Từ vô
thủy ta luân hồi cát bụi
Vẫn miệt
mài bám lấy cõi trần gian
Vẫn hít
thở âm thầm yêu cuộc sống
Trần
gian ơi ! Nghe cát bụi mơ màng
Mơ màng cát bụi từ thuở nào mới mở mắt
chào đời bên ghềnh biển Quy Nhơn rờn mộng ấy, thầy Đức Thắng sinh năm
1947, suốt một thời tuổi trẻ hay chạy rong chơi qua cánh đồng lúa xanh
Phổ Đồng, bồng tênh mấy nẻo đường quê hương Phước Thắng ngan ngát cỏ hoa
và thả diều tung bay trên bầu trời Tuy Phước lồng lộng bát ngát đầy trời
trăng sao in bóng mộng sông hồ. Rồi lớn lên, thường trầm tư về lẽ đời vô
thường sống chết, nên từ giã quê nhà, thao thức vào Nha Trang đi xuất
gia theo truyền thống Thiền tông Phật giáo đại thừa. Sau đó vài năm
chuyển vào Sài Gòn, tiếp tục con đường học vấn, tốt nghiệp Cao học Triết
Đông phương và Phật khoa Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975.
Tâm hồn sâu lắng lặng lẽ, thần khí thâm
trầm ẩn mật vô vi, khi viết về Thiền tông như
Buông tay hố thẳm, Thõng tay vào chợ
thì lấy tên Đại Lãn, còn lúc làm thơ như
Đường bay mây vô thường, Bụi hồng
thì lại đổi tên Phổ Đồng, dường như để nhớ miền cố xứ thân yêu, chốn
làng quê chôn nhau cắt rốn, nơi nhà thơ sinh ra ở vùng núi non Bình Định
hùng vĩ xa mù.
“Như
giấc mộng, bụi hồng cứ rong chơi mà chưa từng biết mình là thật hay là
hư, chỉ biết mình đang hiện hữu như là giấc mộng từ nguồn vô thủy đến
đời vô chung và chỉ biết nỗi buồn vui qua đi như một giấc mộng…”
Mở đầu tập thơ Bụi hồng, thi sĩ
tự giới thiệu một cách ly kỳ ẩn ngữ như thế. Phải chăng, cuộc đời là một
giấc mộng đặt lên trên một giấc mộng u uẩn trầm mê ? Thi hào Lý Bạch có
hai câu thơ nổi tiếng, hàm ý khuyên chúng ta xem cuộc sống như giấc
mộng, không nên vì lợi danh mà đấu tranh giành giật, hơn thua nhau chi
khổ nhọc, làm cho thân xác mệt mỏi rã rời : “Xem
đời như giấc mộng thôi. Làm chi
cho mệt một đời phải không ?” Kinh Kim Cang cũng dặn dò nhắc nhở
chúng ta rằng, hãy thường xuyên quán niệm, xem tất cả thế gian, vạn pháp
hữu vi đều như mộng như huyễn, như bọt nước sương rơi, như ánh chớp lóe
giữa không trung :
Hữu vi
pháp hiện trùng trùng
Như
huyễn như bọt nước tung vỡ rồi
Như ánh
chớp như sương rơi
Thường
quán như vậy nhẹ vời phiêu nhiên
Còn nhà thơ Phổ Đồng từ thuở lọt lòng ra
cho đến nay, từng đã trải nghiệm qua hơn nửa thế kỷ trên mặt đất, thì ý
thức sâu xa mình có mặt giữa trần gian cát bụi, dù đang đi đứng nói
cười, đang mở mắt nhìn thấy mọi sự nhưng vẫn là mở mắt trong chiêm bao
mộng mị mà thôi :
Ta đến
từ giấc mộng
Mây buồn
bay bơ vơ
Giọt
sương cười nắng vỡ
Ra đi về
chiêm bao
Ồ ! Ồ ! Không còn phân biệt được đây là
thực tế hay chiêm bao mộng huyễn, tuyệt nhiên lặng lẽ, lắng nghe trong
tịch mịch vô ngôn, một ý tưởng mơ hồ khởi lên từ tiền kiếp nào giữa muôn
trùng xa thẳm trên dặm ngàn tuế nguyệt mênh mang :
Từ hoa
kết mọc đá vàng
Nở tâm
rạng mặt ngỡ ngàng chiêm bao
Suốt từ
mộng mị lao xao
Đến nay
vẫn mộng truyền trao bao lần ?
Mật pháp nào, bí quyết nào đã bao lần
truyền trao nhau trong cuộc mộng phù sinh ? Thưa rằng không biết nữa.
Chỉ biết chuyện vui buồn, sướng khổ, thành bại … trong cõi trăm năm thấm
đẫm giọt lệ sầu. Những cơn gió nghìn năm thổi về se sắt lặng đìu hiu
cóng buốt lạnh thấu cỗi nguồn hiu hắt hoang liêu. Thôi thì bóng ngã tà
dương, mộng trong cuộc mộng lên đường trầm ngâm :
Trăm năm
thành bại vui buồn
Nghìn
năm mưa gió xô nguồn tịch liêu
Ngày tàn
bóng hiện đìu hiu
Thoảng
trong nỗi nhớ thiên thu phận mình
Ra đi gợi nhớ tự tình
Thuyền không bến đậu lênh đênh nẻo về
Bơ vơ
bến mộng bờ mê
Chơi vơi ẩn hiện bốn bề mênh mông
Mông mênh thiên địa giữa càn khôn vũ trụ
bao la, nhà thơ cảm thấy bơ vơ lạc lõng, trôi dạt theo bờ mê bến mộng,
bồng bềnh heo hút cuối truông ngàn vạn dặm lênh đênh nên trằn trọc băn
khoăn tự hỏi thầm trong dạ :
Ta tự
hỏi thời gian thành con rối
Ngày qua
rồi sao cắt nghĩa hôm nay
Mai mốt
đó chưa bao giờ lầm lỗi
Có hay
không như giấc mộng đêm ngày ?
Ngày đêm, sáng tối nối tiếp nhau trôi qua
chập chùng man thiên huyễn mộng. Ngày đi tháng đi năm đi và đời mình rồi
cũng sẽ đi qua trong thoáng chốc mong manh hư ảo vô thường. Thời gian cứ
miên man trôi chảy bềnh bồng không mục đích, để cho thi sĩ chạnh lòng
xao xuyến nỗi đời du mục hoang lương :
Có không
huyễn tướng vô thường
Xem ra
hư thật sao lường được đây ?
Triều
dâng sương đợi nguyệt đầy
Dấu chân
du mục nhớ ngày nguyên sơ
Chân hay vọng, không hay có, thật hay hư,
còn hay mất… là những nghi vấn muôn đời của những tâm hồn khát khao đi
tìm tuyệt đối và nhà thơ Phổ Đồng cũng không ngừng thao thức, trăn trở
trên cuộc lữ đăng trình giữa hoang vắng tịch liêu với bao điều suy gẫm
đăm chiêu :
Chiều
buông vó ngựa chơi vơi
Dặm
trường sương khói vàng rơi cuối đường
Đìu hiu
quán trọ câu vương
Nghìn
năm mây trắng mù sương gót hài
Đêm tàn
ráng đỏ ban mai
Giật
mình ngỡ bóng chiều phai bên thềm
Giữa muôn trùng cô lữ thi ca qua ngút
ngàn khói sương ướt đẫm trầm tư, dụng công miên mật từ sớm tinh sương
thường tịch chiếu đến chiều tà phủ trùm bóng tối trong hố thẳm tâm linh.
Rồi một hôm nọ, tình cờ dừng gót nghỉ ngơi bên quán trọ tiêu điều cạnh
dốc núi ven rừng, thi nhân bỗng giật mình sửng sốt bàng hoàng, hốt nhiên
trực ngộ một điều chi, khi nghe Tiếng
hét của Lâm Tế :
Giật
mình mộng vỡ tràn lan
Khối
nghi triền kiếp cưu mang bao giờ ?
Ô hay sự
thể nào ngờ
Xưa nay
đây đó bây giờ ở đâu ?
Tiếng hét sấm sét của thiền sư gây chấn
động kinh hồn làm bùng vỡ khối nghi sinh tử, thấy ra lẽ thật xưa nay vô
thủy vô chung. Có lẽ thi nhân trong một phút giây hy hữu đã trực nhận,
thấu triệt chuyện tử sinh vốn chưa từng sinh diệt, vốn không sống, không
chết, không đến không đi như thiền sư Lâm Tế đã từng thấy :
“Chánh kiến là thấy được các tướng
không đến không đi, không sinh không diệt của các hiện tượng xuất thế,
thành đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết bàn của Phật. Chánh kiến là
thấy được tường tận tướng Không của các pháp, rằng không pháp nào có
thật, khi quý vị đi vào pháp giới vô sinh, rong chơi trong các quốc độ
và đi vào pháp giới Hoa tạng. Chánh kiến là thấy rằng chính cái con
người không cần chỗ nương tựa đang nghe pháp kia chính là Phật vì tất cả
Phật đều do chỗ không nương tựa mà phát sinh….”* Một khi tự tri,
tự có chánh kiến, thấy được tướng Không, tánh Không, thực tướng vô tướng
của vạn pháp vô sinh, bất diệt thì tự nhiên giải thoát, an tịnh. Sinh
diệt đã không thì đến đi còn có chỗ nào nữa chớ ? Đó chẳng qua là khí âm
dương chuyển hóa hòa hợp, ngưng tụ tạo thành hình dáng mà con người sinh
ra như một biểu hiện thuần nhiên :
Bụi hồng mang hạt vô biên
Từ cha
yêu mẹ nỗi niềm gởi trao
Nắng vàng nâng cánh phượng chao
Hai mươi năm ấy biết bao đổi dời
Ơi chao ! Ồ thì ra là như thế. Cái thân
tứ đại này do nhiều nhân duyên giả huyễn kết hợp tạo thành, tạm thời
hiện hữu cũng có vui có buồn, có sướng có khổ, có được có mất… nhưng bản
chất, thật tánh vốn là Không, thế thôi :
Duyên đầy duyên thiếu hợp vơi
Hiện tiền hiện khởi tuyệt vời tánh
Không
Giờ còn hiển hiện trang không
Đầu tiên ngôn ngữ cuối cùng tái sinh
Bản chất của con người chúng ta và muôn
nghìn sự vật chung quanh vốn là do nhiều nhân duyên hợp lại tạo thành,
nên chúng không có thực thể nhất định, chẳng có hiện hữu thực, tuyệt
nhiên không có một thực tại có thể nắm bắt được, vì thế gọi là tánh
Không. Đi sâu vào duyên sanh, chúng ta bắt gặp tánh Không như thiền sư
Long Thọ nói :
Chưa
từng có một pháp
Không từ
nhân duyên sanh
Thế nên
tất cả pháp
Đều ngọn
nguồn tánh Không
Tánh Không lồng lộng như hư không mông
mênh chẳng ngằn mé, tuy nhiên vẫn biểu hiện thiên hình vạn trạng qua
nguyên lý duyên sinh. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa tuyên bố :
Vạn pháp
từ xưa đến nay
Tướng
thường tịch diệt đủ đầy tâm tư
Pháp nào
yên pháp nấy từ
Thế gian
tướng thường trụ như nhiên rồi
Từ vô thủy đến vô chung giữa trùng trùng
vô tận thời gian và không gian, tất cả vạn hữu như càn khôn vũ trụ, mặt
trời, mặt trăng, mặt đất, con người, con vật, nói chung muôn loài thực
vật, động vật, thập loại chúng sinh đang sinh hoạt ngày đêm trên khắp
hoàn cầu, hết thảy đều do chập chùng nhân duyên cấu tạo nên cả. Đương
nhiên mọi sự ấy không có một tự tánh nào riêng biệt, cho nên gọi là tánh
Không. Vì thế, muôn vàn vạn hữu ấy cũng là một cách biểu hiện, là hiện
tướng tịch diệt Niết bàn, vốn “không
sinh không diệt, chẳng đến chẳng đi” trong bầu trời thênh thang
tâm thức tự tại tự do. Pháp nào thì an trụ ngay pháp đó, như nụ cười là
một pháp, giọt lệ là một pháp, tánh thương là một pháp, tánh giận là một
pháp cho đến cỏ cây, mây gió, trăng sao, sông núi, vui buồn, sướng khổ,
phiền não, bồ đề, quỷ ma, thần thánh, địa ngục, niết bàn… đều là
“thị pháp trụ pháp vị” như như
cả, đều có thể rỗng rang qua lại giữa lòng tánh Không lồng lộng.
Bấy giờ, tướng thế gian vô thường, sinh diệt không còn tác động nữa, vì
đã kiến chiếu, thể nhập Chơn Không Diệu Hữu ngay trước mắt sáng bừng.
Thực ra, tánh Không chẳng phải là không
có gì cả mà là một khái niệm chỉ cái trạng thái không có những vọng
tưởng thấy biết sai lầm về thực tại hiện tiền. Biết rõ tường tận tất cả
vạn pháp, muôn loài vạn vật trong vũ trụ đều không có tự tánh riêng biệt
mà chỉ do nhiều nhân duyen giả hợp tạo thành. Cho nên tánh Không thường
nhiên, tuy vô hình mà vẫn muôn chiều diệu dụng giữa thực tại chân thường
luôn luôn hỷ lạc, an tịnh vĩnh hằng :
Trăng nằm chết giữa muôn thu
Người nằm chết giữa mối sầu thiên di
Ô hay ! Sự việc diệu kỳ
Cho chân thường hiện giữa nơi vô thường
Khi lãnh hội được điều cực kỳ vi diệu đó,
là ngay nơi vô thường sinh diệt này vốn hiện hữu chân thường bất diệt vô
vi, thi nhân mỉm cười an nhiên biết mình có mặt nơi đây như là hạt
Bụi hồng tinh khôi nên tha hồ
thư thả vờn bay theo áng phù vân trong nắng sớm, tung lướt ngàn sương
nghi ngút giữa trùng dương hoang đảo lúc chiều tà, hòa điệu vào cuộc lữ
du sĩ ca :
Ta từ hạt bụi rong chơi
Lang thang khắp chốn luân hồi bước chân
Ra đi sớm nắng phù vân
Tối về hạt nắng sương ngàn trùng khơi
Mỏi mòn hạt bụi bên trời
Nhịp chân rong ruổi gót bời dặm xa
Bóng đời mấy dạo sương sa
Buồn vui mắt gợn bóng tà huy rung
Bước phiêu bồng phiêu diêu lãng đãng,
chiêm ngưỡng mười phương tám hướng qua cái nhìn thấu thị chiêm bao, thấy
tâm cảnh trùng trùng vạn pháp đều như như bất động ra vào :
Vô thường gió thoảng chao cánh bướm
Động cả chân thường cõi tịnh không
Người ơi ! Cảnh động hay tâm động
Mà cả trời thơ chợt vỡ tung ?
Cảnh động hay tâm động, làm gợi nhớ lúc
Lục tổ Huệ Năng tình cờ nghe hai vị sư tranh cãi nhau về lá phướn trước
sân chùa. Người này thì cho là lá phướn lay động, người kia thì nói là
do gió thổi làm cho phướn đông. Lục tổ bước tới bảo :
“Không phải gió động hay phướn động mà
chính do tâm các ông động đó thôi.” Hai vị sư liền ồ lên một
tiếng, giật mình hiểu ra. Nhà thơ cũng bùng vỡ cả trời thơ đất mộng giữa
thực tại trinh tuyền, hiển lộ cái đang là tịch nhiên rỗng lặng, ngắm
nhìn bất cứ sự đời hay cảnh vật gì gì cũng thấy mới mẻ ngạc nhiên. Ngạc
nhiên sững sờ trước vẻ đẹp huy hoàng tráng lệ, rực ngời tinh khôi mới lạ
của từng ngọn cỏ lá cây, từng giọt mưa vệt nắng bên hè. Nghe nhẹ nhàng
thanh thản an nhiên, chẳng bận tâm chi khi nhận biết toàn diện ngay
trong mỗi sát na rào rạt chan hòa :
Đếm từng
phút qua từng giây mới lạ
Ngạc nhiên đầu cũng là ngạc nhiên sau
Vì biến dịch nên vô thường sắc lá
Cho tim ta luôn mới nhận hương màu
Phần đông người đời thế gian, hạng phàm
phu tục tử như chúng ta, khi nói đến chuyện vô thường, biến dịch đều sợ
hãi, kinh hoàng nhưng đối với các thiền sư thi sĩ thì chính nhờ sự biến
dịch, vô thường kia mà cuộc sống mới sinh động rạt rào, mới cao hứng
bừng reo cung cầm hấp dẫn, cây lá mới trổ lộc đơm chồi và cuộc đời mới
rạo rực máu tim trong niềm hân hoan nghe và thấy :
Niềm vui còn một chút này
Dâng người ở lại từ rày về sau
Đó là niềm vui óng ánh thanh thoát, nhập
cảnh giới hoan hỷ địa, thưởng thức được hương vị cô liêu phiêu dật, rất
đỗi bồng tênh trên cách điệu phong quang phóng khoáng. Thi nhân lang
thang giữa phù trần mà chưa từng vướng nhiễm, không hề dính mắc, chẳng
dừng trú, nương tựa vào bất cứ đâu, vẫn thung dung từng giây khắc lặng
im xuất cốt nhập thần :
Thong dong rất mực vô ngần
Hố sâu không đáy lại gần đỉnh xưa
Suối nguồn sự thể đong đưa
Lòng như gái đá tắm mưa giữa trời
Mốt mai lòng chảy qua đời
Nước xuôi mặc nước mưa trời dính ai ?
Bình sinh lịch kiếp nào phai
Sắc không hóa hiện Như Lai hiện tiền
Như Lai là tự tánh tự tâm, thường xuyên
hiện hữu ở ngay thực tại hiện tiền, ngay trong sâu thẳm tâm linh mình
đây thôi. Hãy nhận lấy cái mặt mũi xưa nay vốn sẵn có tự bao giờ, từ
muôn thuở muôn nơi và thường xuyên hiện hữu ngay trong từng hơi thở nhẹ
nhõm vào ra hài hòa :
Ta hít thở cõi thiên thu phía trước
Và phía sau nhịp đập tới hồng hoang
Con bướm nhỏ quạt cánh mềm từng bước
Dội hư vô nghe sóng dậy trong lòng
Ngày mới mở đang từng giây phút sáng
Tháng năm rồi thôi có nghĩa gì đâu
Người huyễn tưởng đôi mép bờ xa cuối
Nào ngờ đâu chỉ chớp nhoáng ban đầu
Từ buổi hồng hoang sơ thủy tới vĩnh hằng
miên viễn muôn sau vẫn nhịp thở trung dung cùng thực tại hiện tiền, một
cách toàn vẹn như nhiên. Trở về nhập cuộc với muôn loài vạn vật, với
nguồn sống vô cùng vô tận ở trong ta và ở ngoài ta. Trở về để hòa cùng
ánh sáng, trộn lẫn cùng cát bụi như một con người hết sức bình thường mà
rộng lượng yêu thương dạt dào vô điều kiện. Dẫu đời có hư huyễn phù du
thì vẫn thương yêu trìu mến. Xem mọi sự ở đời như một trò hý lộng, một
cuộc rỡn đùa tiêu sái đại hòa điệu chơi :
Phù du thương một cõi đời
Gió lay ngọn sóng vàng soi bọt tàn
Nguồn xuôi cuối bãi điêu tàn
Biển dâu hiu hắt vọng vang bóng chiều
Dù cho hiu hắt biển dâu, dù cho bọt bèo
tan vỡ, dù cho phù du mộng tàn thì thi nhân vẫn yêu bóng chiều tà vạn
niên thiên cổ tàn xiêu, vẫn tấu khúc nghêu ngao hát giữa long lanh sương
khói lấp lánh thanh tân, vì đã thấu thị lẽ bất sinh bất diệt, đã nhận
biết tận tường chuyện phiền não tức bồ đề, phù du tức vĩnh cửu rồi, nên
mở rộng lòng chấp nhận tất cả mọi sự được mất, sinh diệt, đến đi... với
một nụ cười như thị, tự tại tự do giữa đời sống thường nhật :
Sống hay chết không có gì phải bận
Khổ hay vui một thoáng hiện qua thôi
Vì duyên sống không gì không chấp nhận
Nên rốt cùng tự tại hiện trong ta
Tự tại
hỡi ! Hãy chờ ta một chút
Vội vàng chi ta dọn dẹp tự do
Đã đến lúc chuyện đời rơi hun hút
Nắng vàng hong sương nặng hạt nào ngờ
Ta hít thở với hương ngàn gió mới
Chạm từng giây như chợt sống bây giờ
Bây giờ và ở đây thôi mới thực sự tự do
tự tại, vì thi nhân biết chấp nhận tất cả mâu thuẫn, thuận nghịch của
toàn thể cuộc đời, bởi đã thấy muôn pháp đều vô vi mà bình đẳng nhau
trong pháp giới vô ngại, nhất như. Sự sự viên dung trong tự tánh thanh
tịnh của chính mình. Một lần nhận diện là nghìn năm thấu suốt ruột rà
giữa mặt đất mở phơi :
Tử sinh bước một hai đời
Đầu truông cuối nẻo gọi mời lãng du
Thì thôi cũng mặc phù hư
Nhìn mây lãng đãng sa mù vây quanh
Hồi đầu bóng hiện tinh anh
Một lần nhận diện để thành thiên thu
Hồi đầu thị ngạn, quay đầu là đến bến bờ.
Bến mê hay bờ giác đều huyền đồng nơi nội tâm trầm hậu, ngay trong lòng
Phật tánh xanh biếc nguyên trinh của chính mình :
Vô thấy Phật ra thấy mình
Theo
nhau triền kiếp mà thành xa nhau
Bây giờ đã tỏ mặt nhau
Chén trà sen ướp mời nhau một lần
Một lần kỳ ngộ là thiên thu vĩnh cửu. Mời
Phật chính là mời mình một chén trà như thị như nhiên. Từ chiêm nghiệm
Bụi hồng của tự thân mà thi sĩ
chợt bừng ngộ ra tự tánh vô tiền khoáng hậu, nên cúi hồn trân trọng kính
chào vô hạn, tri ân vô vàn vạn đại thiết tha :
Ta xin chào tất cả
Hạt bụi của ta ơi !
Nghìn năm bay lãng đãng
Trăm năm
hết một đời
Vô thường lay bóng xế
Cô đơn
lay phận buồn
Nay ta lay giấc mộng
Mộng thật trả về không
Lần đầu như lần cuối
Bước lãng du không cùng
Thiên thu mơ còn đọng
Bên thềm hạt bụi rơi
Thế là cuộc phiêu bồng ngoạn mục của
hạt Bụi hồng từ giấc mộng đến
thực tại tự tri, thi nhân đã thông suốt một đời người, một kiếp nhân
sinh trong một hơi thở. Một hơi thở chứa đựng cả vô lượng vô biên. Đó là
điệu thở thiêng liêng, huyền hòa với trời đất, nhật nguyệt uyên thâm.
Nhập vào cái trật tự tự nhiên, không thủy không chung của pháp giới diễm
tuyệt nguyên xuân rực rỡ muôn đời :
Hỏi trời đất trả rằng ơi !
Tận nguồn vô thủy cuối trời vô chung
Quê nhà chỉ một bước chung
Đến đi mất dấu nghìn trùng nguyên xuân
Bừng hiện lên, hiển lộ ra giữa con đường
sương khói, một phương trời cao rộng liễu tri, thi sĩ Phổ Đồng đã bồng
tênh trên những lượn sóng ba đào ảo dị chiêm bao mộng huyễn, nhập diệu
tâm chứng vào thực tại đang là và khai mở một lối đi riêng biệt tuyệt mỹ
dị thường. Thi nhân đã thấy nguyên xuân bừng sáng ngời ngời, nên thong
dong Thõng tay vào chợ** rong
chơi suốt bốn mùa mưa nắng, trộn lẫn cùng gió trăng phiêu phưỡng sương
khói tuyệt trần :
Bao
nhiêu năm cõng Phật
Tử sinh
đường tìm dài
Hôm nay
ta quẵn Phật
Lưng
không thõng tay về
Cõng Phật rồi quẵn Phật là một quá trình
gần 70 năm trời đằng đẵng, trải qua quá nhiều khúc khuỷu nhiêu khê, để
về lại với chính mình. Trở về với tự tánh thanh tịnh, khi nghe thiền sư
Lâm Tế khai thị : “Chân Phật là gì ?
Chân Pháp là gì ? Chân Đạo là gì ? Phật thật là sự thanh tịnh của tâm
mình, Pháp thật là ánh sáng của thân mình, Đạo thật là ánh sáng thanh
tịnh chiếu soi khắp chốn. Ba cái vốn là một, đều là giả danh, không thật
có. Người học đạo chân chính thì phải duy trì chánh niệm về ba đối tượng
ấy một cách miên mật… Nếu quý vị đạt tới tính vô sinh của vạn pháp, biết
rằng tâm là huyễn hóa, thật ra không có một đối tượng nào, một hiện
tượng nào có thật. Bất cứ đâu cũng là thanh tịnh thì đó là Phật rồi.
Này chư
vị ! Người hành giả chân chính thì không nắm bắt Phật, nắm bắt Bồ tát,
tuyệt nhiên không nắm bắt những cái gì gọi là tốt đẹp nhất trong ba cõi.
Người ấy một mình thong dong, không bị sự vật nào câu thúc. Dù trời đất
có đảo ngược, tôi cũng không bị một chút nghi hoặc nào làm cho ngăn
ngại. Dù cho chư Phật mười phương có xuất hiện trước mắt thì tôi cũng
không khởi một niệm vui mừng. Dù cho địa ngục và ba đường dữ xuất hiện
trước mặt thì tôi cũng không khởi một niệm sợ hãi. Bởi tôi đã thấy được
tướng không của các pháp. Khi biểu hiện gọi là có, lúc chưa biểu hiện
gọi là không, ba cõi đều do tâm, vạn pháp đều do thức. Cũng vì vậy cho
nên tất cả đều là mộng huyễn, đều là hoa đốm giữa hư không. Tại sao ta
phải chạy tìm kiếm, nắm bắt chi cho thêm mệt nhọc ?”*
Khi
thấy rõ tận tường tất cả vạn pháp đều là hoa đốm giữa hư không thì thong
dong, rỗng rang vô ngại, nhẹ nhàng niêm hoa vi tiếu về lại với thực chất
nguyên sơ của chính mình, tùy thuận chúng sinh giữa mưa chiều nắng sớm,
thấy trời xanh mây trắng trăng sao đẹp diễm tuyệt huyền hòa :
Như hoa
đốm hạt nắng vàng ảo hóa
Giọt
mong manh từng giọt đẹp vô ngần
Theo
duyên hiện hóa thân vào vô tận
Duyên
trùng trùng cho đến mãi vô chung
Vô thủy vô chung là “vô
sở tòng lai diệt vô sở khứ” là không từ đâu đến và cũng chẳng đi
về đâu. Có về chăng là về ngay “đương
xứ tức chân” ngay ở đây bây giờ, trên cách điệu phiêu nhiên nhẹ
vờn đơn sơ giản dị, vì ở đâu cũng là diệu dụng, cũng là cõi miền cố quận
chốn quê :
Rỗng rang một cõi đi về
Đến đi mất lối đường về Chân không
Ngược dòng sóng vỗ đầu non
Chim non bỏ tổ ngọn nguồn bay xa
Đường về nào biết gần xa
Hiện thân một cõi quê nhà mây bay
Hòa cùng mây bay nước chảy sương trôi,
người thi sĩ thượng thừa bồng tênh nhẹ mỉm cười
Buông yay hố thẳm*** nhảy tung
xuống vực sâu không đáy :
Hãy sống
tận lòng cõi chết
Buông
tay ! Buông tay !
Như đóa
hoa dại
Đang nở
ra giữa hố thẳm
Tận cùng
của tự do là giải thoát
Tận cùng
của giải thoát là buông tay
Và ngược
lại
Mọi việc
đều an bình trong hơi thở
Trên con đường mây trắng thênh thang đó,
qua từng nhịp thở bình yên đây, tôi đã gặp thi nhân nhiều lần giữa phong
trần cuộc lữ, nơi các chùa An Linh và Già Lam ở Sài Gòn. Chùa An Linh ở
quận 12 nằm yên tĩnh tịch mịch gần nhánh sông Vàm Thuật, do thầy Huệ
Thành là em ruột nhà thơ làm trụ trì. Đó là nơi chốn còn sót lại chút
màu xanh thơ mộng giữa đời sống đông đúc ồn ào, náo nhiệt thành đô, phố
thị và cũng là nơi tôi hay quay về lưu trú sau những tháng ngày du mục,
rong ruổi bụi đường xa. Rót chén trà thi ca mà cảm nhận biết bao niềm
hân hoan an lạc, khi được đối ẩm cùng thi sĩ. Chẳng biết nhà thơ Phổ
Đồng có còn nhớ bài thơ mà lang thang sĩ này đã đọc tặng bên góc hiên
chùa Già Lam thuở nọ, vào một buổi chiều phiêu lãng cuối năm nào đó xa
lắc hay không ? Thôi bây chừ cũng gần cuối năm nữa rồi, xin đọc lại cho
vui nghe thiền sư thi sĩ :
Sớm chiều qua phố bụi
hồng
Vàng xanh đủ thứ vốn không có gì
Vì đi chỉ để mà đi
Đến đâu cũng thế thuận tùy hỷ thôi
Ngay trong đi đứng nằm ngồi
Bình thường nước chảy mây trôi gió lùa
Chuyện đời hết nắng thì mưa
Chưa hề bận rộn bốn mùa thanh lương
Như đường
bay mây vô thường
Chẳng nơi chốn đến nên tương ứng cùng
Thõng
tay vào chợ hòa chung
Thánh phàm mê ngộ đều trùng phùng nhau
Tâm Nhiên
* Lâm Tế
ngữ lục, Người vô sự. Nhất Hạnh bình giảng. Lá Bối xuất bản 2000
** Đại
Lãn. Thõng tay vào chợ. Phương Đông xuất bản 2009
*** Đại
Lãn. Buông tay hố thẳm ( Bản thảo )
Thơ
Phổ Đồng ( chữ nghiêng ) trích trong thi phẩm :
Bụi
hồng. Phương Đông xuất bản 2009
.