Minh
Thạnh
BỐI CẢNH NHỮNG CỐNG HIẾN CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH MINH KIẾN
Viết
về thầy tôi và những đóng góp của ông cho Phật giáo Việt Nam với vai trò
Phó Tổng Thư ký Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất
trong giai đoạn hết sức đặc biệt 1977-1981 thì không thể không đề cập
đến Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất giai đoạn này, một việc rất
tế nhị, khó khăn. Tôi không tán thành nhiều quan điểm, chủ trương của
nhiều nhà lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, tất yếu sẽ có
những đánh giá, bình luận không thể tốt về Giáo hội này. Chắc chắn điều
đó không làm một số bạn đọc hài lòng và có thể có những ý kiến chỉ trích.
Nhưng đây là những nhìn nhận chủ quan của riêng tôi, điều tôi vẫn nhắc
đi nhắc lại suốt loạt bài viết về thầy tôi, Thích Minh Kiến. Ý kiến chủ
quan của tự mỗi người thì luôn có sự khác biệt. Tôi cố gắng trình bày có
tính thuyết phục về những cơ sở dẫn đến những ý kiến đó và trình bày như
những tư liệu có thể tham khảo. Bạn đọc có thể cho rằng nó đúng hoặc
không đúng, nhưng điều mong mỏi là nó có những giá trị tham khảo nhất
định khi tìm hiểu về một nhà lãnh đạo Phật giáo, và qua đó tìm hiểu về
Phật giáo Việt Nam thời kỳ liên hệ.
Cũng
xin nhấn mạnh rằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất chỉ được đề
cập đến như một bối cảnh, môi trường, mà ở đó, thầy tôi đã cống hiến cho
Phật giáo Việt Nam. Mục tiêu của tôi được xác định không phải nhằm vào
việc viết về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.
CHÙA ẤN QUANG VÀ GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
Trước năm 1980, tôi ít quan tâm đến Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
Nhất, chỉ biết sơ lược qua sách vở, nhưng không lưu ý nhiều. Đến khi tôi
quyết định cố gắng tác động đến thầy tôi, tôi mới tìm hiểu nhiều về giáo
hội, mà phần lớn kết quả sẽ được trình bày trong loạt bài viết này.
Tôi
đi chùa từ nhỏ, nhưng tất nhiên tôi không thể có ý niệm gì về giáo hội
Phật giáo. Đến khi bà ngoại tôi không dẫn tôi đi chùa Ấn Quang nữa sau
cuộc “hành quân” tái chiếm Việt Nam Quốc Tự do Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống Nhất phái Ấn Quang tổ chức, có gây chết người. Khi được bà tôi
giải thích lý do không đi chùa Ấn Quang, ý niệm về Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống Nhất ở tôi mới bắt đầu hình thành, trong sự nặng nề và u
ám của sự chia rẽ, xung đột đến mức đổ máu, một ấn tượng khởi đầu rất
xấu.
Trong khi đó, cậu tôi, một người cải đạo sang Thông Thiên học, cấm bà
tôi dẫn tôi đi chùa Ấn Quang, vì nói rằng ở chùa đó toàn “thầy chùa lửa”,
“thầy chùa cọp” làm chính trị.
Tuy
vậy, năm 1973, tôi vẫn được gia đình đưa đến quy y tại chùa Ấn Quang,
với vị hòa thượng mà gia đình tôi hết sức tôn kính là Hòa thượng Thích
Thiện Hòa. Tôi còn nhớ phái quy y của tôi khổ to in màu đỏ, chỉ ghi nội
dung tam quy, khác với phái của mẹ tôi có ghi thêm ngũ giới in chữ màu
xanh lá. Tôi được đặt pháp danh Minh Thạnh, bên trên tờ phái có ghi dòng
chữ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.
Tôi
biết được một cách rõ ràng, cụ thể về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
Nhất từ lúc này.
Trở
lại chùa Ấn Quang quy y, tôi rất vui sướng, thích thú, muốn được đi chùa
Ấn Quang thường xuyên, vì chùa rộng rãi, có sân lớn, không khí sinh động
hơn chùa Từ Nghiêm, nhưng bà tôi từ chối với lý do xa nhà, đi chùa Từ
Nghiêm được rồi, chùa nào cũng là chùa. Nhưng tôi biết bà ngoại tôi vẫn
còn buồn vì chuyện chia rẽ Việt Nam Quốc Tự/Ấn Quang đến nỗi gây thiệt
hại nhân mạng.
Nguyện vọng đi chùa Ấn Quang bị từ chối càng khắc sâu hơn ý niệm không
hay của tôi về Giáo hội. Việc bà tôi vừa muốn gia đình mình là đệ tử
chùa Ấn Quang vừa từ khước đi chùa Ấn Quang cho thấy mâu thuẫn nơi bà
tôi về giáo hội. Mâu thuẫn này được truyền qua tôi mà về sau xen kẽ
trong tôi vừa là sự chấp nhận Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn
Quang, lại vừa là không phục, không tán thành. Mâu thuẫn đó như đã nói
trong phần trước, cũng có và dường như là khá nặng nề ở thầy Thích Minh
Kiến.
Khái
niệm về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất của tôi đã trở nên rõ
ràng trong sự kiện 1977 (về sự kiện này sẽ đề cập chi tiết hơn về sau
nếu có dịp). Nhà tôi ở ngay dưới loa phóng thanh của phường. Trong nhiều
ngày sau khi xảy ra tình huống cao điểm, loa phóng thanh liên tục phát
thông báo của Ủy ban Nhân dân Thành phố giải thích về sự việc cũng như
kêu gọi Phật tử, từ sáng đến tối, thay vì phát thanh theo giờ hàng ngày.
Cụm từ “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất phái Ấn Quang” được lặp
đi lặp lại trong lời lẽ rất căng thẳng, quyết liệt và nghiêm trọng của
thông báo, gieo vào lòng tôi sự sợ hãi. Ấn tượng về Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống Nhất sâu đậm hơn nữa trong tôi với sự kiện này. Từ đó,
tôi bắt đầu lưu ý nhiều hơn về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.
Những năm cuối cấp 2, tôi có một người bạn gia đình Thiên Chúa giáo
người Bắc di cư khu ông Tạ. Nhà người bạn này có rất nhiều sách Thiên
chúa giáo và anh rất muốn tôi đọc, sẵn lòng cho mượn. Tôi rất thích đọc
sách, nhưng lúc đó sách báo rất hiếm, nên được mượn hàng chồng sách báo
về nhà tôi đọc ngấu nghiến. Lần đầu tiên tôi biết đến cải đạo khi đọc
quyển sách dường như có tựa đề “Đi
về đâu?” của một tác giả linh mục không nhớ tên. Quyển sách phê
phán khá nặng Phật giáo, hướng người đọc chọn theo đạo Công giáo. Anh
bạn cho mượn sách lớn hơn tôi một chút, rất ngoan đạo. Như những tín đồ
tôn giáo, anh biết vững về giáo lý và tổ chức giáo hội Thiên chúa giáo.
Ý
niệm về cải đạo mà anh này hình thành nơi tôi trực tiếp cũng như qua
sách vở sau này là một nội dung quan trọng trong tác động của tôi đến
thầy tôi.
Là
Phật tử, nhưng lúc đó, tôi đọc sách Thiên chúa giáo nhiều hơn sách Phật
giáo. Tôi cũng thấy điều đó là không bình thường, nên cố tìm mượn sách
Phật giáo để đọc. Rất may, mẹ một người bạn khác gần nhà tôi, sau khi
cho tôi mượn lần lượt các quyển trong bộ sách Phật học Phổ thông tác giả
Hòa thượng Thích Thiện Hoa, cũng như kiểm tra kiến thức của tôi sau khi
đọc, cho là tôi có “căn tu”, đã cố gắng đưa tôi tham gia tu học theo đạo
tràng Pháp Hoa, do Thượng tọa Trí Quảng lúc ấy tổ chức hàng tuần từ sáng
đến chiều ngày chủ nhật tại chùa Ấn Quang.
Sau
thời gian đầu được dẫn đi, tôi đã tự mình đến chùa Ấn Quang hàng tuần.
Trong khóa tu, mỗi buổi chiều chủ nhật tôi được nghe thuyết pháp, rồi
tiến tới đi tụng kinh vào những buổi tối rãnh rỗi. Từ năm 1978, tôi trở
thành Phật tử thuần thành chùa Ấn Quang. Nhưng tuy trong chúng La Hầu La
của thầy Thích Trí Quảng, tôi lại được thầy Thích Minh Kiến cho mượn
sách Phật đọc và tận tình dạy dỗ. Trong quá trình nghe thuyết pháp, tôi
lại quy ngưỡng Phật giáo Nguyên thủy, đặc biệt là từ tác phẩm “Đức
Phật và Phật pháp” của ngài Narada, tôi xin thọ ngũ giới với vị
giảng sư Phật giáo Nguyên thủy mà tôi rất thán phục là Thượng tọa Thích
Hộ Giác.
Có
duyên được thọ học với nhiều vị tôn đức như thế, nhưng tôi chỉ gần gũi
nhiều với thầy Thích Minh Kiến, và chỉ thầy thương tôi nhất. Đến với
thầy Minh Kiến thường xuyên, dù không chủ ý, nhưng do thầy Thích Minh
Kiến là Phó Tổng thư ký Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
Nhất, tôi biết nhiều về việc giáo hội, và qua thầy chứng kiến những sự
kiện quan trọng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất trong thời
điểm đặc biệt này, những sự kiện gắn chặt với những đóng góp của thầy
tôi cho Phật giáo Việt Nam.
Để
hiểu kỹ hơn về bối cảnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, có phải
trở về từ Đại hội kỳ VII năm 1977 hay xa hơn, từ năm 1975.
Có
hiểu kỹ về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất trong thời kỳ này mới
hiểu về những đóng góp của thầy tôi. Những điều tôi ghi nhận dưới đây
không phải là suy nghĩ vào thời điểm đó, mà được rút ra dần trong suốt
thời gian từ đó đến nay. Đó là những điều mà tôi không thể không nghĩ
đến khi nghĩ về công sức của thầy tôi.
Thầy
tôi không được suy cử vào Ban chỉ đạo Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống Nhất trong Đại hội kỳ 7, những đóng góp thầy cho Phật
giáo Việt Nam gắn chặt với bối cảnh mở ra từ đại hội này, với nhiều điều
mà tôi cho là sai lầm, hết sức sai lầm. Đại đức Thích Minh Kiến lúc đó
khi nhận chức vụ Phó Tổng thư ký Viện Hóa đạo, phải giải quyết những vấn
đề phát sinh từ những sai lầm của Đại hội kỳ VII Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống Nhất.
SAI LẦM TỪ ĐẠI HỘI KỲ VII GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
Khi
đại hội kỳ VII Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất diễn ra, tôi chưa
đi chùa Ấn Quang, cũng không có nhiều tài liệu. Suy nghĩ của tôi rút ra
từ thông tin tìm hiểu qua thầy tôi, cũng như một vài tài liệu ít ỏi, mà
thông tin đã mờ nhạt một phần trong ký ức.
Tôi
không có danh sách chi tiết các vị lãnh đạo Phật giáo suy cử trong đại
hội kỳ VII Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, chỉ nhớ nhân sự qua
các cuộc họp Viện trưởng Viện Hóa đạo là Hòa thượng Thích Trí Thủ, các
Phó Viện trưởng là Thượng tọa Huyền Quang (đệ nhất Phó Viện trưởng), Hòa
thượng Thích Trí Tịnh, Hòa thượng Thích Pháp Tri (đại diện cho Phật giáo
Nguyên thủy). Tổng Thư ký: Thượng tọa Thích Quảng Độ, Tổng thủ bổn:
Thượng tọa Thích Từ Nhơn. Các vị Tổng vụ trưởng là Thượng tọa Thích Minh
Châu, Thượng tọa Thích Hộ Giác, Thượng tọa Thích Thuyền Ấn, Thượng tọa
Trí Quảng… Riêng về 2 vị Hòa thượng Thích Hành Trụ, dường như phụ trách
tăng sự, Hòa thượng Thích Thiện Tường phụ trách Kiến thiết, thì tôi
không nhớ chắc chắn lắm. Mỗi lần Ban chỉ đạo Viện Hóa đạo họp, ít khi có
mặt đông đủ túc số, việc vắng mặt càng nhiều hơn trong thời gian về sau.
Về
mặt lý luận, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất chưa đạt đến tầm mức
xây dựng văn kiện thông qua tại các kỳ đại hội. Đó là khó khăn mà thầy
tôi gặp phải khi đảm nhận công việc Phó Tổng Thư ký Viện Hóa đạo. Hồi
ấy, hỏi thầy Đại hội Giáo hội có thông qua văn kiện chỉ đạo gì thì thầy
chỉ lắc đầu. Lúc đó tôi nghĩ là thầy cố ý không nói. Dần dần, qua sự khó
xử của thầy, tôi mới biết các đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
Nhất không có thông qua văn kiện gì về lý luận, phương hướng, đường lối,
chủ trương cụ thể. Dường như chỉ có việc quyết định nhân sự và chấp nhận
các việc quan trọng ghi biên bản. Tôi cho rằng văn kiện chỉ là biên bản
vì tôi thấy thầy tôi là người lập biên bản các cuộc họp, không có việc
soạn thảo văn kiện mà bây giờ gọi là nghị quyết. Thầy tôi không bao giờ
cho tôi xem các biên bản đó và tôi cũng không có ý định muốn xem. Về
sau, khi tôi quyết chí tìm cách tác động đến thầy, tôi có quan tâm hơn
đến các cuộc họp Ban Chỉ đạo Viện Hóa đạo, nhưng đến mức đó thầy càng
giữ kín hơn đối với tôi. Thấy vậy, nên tôi thôi không tìm hiểu các biên
bản họp Ban Chỉ đạo Viện Hóa đạo. Tôi chỉ biết, ngoài các cuộc họp công
khai tại Văn phòng Viện Hóa đạo, có các cuộc họp mật tại căn phòng nơi
trước đây là phòng của Đức Tăng thống, đối diện phòng Hòa thượng Thích
Trí Quang. Việc chỉ đạo hoạt động Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất
càng về sau càng tùy tiện theo ý cá nhân các nhà lãnh đạo.
Nhưng khi quan tâm tìm hiểu quan điểm, đường lối, chính sách của Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất thì không khó để nhận ra những sai lầm
từ Đại hội kỳ VII và tôi trong quá trình tác động đến thầy tôi, tôi có
trình bày những nội dung này.
Quan
điểm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất từ năm 1975 và rõ hơn
từ Đại hội kỳ VII năm 1977 là không tìm kiếm một sự thích nghi với thực
trạng mới của đất nước, mà trái lại.
Sau
năm 1975, sự phân hóa Ấn Quang/Việt Nam Quốc Tự chấm dứt với việc tự
giải thể của khối Việt Nam Quốc Tự. Đây là một tình huống thuận lợi cho
sự đoàn kết Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên, Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống Nhất Ấn Quang dường như không quan tâm đến cơ hội này và tỏ ra
không thực tế trong cơ hội có thể trở lại Việt Nam Quốc Tự, một trong
những mục tiêu lớn trước 1975 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất
Ấn Quang.
Chúng tôi có tìm một tài liệu mà tôi còn nhớ mang máng tựa đề là “Phật
giáo trước tình thế mới” tác giả Hòa thượng Thích Huyền Quang,
viết trước sự kiện 1977, liên hệ đến tình hình Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống Nhất sau 1975, nhưng chưa thể tìm ra.
Tuy
nhiên, vẫn có thể ghi nhận rõ quan điểm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống Nhất Ấn Quang từ 1975 và rõ hơn từ Đại hội kỳ VII là sẵn sàng duy
trì một tình thế như trước 1975, điều mà chúng tôi cho là rất sai lầm.
Phương hướng này trái ngược hoàn toàn với phía Ca tô La Mã ở lãnh đạo
cấp cao nhất. Sự xung đột của đạo Ca tô La Mã với chính quyền có phát
sinh, nhưng ở cấp dưới, cấp giáo xứ và dòng tu, tầm mức đơn lẻ. Còn ở
cấp cao hơn, hàng giám mục, thì tìm cách thích nghi. Ở TPHCM việc bàn
giao các cơ sở giáo dục, y tế của đạo Ca tô La Mã cho nhà nước về cơ bản
diễn ra khá suông sẻ (tất nhiên cũng có những trường hợp khác, nhưng ít
hơn), còn lại việc giữ các cơ sở thờ tự (nhà thờ) thì cơ bản là thành
công. Có thể thấy điều này qua trường hợp so sánh Việt Nam Quốc Tự và
nhà thơ Vinh Sơn ở gần sát nhau. Nhà thờ Vinh Sơn là một vụ án lớn, đấu
súng, có điện đài, máy phát sóng, máy in tiền giả, có chiến sĩ công an
hy sinh, nhưng giáo hội Ca tô La Mã vẫn giữ lại được nhà thờ, trong khi
Việt Nam Quốc Tự không xảy ra chuyện gì đáng kể, thì lại bị tịch thu, bỏ
hoang trong nhiều năm.
Điều
rất rõ ràng là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có thuận lợi để
tìm kiếm mối quan hệ tốt với chính quyền, giữ lại những cơ sở thờ tự,
hạn chế những khó khăn trong thời cuộc lúc đó, nhưng so với Giáo hội Ca
tô La Mã, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất đã vụng về hơn rất
nhiều. Từ đó, chất chứa những mâu thuẫn không có lợi cho Phật giáo Việt
Nam. Những mâu thuẫn như thế đưa Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất
vào những va chạm rất đáng tiếc.
Trước câu hỏi tình trạng như thế có tránh được không, có một lựa chọn
nào khác không, thì câu trả lời rõ ràng là nếu các nhà lãnh đạo Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống Nhất lúc bấy giờ thận trọng hơn, khôn ngoan hơn,
khéo léo hơn, mềm dẻo hơn, ôn hòa hơn, thì có thể tránh rất nhiều điều
đáng tiếc, kể cả vụ 1977. Như thế, thì thầy tôi đại đức Thích Minh Kiến
có thể không phải gánh lấy trách nhiệm Phó Tổng Thư ký Viện Hóa đạo nặng
nề, khó khăn, phức tạp, không gặp phải hoàn cảnh khó xử, éo le, không
đối phó với tình huống nguy hiểm, căng thẳng trong những ngày tháng về
sau. Nhưng điều hơn hết là nếu thế, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
Nhất sẽ tránh được nhiều bất lợi không đáng có.
(còn tiếp)
Thông tin, thảo luận, phản hồi riêng và các bài tranh luận đặc biệt:
vinasat132@yahoo.com,
vi-vn.facebook.com/cusiminhthanh.