GHI NHẬN VỀ HÌNH TƯỢNG DÊ TRONG PHẬT ĐIỂN
ghi nhan
Nguyên Huệ
Từ ngựa (năm Giáp Ngọ 2014) đến dê (năm Ất Mùi 2015) không phải đi xuống mà là
đi vòng, theo vòng xoay của thời gian vô tận. Nói chung, tuy không bằng ngựa
nhưng dê vẫn có những gắn bó, những đóng góp rất đặc thù trong đời sống xã hội
của con người. Thế nên, kinh luận của Phật đã đề cập đến dê – tuy không nhiều
bằng ngựa – cũng là điều bình thường. Nhân dịp xuân Ất Mùi (2015), chúng tôi xin
bước đầu ghi nhận về hình tượng dê trong Phật điển, qua hai phần: Hình tượng dê
trong một số từ ngữ - thuật ngữ Phật học, và hình tượng dê nơi một số kinh trong
bốn bộ A-hàm.
I-
Hình tượng dê trong một số từ ngữ - thuật ngữ Phật học:
1-
Dương xa (xe dê): Xe dê là một trong 4 thứ xe được nêu lên nơi phẩm Thí dụ
(phẩm thứ 3) của kinh Pháp hoa theo bản Hán dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập:
344-413 (ĐTK/ĐCTT, tập 9, No262, 7 quyển). 4 xe là: xe dê
(dương xa), xe hươu (lộc xa), xe bò (ngưu xa) và một xe lớn do bò trắng kéo
(nhất đại bạch ngưu xa). 4 xe, theo thứ lớp ấy là để dụ cho thừa Thanh văn, thừa
Duyên giác, thừa Bồ-tát và Nhất Phật thừa (Phật Quang ĐTĐ, tr.1700C). Xe dê: là
xe do dê kéo, dụ cho người của thừa Thanh văn, tu hành 4 đế để cầu xuất ly 3
cõi, chỉ muốn tự độ, không quan tâm đến người khác, như dê khi phóng nhanh hoàn
toàn không quay đầu lại đối với cả đàn ở sau (Phật Quang ĐTĐ, tr.558A). Đây là
đoạn kinh văn nói về 3 xe, 4 xe để ở bên ngoài cửa của ngôi nhà đang bị lửa
thiêu đốt: “Đại trưởng giả thấy vậy nghĩ rằng, ngôi nhà này đang bị lửa dữ đốt
cháy, ta với con ta không thoát gấp thì chắc chắn bị đốt. Ta phải lập chước
phương tiện để làm cho các con khỏi bị tai họa. Là cha nên đại trưởng giả biết
trước tâm lý các con mỗi đứa có một sở thích. Những đồ chơi quý, đẹp và lạ, ý
chúng chắc chắn rất ham. Ông bảo, cha có những đồ chơi mà các con rất thích.
Những đồ ấy hiếm có, khó được, các con không lấy thì sau tất hối tiếc. Những đồ
ấy là các cỗ xe dê, các cỗ xe hươu và các cỗ xe bò, hiện cha để cả ở ngoài cửa,
các con có thể ra lấy mà chơi… Khi đại trưởng giả thấy các con ra được an toàn,
ngồi cả nơi chỗ đất trống ở giữa ngả tư, không còn gì phải e ngại nữa, thì lòng
ông khoan khoái, vui mừng rộn rã. Bấy giờ các con ông cùng thưa, đồ chơi cha
hứa, xe dê, xe hươu, xe bò ở đâu xin cha cho liền đi. Khi ấy, đại trưởng giả cấp
cho các con mỗi đứa một cỗ xe lớn như nhau… Cỗ xe ấy được kéo bằng con bò
trắng…”(1).
Hình ảnh xe dê còn được thấy nơi một số kinh thuộc hệ Bản duyên viết về lịch sử
Đức Phật, ở đấy là xe dê thật chứ không phải chỉ là dụ như nơi kinh Pháp hoa.
Xe dê ở đó là phương tiện quý giá do vua cha sắm cho thái tử - sau này là Đức
Phật – lúc ấy khoảng 7, 8 tuổi, để đi đến lớp học hoặc đi dạo chơi nơi các thắng
cảnh. Như nơi kinh Thái tử thụy ứng bản khởi quyển thượng viết: “Đến năm
7 tuổi, thái tử cầu tìm học nơi sách, cỡi xe dê đi tới lớp học của thầy giáo”
(ĐTK/ĐCTT, tập 3, No185, 2 quyển, cư sĩ Chi Khiêm Hán dịch,
tr.474B).
·
Kinh Quá khứ hiện tại nhân quả, quyển 1 thì nêu rõ: “Vua cha sắm đủ các
thứ xe voi, xe ngựa, xe bò, xe dê cho thái tử dùng vào việc đi dạo v.v… Sau đấy
thì tâm niệm: Thái tử đã lớn, nên khiến học tập nơi các sách. Rồi cho người đi
tìm thầy thuộc loại thông tuệ bậc nhất để dạy chữ cho thái tử” (ĐTK/ĐCTT, tập 3,
No189, 4 quyển. Đại sư Cầu Na Bạt Đà La Hán dịch, tr.627C).
·
Kinh Phật bản hạnh tập, quyển thứ 11, phẩm 11, đã cho biết: Sau khi tập
hợp nhiều dê khỏe đẹp để tạo xe dê quý giá dành cho thái tử du ngoạn nơi các
viên lâm, vua cha liền triệu tập bá quan, để bàn việc tìm thầy dạy Thái tử học…”
(ĐTK/ĐCTT, tập 3, No190, 60 quyển, Đại sư Xà Na Quật Đa Hán
dịch, tr.703A).
2-
Dương Tăng: Nói đủ là Á dương tăng, là một trong 4 loại Tăng theo sự nêu thuật
của luận Đại trí độ (Tác giả là Bồ-tát Long Thọ. Hán dịch là Pháp sư Cưu
Ma La Thập: ĐTK/ĐCTT, tập 25, No1509, 100 quyển). 4 loại Tăng
gồm: Hữu tu tăng, còn gọi là Tàm quý tăng; Vô tu tăng còn gọi là Phá giới tăng;
Á dương tăng, còn gọi là Ngu si tăng; Thật tăng, còn gọi là Chân thật tăng. Và Á
dương tăng được định nghĩa: Chỉ cho loại Tăng ngu tối, không trí, như loài dê
câm (á dương) (Phật Quang ĐTĐ, tr.1818A). Lại nơi từ Tăng-già (Phật Quang ĐTĐ,
tr.5718B-5720C) cũng nêu dẫn luận Đại trí độ quyển 3 đã nói đến 4 loại
Tăng như trên, và Á dương tăng được giải thích rõ thêm: Là chỉ cho loại Tăng ngu
muội, không phân biệt thiện ác, nói gọn là Dương tăng. Có khi cũng là từ của
Tỳ-kheo tự khiêm. (Phật Quang ĐTĐ, tr.5720A). Nơi một bảng phân loại khác, căn
cứ theo kinh Đại thừa đại tập địa tạng thập luân (ĐTK/ĐCTT, tập 13, No411,
10 quyển, Pháp sư Huyền Tráng Hán dịch (và sách Đại thừa pháp uyển nghĩa lâm
chương của Đại sư Khuy Cơ (ĐTK/ĐCTT, tập 45, No1861, 7
quyển) thì 4 loại Tăng gồm: Thắng nghĩa tăng, Thế tục tăng, Á dương tăng, Vô tàm
quý tăng. Và Á dương tăng được định nghĩa cũng tương tự như trên. (Phật Quang
ĐTĐ, tr.1818A).
3-
Dương tâm: Nói đủ là Dị sanh đê dương tâm, là tâm thứ nhất của 10 trụ tâm (theo
phẩm Trụ tâm của kinh Đại nhật). Dị sanh tức là phàm phu. Dị sanh đê
dương tâm: nghĩa là loại phàm phu ngu si vô trí, cũng như loài dê đực (đê dương)
chỉ biết nghĩ về dâm dục và ăn uống. Loại phàm phu không biết biện biệt về thiện
ác, chỉ buông thả theo tham sân si, tham đắm 5 dục, chẳng tin quả báo của địa
ngục, ngày đêm chỉ hành theo nghiệp ác, không có tâm hổ, thẹn, không quan tâm
đến nhân luân. Hoặc khởi đoạn kiến, bác bỏ cho là không có nhân quả. Hoặc khởi
thường kiến không tin luân hồi. Thân hoại mạng chung, tất đọa vào nẻo ác” (Phật
Quang ĐTĐ, tr.5151C-5152A).
4-
Dương minh (tiếng dê kêu): Là một trong 10 thứ tên gọi địa ngục thuộc loại 8 địa
ngục lạnh, theo kinh trường A-hàm (ĐTK/ĐCTT, tập 1, No1,
22 quyển, 30 kinh. Đại sư Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm Hán dịch). Kinh
Trường A-hàm nơi quyển thứ 19, kinh số 30: kinh Thế ký, phẩm Địa ngục
(phẩm 4) đã nói đến 10 thứ địa ngục (thuộc 8 địa ngục lạnh) là: Hậu vân, Vô vân,
Ha ha, Nại hà, Dương minh, Tu-càn-đề, Ưu-bát-la, Câu vật đầu, Phân-đà-lợi,
Bát-đầu-ma (Phật Quang ĐTĐ, tr.298B).
5-
Dương mao trần: Dương mao trần, Phạn ngữ là Avi-Rajas, tức chỉ cho thứ vi trần
như phần nhọn nơi đầu sợi lông dê (dương mao): 7 cực vi trần (đơn vị nhỏ nhất
của sắc pháp) hợp làm một vi trần. 7 vi trần là một kim trần. 7 kim trần là một
thủy trần. 7 thủy trần là một thố mao trần. 7 thố mao trần là một dương mao
trần… (Phật Quang ĐTĐ, tr.2505A).
6-
Dương giác: Phật học Đại từ điển của Đinh Phúc Bảo (tr.967B) giải thích:
Dương giác (thí dụ), tức sừng của linh dương (một loài dê ở rừng, sừng dùng làm
thuốc) để dụ cho phiền não. Kim cương rất cứng chắc, dụ cho Phật tánh. Sừng của
linh dương (linh dương giác) có thể hủy hoại. Tức phiền não có thể hoại Phật
tánh… Lục Tổ, Kim cương kinh tự viết: Kim cương dụ cho Phật tánh. Sừng
của linh dương dụ cho phiền não. Kim cương tuy cứng chắc, nhưng sừng của linh
dương có thể làm vỡ nát (năng toái). Phật tánh tuy bền chắc, nhưng phiền não có
thể phá hoại (năng loạn).
II-
Hình tượng dê nơi một số kinh trong 4 bộ A-hàm(2)
1-
Kinh Cứu La Đàn Đầu (kinh số 23 thuộc kinh Trường A-hàm):
Bà-la-môn Cứu La Đàn Đầu chuẩn bị tổ chức đại lễ tế tự với nhiều bò và dê, nhưng
sau khi diện kiến Đức Thế Tôn, thưa hỏi về thể thức tế tự, Đức Phật đã vì ông ta
giảng nói về 3 loại tế tự, 16 tế cụ (vật dụng dùng để tế tự), giảng rõ về công
đức của sự quy y, giữ giới, tâm từ và xuất gia tu đạo, khiến Bà-la-môn Cứu La
Đàn Đầu tỉnh ngộ, thả hết bò và dê, xin quy y Tam bảo. Đức Phật nhân đấy kể một
chuyện tiền thân của Ngài… (Dẫn theo: Tổng quan bốn bộ A-Hàm, Thích
Nguyên Hùng biên soạn, NXB.Hồng Đức, 2012, tr.56).
2-
Kinh Diêm dụ (Kinh số 11, thuộc kinh Trung A-hàm):
·
Người tạo nghiệp bất thiện mà không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không
tu tuệ thì chắc chắn bị đọa nơi địa ngục, giống như đem một lạng muối bỏ vào một
chút nước, muối làm cho nước mặn không thể uống được. Hoặc như người chủ nuôi dê
nghèo hèn không có thế lực, bị vua quan hay người có thế lực lớn chiếm đoạt dê,
người chủ dê nghèo không thể đòi lại được, dù có lạy lục van xin…
·
Người tạo nghiệp bất thiện mà biết ăn năn sám hối, rồi tu thân tu giới tu tâm tu
tuệ, thì chỉ thọ chút ít quả khổ trong đời hiện tại. Như đem chút ít muối bỏ vào
sông Hằng, không thể làm cho nước sông Hằng mặn đi không uống được. Hoặc như
người chủ nuôi dê giàu có, có thế lực, người trộm dê nghèo hèn, tất bị chủ dê
bắt trói, đoạt lại dê… (dẫn theo: Tổng quan bốn bộ A-hàm, sđd, tr.86).
3-
Kinh nói về hai pháp thủ hộ thế gian
(nơi phẩm Tàm quý, phẩm 4 thuộc phần phẩm Hai pháp của kinh Tăng nhất A-hàm):
·
Hai pháp thủ hộ thế gian: Đó là tàm và quý. Tàm là tự thấy xấu hổ với lỗi lầm
của mình. Quý là thấy hổ thẹn với người khác… Đức Thế Tôn nhận định đây là “Hai
pháp tinh diệu thủ hộ thế gian. Nếu không có hai pháp này thì thế gian sẽ không
phân biệt có cha có mẹ có anh có em, vợ con, tri thức, tôn trưởng lớn nhỏ, sẽ
cùng với lục súc bò, heo, gà, chó, ngựa, dê… cùng một loại (dẫn theo: Tổng
quan bốn bộ A-hàm, Sđd, tr.381).
Luận A-tỳ-đạt-ma Đại-tỳ-bà-sa (quyển 35, chương 1: Tạp uẩn. Phẩm 5: Bàn
về không hổ thẹn. Phần 2: Thế nào là hổ (tàm)? Thế nào là thẹn (quý)? Cho đến
nói rộng, đã luận về hổ, thẹn (tàm, quý) như sau: “Lại nữa, hai pháp như thế là
đã giữ gìn thế gian, như Đức Thế Tôn nói: Có hai pháp trắng có khả năng giữ gìn
thế gian, là hổ và thẹn. Nếu không có hai pháp này, tất sẽ không có nẻo thiện
giải thoát. Nay muốn chỉ rõ tướng của hai pháp đó để mọi người siêng năng tu
tập. Lại nữa, hai pháp như thế có khả năng, khiến có vô số thứ khác nhau giữa
các hữu tình (chúng sanh), đó là cha mẹ, anh em, chị em, nam nữ, quyến thuộc,
trên dưới lớn nhỏ. Vì nếu không có hai pháp này, thì con người khác nào như bò
dê v.v… là không có sự khác nhau về trật tự cao thấp lớn nhỏ. Vì muốn chỉ rõ
tướng của hai pháp đó, nên tạo ra phần luận này. Và hổ (tàm) đã được định nghĩa:
* Hỏi: Thế nào là hổ?
- Đáp: Là những sự có hổ, có đối tượng bị hổ, có hổ khác, có xấu hổ, có đối
tượng bị xấu hổ, có xấu hổ khác, có cung kính, có tánh cung kính, có tự tại, có
tánh tự tại. Đối với sự tự tại, có sợ hãi chuyển biến. Đó gọi là hổ. Sau đấy thì
bàn về tự tánh, hành tướng và đối tượng duyên của hổ.
Còn thẹn (quý) thì định nghĩa:
·
Hỏi: Thế nào là thẹn?
-
Đáp: Là những sự có thẹn, có đối tượng bị thẹn, có thẹn khác, có tủi thẹn, có
đối tượng bị tủi thẹn, có tủi thẹn khác. Trong các tội, có sợ có hãi, thấy sợ
hãi một cách sâu xa. Đó gọi là Thẹn. Sau đấy thì bàn về tự tánh, hành tướng và
đối tượng duyên của thẹn, cùng so sánh hổ với thẹn… (luận A-tỳ-đạt-ma
Đại-tỳ-bà-sa, Pháp sư Huyền Tráng Hán dịch, cư sĩ Nguyên Huệ Việt dịch,
NXB.Hồng Đức, 2014, tập 2, tr.327, 329).
Theo luận A-tỳ-đạt-ma-câu-xá – Đại diện cho hệ A-tỳ-đàm, thì tàm quý (hổ
thẹn) là hai pháp trong 10 pháp đại thiện địa (tín, bất phóng dật, khinh an, xả,
tàm, quý, không tham, không sân, bất hại, cần). Còn theo luận Đại thừa bách
pháp minh môn – đại diện cho học phái Duy thức, thì tàm quý là hai tâm sở
thiện trong 11 tâm sở thiện (tín, tàm, quý, không tham, không sân, không si,
tinh tấn, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại)(3).
4-
Nói về người như sư tử, người như dê (nơi phẩm Thiện tri thức – phẩm 6 thuộc
phần phẩm hai pháp của kinh Tăng nhất A-hàm):
·
Người như sư tử: Được cúng dường, không nhiễm trước, không có ý dục, không khởi
các tưởng, không được cúng dường thì không khởi niệm loạn, không tâm tăng giảm.
·
Người như dê: Được cúng dường thì khởi tâm nhiễm đắm, sanh tâm ái dục, không
biết đạo xuất yếu, cống cao, không được cúng dường thì sanh tâm ganh tỵ, chê bai
người được cúng (dẫn theo: Tổng quan bốn Bộ A-hàm, Sđd, tr.387).
Trên đây mới chỉ là những ghi nhận bước đầu, chắc chắn là còn thiếu nhiều, nhưng
với từng ấy cũng tạm đủ để có thể cho rằng, hình tượng dê đã có mặt nơi Phật
điển là đa dạng và sinh động.
(1)
Kinh Pháp hoa, Hòa thượng Trí Quang dịch, bản in 1994, tập 1, tr.206-208,
209.
(2)
Phần này, chúng tôi dựa theo những tóm tắt về nội dung các kinh thuộc 4 bộ A-hàm,
trong Tổng quan bốn Bộ A-hàm, Thích Nguyên Hùng biên soạn, NXB.Hồng Đức,
2012.
(3)
Xem thêm Bài viết của Nguyên Huệ (Đào Nguyên): Từ 75 pháp đến 100 pháp, Nguyệt
San Giác Ngộ số 218, tháng 5-2014.