ấy b�o Tin L�o v� L�o Nhay sẽ t�m tắt để độc giả Nam, L�o đồng l�m.

Hai H�a thượng c� yết kiến Quốc vương v� Ph� Quốc vương L�o v� dự tiệc tại Hội qu�n L�o, c� Ph� vương chủ tọa. H�a thượng Tuệ Chiếu thay mặt Hội Phật gi�o Bắc kỳ c�m ơn tấm thịnh t�nh của Hội L�o v� n�i về sự li�n lạc Phật gi�o của năm xứ: Lời lẽ rất chải chuốt v� th�nh thực, đ� g�y mối cảm t�nh của tất cả mọi người.

Tối h�m 2 Mai (2-5), ng�i Tuệ Chiếu c� n�i chuyện về Phật gi�o, ch�ng t�i đ� tường thuật cuộc n�i chuyện ấy trong b�o Tin L�o m� ch�ng t�i cũng gửi biếu qu� Hội. V� ngo�i buổi n�i chuyện c�ng khai ấy v� trước khi xuống tầu, ng�i cũng nhiều lần giảng giải gi�o l� đạo Phật cho hội vi�n bản Hội.

Hai Ho� thượng thật đ� hết l�ng cổ động gi�p ch�ng t�i việc thiết lập ng�i ch�a, v� được to�n thể Việt kiều đ�y t�n vọng. Sau n�y nếu Phật gi�o ở đ�y c� cơ sở vững v�ng v� được b�nh trướng ra, thật c�ng đức của hai H�a thượng kh�ng phải nhỏ vậy.

Ch�ng t�i hiện đương x�y dựng nh� Tổ, khi n�o kh�nh th�nh, ch�ng t�i sẽ c� thơ về y�u cầu qu� Hội để mời hai Ho� thượng trở sang lần nữa, v� xin qu� Hội cắt cử cho một vị sang ở đ�y lu�n để tiện bề truyền b� Phật gi�o.

Mọi việc ch�ng t�i đều phải tr�ng cậy v�o qu� Hội để trong bước đầu ch�ng t�i khỏi phải đi lầm đường.

Ch�ng t�i xin ch�n th�nh cầu ch�c cho qu� Hội được c�ng ng�y c�ng thịnh vượng[2].

Nay k�nh

Ch�nh Hội trưởng

 TRỊNH VĂN PH�

Như vậy, trong chuyến sang L�o th�ng 8-9 năm 1938 để giảng diễn gi�o l� đạo Phật v� lập đ�n Tam quy cho Phật tử Việt kiều ở Vientiane, c�c Phật tử đ� đề nghị Thượng tọa Tr� Hải v� H�a thượng Đại Hải tr�nh với Hội Phật gi�o Bắc Kỳ về việc x�y dựng một cơ sở truyền b� gi�o l� đạo Phật nữa tại Vientiane. Hai vị khi v�o ch�o quan C�ng sứ v� quan Kh�m sứ ở đ�y cũng tr�nh lại với họ v� họ hứa sẽ gi�p đỡ khi l�m. Tuy nhi�n l�c bấy giờ Hội Phật gi�o Bắc Kỳ đang tập trung x�y dựng ch�a Qu�n Sứ-Hội qu�n Trung ương n�n chưa gi�p được g�.

Th�ng 4 năm 1942, trong chuyến sang L�o dự lễ kh�nh th�nh ch�a Vatphrakeo, H�a thượng Đại Hải v� Thượng tọa Tuệ Chiếu đ� diện kiến vua L�o, Ph� vương L�o v� To�n quyền Đ�ng Ph�p, hai vị đ� tr�nh với qu� ng�i n�i tr�n v� được chấp nhận. Đ�y l� sự động vi�n tinh thần rất lớn đối với c�c Phật tử Việt kiều v� sau đ� Hội Việt kiều ở Vientiane đ� th�nh lập Ban S�ng lập ch�a do �ng Trịnh Văn Ph� nguy�n Hội trưởng Hội Phật gi�o Việt kiều Vientiane l�m Trưởng ban.

C�ng việc x�y dựng ch�a được tiến h�nh ngay, tới cuối năm 1942, x�y xong ng�i nh� Tổ. Nhưng do kh� khăn về t�i ch�nh v� chiến sự xảy ra n�n m�i tới năm 1945 ng�i ch�a mới được kh�nh th�nh. Ch�a được dựng tr�n l� đất thuộc bản Sihom (nay l� bản Hải Xộc), mường Chăn Tha Bu Ly, thủ đ� Vientiane, vương quốc L�o (từ ng�y 2 th�ng 12 năm 1975 l� nước Cộng h�a D�n chủ Nh�n d�n L�o), do một số Việt kiều k�nh ngưỡng Phật gi�o, đứng đầu l� hai �ng Trịnh Văn Ph� v� Đỗ Đ�nh Tảo đ� mua đất, quy hoạch v� xin ph�p dựng ch�a, dưới sự chứng minh chỉ đạo của Thượng tọa Tr� Hải v� Thượng Toạ Tuệ Chiếu ở ch�a Qu�n Sứ, H� Nội, với mục đ�ch l�m nơi t�n ngưỡng t�m linh, chỗ dựa tinh thần cho Việt kiều ở thủ đ� Vientiane n�i ri�ng v� nước L�o n�i chung. Ch�a được đặt t�n l� “B�ng Long”, nghĩa l� Hồng B�ng v� Lạc Long Qu�n, để nhắc nhở cho c�c kiều b�o Việt Nam hiện đang sinh sống ở L�o phải biết thương y�u đ�m bọc nhau hơn, để thực sự xứng đ�ng l� con Hồng ch�u Lạc. 

Sau khi ch�a B�ng Long được h�nh th�nh, Hội Phật gi�o Việt kiều Vientiane đ� ch�nh thức cung thỉnh Gi�o hội Tăng gi� Bắc Việt đề cử hai H�a thượng Th�ch Đại B�i v� Th�ch Đại Hải sang l�m trụ tr� đời thứ nhất, để hướng dẫn Phật ph�p cho kiều b�o Việt Nam đang sinh sống tại thủ đ� Vientiane. Một thời gian sau, ng�i Đại B�i vi�n tịch, c�n ng�i Đại Hải th� đi du h�a khắp nơi, ch�a thiếu b�ng sư trụ tr�. Khi đ�, Hội Việt Kiều Vientiane đ� cung thỉnh Gi�o hội Tăng gi� Trung Việt cử sư Th�ch Giải Huệ về kế đăng trụ tr� ch�a B�ng Long đời thứ Hai.

Giai đoạn từ những năm 1946-1950, ch�a B�ng Long trống vắng kh�ng người tr�ng nom, do chiến tranh khiến những người d�n phải di cư sang Th�i Lan l�nh nạn.

Từ những năm 1950-1954, sư Th�ch Thiện Li�n c� nh�n duy�n hoằng ph�p tại xứ L�o đ� về ch�a B�ng Long c�ng với Hội Việt kiều đứng l�n phục dựng lại ch�a. Sau khi phục hồi ch�a xong, ng�i Thiện Li�n lại tiếp tục bản nguyện của m�nh đi du h�a khắp nơi kh�ng trụ lại ch�a B�ng Long.

Năm 1955, �ng Trịnh Văn Ph�, nguy�n Hội trưởng Hội Phật gi�o Việt kiều Vientiane, nguy�n Trưởng ban S�ng lập ch�a B�ng Long sau đợt di cư trở về thấy ch�a trống vắng kh�ng c� người trụ tr�, n�n �ng đ� c�ng b� con kiều b�o Việt Nam tại Vientiane l�m đơn gửi Gi�o hội Tăng gi� Việt Nam thỉnh cầu Thượng tọa Th�ch Nhật Li�n về trụ tr� ch�a B�ng Long đời thứ ba từ năm 1956 đến 1969. Trong thời gian trụ tr� ch�a B�ng Long, ng�i Nhật Li�n đ� thỉnh được Thượng tọa Th�ch Thanh Tuất, Thượng tọa Th�ch Quảng Thiệp v� H�a thượng Th�ch Trung Qu�n c�ng chung lo Phật sự tại ch�a B�ng Long v� đ� tr�ng tu lại ng�i ch�nh điện, mua đất th�nh lập nghĩa địa Phật gi�o v� dựng ch�a Đại Nguyện tại đ�y để l�m nơi cho c�c kiều b�o Việt Nam gửi sắc th�n sau khi quy ti�n chầu Phật.   

Do sự điều động của Gi�o hội Phật gi�o Thống nhất Việt Nam, v�o năm 1969, Thượng tọa Th�ch Nhật Li�n đ� hồi hương đảm tr�ch c�ng việc Phật sự tại qu� nh�. Trước khi về nước, ng�i Nhật Li�n đ� cung thỉnh H�a thượng Th�ch Trung Qu�n, khi đ� đang giữ cương vị Thượng thủ ch�a B�ng Long l�n l�m trụ tr� ch�a B�ng Long đời thứ tư, để tiếp tục sự nghiệp hoằng dương Phật ph�p tại nơi đ�y.

Kể từ năm 1969-1978, H�a thượng Th�ch Trung Qu�n tr�n cương vị trụ Ph�p vương gia, tr� Như Lai tạng đ� ch� trọng về việc nghi�n cứu dịch thuật v� hoằng h�a, nhằm n�ng cao tr�nh độ Phật học cho c�c Tăng Ni v� Phật tử, n�n đ� mở nhiều kh�a tu học tại ch�a B�ng Long v� nhiều nơi tr�n đất nước L�o. Đặc biệt, ng�i c� hạnh nguyện tự tay đắp tượng Phật để t�n thờ, bởi thế hầu hết những pho tượng đang t�n thờ tại c�c ng�i ch�a m� ng�i từng l�m trụ tr� hay đến hoằng h�a, đều do đ�ch th�n ng�i đắp, như ch�a B�ng Long (Vientiane), ch�a Phật T�ch(Luangphabang), ch�a Thanh Quang v� ch�a Long V�n ở tỉnh Pakse, ch�a Nh�n Vương v� Ph�p Vương ở Ph�p. Trong khoảng thời gian gần 10 năm hoằng h�a tại xứ L�o, ng�i đ� được rất nhiều người ở nhiều nơi mến mộ t�m đến quy y, học hỏi v� xuất gia tu h�nh; nhờ vậy m� ch�a B�ng Long đ� trở th�nh trung t�m của Phật gi�o Việt Nam tại L�o, c� hiệu l� “Ch�a Trung ương B�ng Long” v� “Như Lai Sở đ�”.

Khoảng giữa năm 1978, nhận lời thỉnh cầu từ Hội Phật tử ch�u �u, H�a thượng Th�ch Trung Qu�n đ� tạm thời giao tr�ch nhiệm tr�ng giữ ch�a B�ng Long cho hai đệ tử l� sư c� Th�ch Đ�m Ngọc v� sư c� Th�ch Đ�m Quy để sang ch�u �u hoằng dương Phật ph�p.

Năm 2003, H�a thượng Th�ch Trung Qu�n thuận theo l� v� thường đ� xả bỏ huyễn th�n trở về ph�p th�n, vi�n tịch v�o ng�y 1 th�ng 4 năm 2003 tại Ph�p. Từ đ� cho tới nay, ch�a B�ng Long vắng b�ng sư trụ tr�, do khi H�a thượng Th�ch Trung Qu�n ra đi chưa ch�nh thức b�n giao cương vị trụ tr� ch�a B�ng Long cho ai cả.[3]

Những năm gần đ�y, do hai sư Đ�m Ngọc v� Đ�m Quy tuổi cao, sức khỏe suy giảm, khiến c�ng việc tại ch�a B�ng Long bị sao nh�ng, trầm lắng. Trước thực trạng tr�n, sư Đ�m Quy c�ng chư Tăng Ni l� những người từng xuất gia tu học với H�a thượng Th�ch Trung Qu�n tại ch�a B�ng Long giai đoạn 1970-1989 v� Hội người Việt Nam ở Vientiane đ� đồng l�ng l�m đơn thỉnh nguyện Hội đồng Trị sự Trung ương Gi�o hội Phật gi�o Việt Nam v� Đại sứ qu�n Việt Nam tại L�o, cầu thỉnh Thượng tọa Th�ch Thọ Lạc về trụ tr� ch�a B�ng Long.

Đ�p lại thỉnh nguyện tr�n, sau khi nhận được c�c văn bản đồng thuận của c�c cơ quản l� nh� nước L�o v� Việt Nam, ng�y 12 th�ng 9 năm 2014, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Gi�o hội Phật gi�o Việt Nam đ� ch�nh thức ra Quyết định c�ng cử Thượng tọa Th�ch Thọ Lạc, Ủy vi�n Thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Gi�o hội Phật gi�o Việt Nam, Ph� Trưởng ban Thường trực Ban Văn h�a Trung ương Gi�o hội Phật gi�o Việt Nam, Trưởng sơn m�n Tổ đ�nh Kim Li�n, l� sư đệ của H�a thượng Th�ch Trung Qu�n, l�nh tr�ch nhiệm trụ tr� ch�a B�ng Long tại Thủ đ� Vientiane, nước Cộng h�a D�n chủ Nh�n d�n L�o, để quản l�, điều h�nh, hướng dẫn Phật ph�p v� phục vụ t�n ngưỡng t�m linh cho c�c Phật tử v� cộng đồng người Việt Nam tại L�o, theo đ�ng tinh thần Phật ph�p, Ph�p luật của Nh� nước v� Hiến chương của Gi�o hội. 

Tin rằng dưới sự dẫn dắt của Thượng toạ Th�ch Thọ Lạc, ch�a B�ng Long sẽ ng�y một hưng thịnh, xứng đ�ng l� chỗ dựa t�m linh v� nơi tu tập của Việt kiều tại Vientiane v� thể hiện sự đo�n kết gắn b� thuỷ chung giữa nh�n d�n hai nước L�o-Việt.

NĐĐ

 

T�i liệu tham khảo:

1.      B�o Đuốc Tuệ số 98 ra 1 th�ng 12 năm 1938.

2.      B�o Đuốc Tuệ số 180-181 ra 15-5 v� 1-6 năm 1942.

3.      Nguyễn Đại Đồng, Bi�n ni�n sử Phật gi�o miền Bắc (1920-1953), Nxb T�n gi�o, 2008.

4.      Lược sử ch�a B�ng Long do TT.TS Th�ch Thọ Lạc v� Đ�o Minh Ch�u bi�n soạn năm 2017.

 

 



[1]Đuốc tuệ số 98 ra ng�y 1 th�ng 12 năm 1938.

[2]Đuốc tuệ số 180-181 ra ng�y 15/5 v� 1/6/1942.

[3]Theo Lược sử ch�a B�ng Long doThượng tọa Tiến sĩ Th�ch Thọ Lạcv� Đ�o Minh Ch�u - Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại thủ đ� Vi�ng Chăn, bi�n soạn, ng�y 09 th�ng 01 năm 2017, tại ch�a B�ng Long, Thủ đ� Vientiane.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle