Kinh sách Phật Giáo
thường sử dụng các
thuật ngữ như "tước
đoạt sự sống" hay
làm "phương hại đến
sự sống" của một
chúng sinh nhằm
tránh không dùng chữ
"sát sinh" mang tính
cách quá hung bạo.
Thuật ngữ "tự tước
đoạt sự sống" của
tựa bài viết cũng
nhằm vào mục đích đó,
tức là tránh không
dùng chữ "tự tử", và
đồng thời cũng để
hưởng ứng lời kêu
gọi của Tổ Chức Y Tế
Thế Giới – World
Health Organization
(WHO) của Liên Hiệp
Quốc đề nghị các
giới truyền thông
không nên sử dụng
một thuật ngữ có hàm
ý gợi lên một hành
động cần phải tránh.
Tệ nạn tự
tước đoạt sự sống
không những là một
thảm trạng mang tính
cách cá nhân mà còn
là biểu hiệu một sự
bất lực của xã hội.
Thảm trạng hay sự
bất lực ấy ít khi
được nói đến, chẳng
qua cũng là vì người
ta thường tìm cách
che đậy và giấu giếm
nó như là một điều
gì xấu hổ đối với
lương tâm con người.
Tổ Chức Y Tế Thế
Giới (TCYTTG) vừa
công bố tại Thụy Sĩ
một bản phúc trình
về vấn đề này và cho
biết hằng năm có
800.000 người tự tử,
tức là cứ mỗi 40
giây thì lại có một
người tự tước đoạt
mạng sống của mình.
Là người Phật Giáo
chúng ta phải nhìn
vào vấn đề này như
thế nào? Bài viết
dưới đây sẽ phân
tích và tìm hiểu một
vài con số thống kê
trong phúc trình nói
trên, đã được tạp
chí Le Point của
Pháp tóm lược và
đăng tải ngày
04.09.2014, và một
vài bài báo cùng chủ
đề đăng trên nhật
báo Le Monde của
Pháp ngày 09.12.13
và 05.02.14. Sau khi
điểm qua các tài
liệu này, hy vọng
chúng ta sẽ cùng tìm
hiểu sâu xa và bao
quát hơn về vấn đề
trên đây qua các góc
nhìn Phật Giáo.
Tự tước đoạt sự sống
là một thảm trạng
mà xã hội bất lực và
che dấu
Phúc trình của Tổ
chức Y Tế Thế Giới
Trong
bản phúc trình công
bố ngày 4 tháng 9
năm 2014 vừa qua,
TCYTTG của Liên Hiệp
Quốc sau khi nêu lên
số người tự tước
đoạt sự sống trên
thế giới quá cao như
trên đây, đã kêu gọi
các quốc gia trên
thế giới phải quan
tâm nhiều hơn nữa về
tệ nạn trầm trọng
này. Con số người tự
tước đoạt sự sống
hàng năm cao hơn cả
số tử vong vì chiến
tranh và thiên tai,
đã phơi bày một thảm
trạng khiến những
người có lương tri
cảm thấy không sao "chịu
đựng" nổi.
Bác sĩ
Shakar
Saxena,
Giám Đốc
Ủy Ban
Y Tế của
Tổ Chức
Y Tế Thế
Giới
Khi chính thức
công bố bản phúc
trình này Bác Sĩ
Shekar Saxena,
giám đốc Ủy Ban
Y Tế của TCYTTG
đã tuyên bố rằng
không thể nào có
thể "chấp nhận"
được một con số
tự tước đoạt sự
sống quá cao như
thế, bởi vì tệ
nạn này có thể
làm "giảm bớt"
được bằng các
phương cách
phòng ngừa. Bản
phúc trình còn
cho biết thêm là
tệ nạn tự tước
đoạt sự sống là
nguyên nhân đứng
hàng thứ hai gây
tử vong cho lứa
tuổi từ 15 đến
29. Theo tạp chí
Le Point thì
trong năm 2012
riêng trên đất
Pháp có 10.093
người tự tước
đoạt sự sống,
trong số này có
7.475 nam và
2.618 người
thuộc nữ giới,
chỉ số là 12,3
trên 100.000
người, cao hơn
chỉ số trung
bình trên toàn
thế giới là
11,4.
Bác sĩ
Magaret
Chan, Tổng
giám đốc Tổ
Chức
Y Tế Thế
Giới
(OMS/WHO)
Bà Margaret Chan,
tổng giám đốc TCYTTG
đã phát biểu rằng: "
Chúng ta phải bắt
tay ngay vào việc
đối phó với thực
trạng y tế công cộng
thật tồi tệ này, tệ
nạn tự tước đoạt sự
sống đã được giấu
giếm quá lâu đời
rồi. TTCYTTG trước
đây cũng đã từng đưa
ra một sách lược
toàn cầu nhằm làm
giảm số người tự
tước đoạt sự sống
hàng năm, vì tổ chức
này cho rằng nhiều
người đã tự tước
đoạt sự sống của
mình chỉ vì không có
ai bên cạnh giúp đỡ
họ vào những lúc cần
đến".
Các nước
Đông Nam Á có chỉ số
tự tước đoạt sự sống
cao nhất là 17,7.
Tại các nước Âu Châu
thì số tử vong vì tệ
nạn này là khoảng
35.000 người với chỉ
số là 12,0. Trong
danh sách 20 quốc
gia có số người tự
tước đoạt sự sống
cao nhất thế giới
thì đã có đến sáu
quốc gia Âu Châu.
Sau đây là chỉ số
trên 1000.000 người
của vài quốc gia
này :
Belarus
35,5
Lithuania
28,2
Nga Sô
19,5
Hung-gia-lợi
19,1
Ukrania
19,8
Ba-lan
16,6
Lettonia
16,2
Phần-lan
14,8
Bỉ
14,2
Tây Ban Nha
5,1.
Ý
4,7
Guyana (Nam Mỹ)
chiếm kỷ lục thế
giới với chỉ số 44,2
kế đó là Bắc Hàn
(38,5) và Saudi
Arabia có chỉ số
thấp nhất (0,4).
TCYTTG đưa ra một kế
hoạch hy vọng làm
giảm bớt 10% chỉ số
tử vong vì tệ nạn tự
tước đoạt sự sống từ
đây đến năm 2020
trên toàn thế giới.
Tổ chức này còn cho
biết thêm là có 25
quốc gia trên thế
giới, hầu hết là tại
Phi Châu và Nam Mỹ,
tức là những nước
chịu ảnh hưởng của
các tôn giáo hữu
thần, vẫn còn khép
hành động tự tước
đoạt sự sống vào tội
sát nhân.
Theo nhận
xét của tạp chí Le
Point thì các nước
theo Thiên Chúa Giáo
ở Âu Châu như Ý và
Tây Ban Nha có chỉ
số tự tước đoạt sự
sống thấp hơn nhiều
(4,7 và 5,1) so với
các nước Đông Âu như
Belarus, Nga, Hung
Gia Lợi... (với chỉ
số từ 16,2 đến
35,5). Nhận xét này
không được chính xác
lắm bởi vì Nga và
các nước Đông Âu
theo Chính Thống
Giáo cũng là một
tông phái thuộc
chung trong Cơ Đốc
Giáo như Thiên Chúa
Giáo. Guyana, nơi mà
Kha Luân Bố
(Christophe Colomb)
lần đầu tiên ghé
thuyền đến trong
chuyến du hành lần
thứ ba vào năm 1498,
là một trường hợp
đáng lưu tâm hơn cả,
bởi vì quốc gia này
chiếm kỷ lục thế
giới về tệ nạn tự
tước đoạt sự sống.
Vào ngày 18 tháng 11
năm 1978, tại
Jonestown nơi mà một
mục sư người Mỹ là
Jim Jones đã thiết
lập một giáo phái
Tin Lành Mỹ, đã xảy
ra một cuộc tự tước
đoạt sự sống tập thể
do chính vị mục sư
này tổ chức khiến
918 người chết,
trong số này có 276
trẻ em. Trong khi đó
theo thống kê mới
nhất của TCYTTG ở
Trung Đông thì Saudi
Arabia có chỉ số tự
tước đoạt sự sống
rất thấp là 0,4,
trong khi đó ở Á
Châu và tại Bắc Hàn
thì chỉ số này lên
đến 38,5. Các con số
tương phản trên đây
cho thấy là các yếu
tố có thể đưa đến tệ
nạn tự tước đoạt sự
sống chẳng hạn như
tín ngưỡng, thể chế
chính trị, tình
trạng kinh tế, các
điều kiện xã hội,
văn hóa, giáo dục...
thật ra rất phức
tạp, không hề đơn
giản như người ta
thường tưởng.
Phúc trình
gần hai trăm trang
của TCYTTG được đưa
ra là nhằm vào chủ
đích vận động các
quốc gia trên thế
giới quan tâm nhiều
hơn nữa về vấn đề
này và nên cố gắng
tìm các biện pháp
ngăn ngừa. TCYTTG
còn cho biết thêm là
các việc "điều
trị [các bệnh tâm
thần] và giúp đỡ kịp
thời có thể góp phần
hữu hiệu vào việc
ngăn ngừa tệ nạn tự
tước đoạt sự sống".
Ngoài ra nữ Bác Sĩ
Elexandra
Fleischmann, thành
viên của TCYTTG cũng
đặc biệt lưu tâm các
cơ quan truyền thông
nên tránh sử dụng
các từ như "tự tử"
hay "tự sát" mà chỉ
nên dùng các từ nhẹ
hơn, chẳng hạn như
"làm thiệt hại"
(perte/loss). Trong
trường hợp tiếng
Việt thiết nghĩ
chúng ta có thể sử
dụng các cách nói
như: "tự làm thiệt
hại", "tự tước đoạt"
hay "tự hủy hoại" sự
sống của mình.
Đấy không phải là
một sự tránh né hay
mang mục đích che
giấu nào cả mà đúng
hơn chỉ là một cách
giúp chúng ta "bớt
sợ" để có thể nhìn
trực tiếp hơn vào
một vấn nạn nan giải
của nhân loại.
Nữ
Giáo Sư Ella
Arensman chủ tịch
Hiệp Hội Quốc Tế
Ngăn Ngừa Tự Tử
(Association
internationale pour
la prévention du
suicide/International
Association for the
Prevention of
Suicide) đã nêu lên
một trường hợp tiêu
biểu cho thấy khi
giới truyền thông
đưa lên hàng đầu tin
tài tử điện ảnh Mỹ
Robin Williams (nổi
tiếng từ thời kỳ
chiến tranh Việt Nam
với cuốn phim "Good
Morning Vietnam") đã
tự tước đoạt sự sống
của mình ngày 11
tháng 8 năm 2014,
thì ngay sau đó bà
đã nhận được điện
thư của nhiều người
cho biết trước đây
họ đã loại bỏ được ý
nghĩ tự tước đoạt sự
sống trong tâm trí
mình, thế nhưng nay
thì họ lại bị ám ảnh
trở lại bởi các ý
nghĩ đen tối ấy.
Trong phúc
trình của TCYTTG
cũng không thấy nêu
lên vấn đề trợ tử
(suicide
assisté/assisted
suicide/trợ giúp kết
liễu mạng sống mình)
đã được Thụy Sĩ
chính thức cho phép.
Trợ tử là cách giúp
những người bệnh ra
đi nhẹ nhàng hơn
trước những sự đau
đớn thể xác hoặc tâm
thần đày đọa họ khi
không còn một phương
thuốc nào chữa trị.
Người ta thường gọi
sự trợ tử này bằng
các thuật ngữ như:
"hỗ trợ cái chết"
hay "hỗ trợ lúc lâm
chung" hoặc "giúp
giữ nhân phẩm khi
lìa đời"... Theo Bác
Sĩ Saxena giám đốc
Ủy Ban Y Tế của
TCYTTG cho biết thì
trên phương diện
thống kê sự kiện này
chỉ mang tính cách
thứ yếu, không làm
thay đổi đáng kể các
con số thống kê, do
đó không được đưa
vào bản phúc trình.
Ở Thụy Sĩ trong năm
vừa qua có tất cả
350 trường hợp trợ
tử với sự tiếp tay
của một số các tổ
chức như Dignitas
(tiếng La-tinh có
nghĩa là nhân phẩm,
phẩm cách) hay Exit
(Lối Ra hay Lối
Thoát). Chỉ số tự
tước đoạt sự sống
trong quốc gia này
là 12,2 trên một
trăm ngàn dân. Thụy
Sĩ là một trong các
quốc gia có mức sống
cao nhất và một xã
hội được tổ chức
chặt chẽ, dân chủ và
an ninh nhất thế
giới, thế nhưng chỉ
số trên đây lại cao
hơn chỉ số trung
bình của Âu Châu và
của cả thế giới!
Trường hợp của những
người bị giam giữ và
của lứa tuổi vị
thành niên
Trên đây là
tóm lược vài nét
thật tổng quát về
vấn đề tự tước đoạt
sự sống qua phúc
trình do TCYTTG đưa
ra, liên quan đến
toàn thể các quốc
gia trên thế giới,
không phân biệt một
tập thể hay một sắc
tộc nào. Vậy chúng
ta cũng thử nhìn vấn
đề này thu hẹp trong
một số tập thể và
tầng lớp xã hội được
quy định rõ rệt hơn,
hầu có thể giúp dễ
nhận thấy hơn các
yếu tố ảnh hưởng
hoặc đưa đến những ý
nghĩ đen tối ấy.
Bà Pascale
Krémer, nhà
văn
và nhà báo
người Thụy
Sĩ
Chúng ta sẽ chọn hai
trường hợp: một là
của các tù nhân bị
giam giữ và một của
lứa tuổi vị thành
niên. Sở dĩ hai
trường hợp này được
chọn trong số thật
nhiều các trường hợp
khác là vì trước đây
người viết bài này
đã được đọc hai bài
báo của một nữ ký
giả Thụy Sĩ là
Pascale Krémer đăng
trên nhật báo Le
Monde của Pháp (ngày
09.12.13 và
05.02.14), nêu lên
hai trường hợp này.
Ở Pháp trung bình cứ
mỗi ba ngày thì lại
có một tù nhân tự
tước đoạt sự sống
của mình. Những
người này hầu hết
thuộc nam giới với
độ tuổi trung bình
là 37, và thường là
bằng cách treo cổ
(95% các trường hợp
tự tước đoạt sự sống
xảy ra trong các
khám đường). Số tù
nhân ở Pháp tăng lên
gấp đôi từ năm 1960
đến nay, trong khi
đó theo thống kê của
Viện Quốc Gia về Sức
Khoẻ và Viện Nghiên
Cứu Y Khoa của Pháp
(INSERM) thì trong
khoảng thời gian này
- tính đến năm 2010
- con số tự tước
đoạt sự sống trong
các khám đường lại
tăng lên đến năm lần
hơn. Nước Pháp đứng
hàng thứ sáu trong
số các quốc gia có
chỉ số tù nhân tự
tước đoạt sự sống
cao nhất: 14,6 trên
10.000 người (theo
thống kê năm 2007,
xin lưu ý là chỉ số
trung bình đối với
toàn thể dân chúng
Pháp là 12,3 trên
100.000 người), sau
đó là các quốc gia
như Iceland, Lục Xâm
Bảo, Slovenia, Đan
Mạch và Thụy Điển.
Sau đây là chỉ số tự
tước đoạt sự sống
của các tù nhân tùy
theo tội phạm:
sát nhân
46
trên 10.000
người
phạm tội hiếp dâm
26
‘’
các tội khác về
thuần phong mỹ tục
24
‘’
trộm cắp
10 ‘’
buôn bán ma túy
5‘’
Điều đáng ngạc nhiên
hơn cả là những
người bị truy tố
(chờ ngày đưa ra tòa
xét xử) lại có chỉ
số tự tước đoạt sự
sống rất cao (31) so
với những người đã
bị kết án (12).
Các nhà xã
hội học cho biết là
các tù nhân trước đó
có một cuộc sống bấp
bênh, không nơi
nương tựa, thường là
những người dễ vướng
vào các ý nghĩ đen
tối và thường tự
tước đoạt sự sống
của mình nhiều hơn
so với các tù nhân
khác. Dưới một khía
cạnh nào đó khám
đường cũng chỉ là
nơi giam giữ những
kẻ có tâm thần yếu
đuối. Trước khi phạm
tội hầu hết những
người này là những
người yếu kém, không
đủ sức đua chen
trong xã hội, lớn
lên trong các gia
đình xáo trộn và
thuộc các tầng lớp
thấp nhất trong xã
hội: 46% các tù nhân
này chỉ được học đến
cấp tiểu học, một
phần tư là những
người nghiện rượu,
ma túy và từng là
bệnh nhân trong các
trại tâm thần trong
vòng 12 tháng trước
khi bị kết án. Ngoài
ra đối với các cựu
tù nhân - tức là sau
khi đã được trả tự
do - thì chỉ số tự
tử cũng cao hơn hẳn
so với mức trung
bình trong xã hội.
Trong bài báo thứ
hai của bà Pascale
Krémer liên quan đến
vấn nạn tự tước đoạt
sự sống của lứa tuổi
vị thành niên, bà đã
trình bày tóm lược
như sau:
Ở Pháp,
tháng 6 năm 2012 có
một cuộc thăm dò
được thực hiện nhằm
mục đích tìm hiểu
sức khoẻ tâm thần
của các học sinh ở
lứa tuổi 15 trong
hai vùng địa lý cách
xa nhau: một thuộc
bờ biển phía tây nam
(Poitou-Charente) và
một thuộc vùng đông
bắc (Alsace, một
vùng ráp ranh với
nước Đức). Trong
cuộc thăm dò này có
tất cả 1.817 học
sinh ở tuổi 15 thuộc
171 trường trung học
được yêu cầu trả lời
88 câu hỏi, trong số
này có một câu như
sau:"Trong vòng
12 tháng trở lại
đây, em có toan tính
tự tử hay không?
Trong cuộc đời em,
em có ý định tự tử
bao nhiêu lần?".
Kết quả
thật hết sức bất
ngờ: 20.9% nữ học
sinh và 8,8% nam học
sinh trả lời là đã
từng toan tính tự
tử, và các kết quả
này đều trùng hợp
nhau ở cả hai nơi
thăm dò. Bác sĩ
Philippe Binder
giảng sư đại học Y
Khoa, chuyên gia về
các bệnh tâm thần
thuộc các lứa tuổi
vị thành niên đã
phải thốt lên:
"Tôi phải thú nhận
rằng sau khi được
thông báo kết quả
thăm dò này thì đêm
hôm ấy tôi không sao
chợp mắt được. Quý
vị hãy tưởng tượng
xem, trong số năm
đứa bé gái mà quý vị
gặp ở đường phố thì
có một đứa đã từng
toan tính kết thúc
đời mình". Con
số trẻ vị thành niên
mưu toan tự tử được
đưa đến bệnh viện
cấp cứu ngày càng
gia tăng và tuổi của
chúng ngày càng thấp
xuống.
Nói chung
thì vấn đề tự tước
đoạt sự sống thật vô
cùng phức tạp, liên
hệ đến thật nhiều
yếu tố: ngoài tình
trạng sức khoẻ tâm
thần ra còn phải kể
đến bối cảnh xã hội,
gia đình, giáo dục,
y tế, văn hóa, luật
pháp, chính trị...
Nhiều công trình
nghiên cứu thuộc các
lãnh vực y khoa, tâm
lý học, nhân chủng
học, xã hội học,
v.v... đã được thực
hiện. Chúng ta thử
tìm hiểu một vài kết
quả mang lại từ các
cuộc nghiên cứu trên
đây và sau đó sẽ nói
đến quan điểm của
Phật Giáo về tệ nạn
đau thương này của
nhân loại mà người
ta thường chỉ muốn
ngoảnh mặt đi nơi
khác.
Tìm hiểu nguyên nhân
đưa đến tệ trạng tự
tước đoạt sự sống
trên phương diện
khoa học và xã hội
học
Phía sau con
số những người tự
tước đoạt sự sống
hàng năm rất cao
trên đây còn phải kể
đến những người hoặc
chỉ mưu toan tự tước
đoạt sự sống của
mình hoặc đã thực
hiện nhưng được cứu
sống kịp thời, con
số này được ước tính
là khoảng 20 triệu
người hàng năm trên
toàn thế giới. Trong
phần dưới đây chúng
ta chỉ đề cập đến
các trường hợp tử
vong mà thôi và có
những nhận xét tổng
quát về mặt nguyên
nhân sau đây :
Mức sống, hoàn cảnh
xã hội và chính trị:
Nga Sô và các nước
cựu chư hầu có chỉ
số rất cao (16,2 đến
35,5). Một số các
nước có mức sống
thấp ở Đông Nam Á
cũng có chỉ số rất
cao, gần với chỉ số
của Bắc Hàn là 38,5
(chỉ số trung bình
của toàn vùng Á Châu
là 17,7). Các chỉ số
này cho thấy có thể
liên hệ ít nhiều đến
mức sống và các hoàn
cảnh xã hội cũng như
chính trị.
Truyền thống văn
hóa : Trái với nhận
xét trên, Nhật Bản
là một nước có mức
sống cao, thể chế
dân chủ được tôn
trọng, xã hội được
tổ chức chặt chẽ và
nhân đạo, thế nhưng
chỉ số tự tước đoạt
sự sống lại rất cao
(20,0 theo thống kê
năm 2004). Dường như
chỉ số này là hậu
quả mang lại từ
truyền thống văn hóa
lâu đời và rất đặc
biệt của xứ sở này,
đó là việc xem hành
động tự tước đoạt sự
sống của mình là một
cách minh oan, hối
lỗi hay là một hình
thức biểu lộ sự
trung thành đối với
vị thủ lãnh hay lý
tưởng của mình
(trường hợp của
những người samurai
hay của các phi công
tự sát trong Thế
Chiến Thứ Hai chẳng
hạn).
Thể chế chính trị và
trình độ phát triển
kinh tế : Ở Trung
Quốc số người tự
tước đoạt sự sống
hàng năm là từ
250.000 đến 300.000
người (chỉ số 22,2
theo thống kê năm
2011). Cũng xin lưu
ý thêm là người viết
không có toàn bộ bản
phúc trình mới nhất
của TCYTTG mà chỉ
căn cứ vào bảng tóm
lược trên tạp chí Le
Point và các tài
liệu sẵn có). Số
người tự tước đoạt
sự sống này là một
phần ba đến một phần
tư tổng số người tự
tước đoạt sự sống
trên toàn thế giới.
Con số đó có thể
phản ảnh phần nào
thể chế chính trị
cũng như tình trạng
phát triển ào ạt về
kinh tế và kỹ nghệ
của xứ sở này
đã tạo ra một
sự bất công và chênh
lệch quá đáng giữa
các thành phần trong
xã hội, đưa đến một
tình trạng khai thác
con người khó có thể
chấp nhận được, và
có thể đã đưa đến tệ
nạn tự tước đoạt sự
sống trầm trọng trên
đây.
Sau đây chúng ta hãy
tiếp tuc tìm hiểu
các nguyên nhân đưa
đến việc tự tước
đoạt sự sống liên
quan đến một số tập
thể và tầng lớp xã
hội:
Nam giới và nữ
giới : Trong tất cả
các quốc gia khác
trên thế giới thì số
nam giới tự tước
đoạt sự sống luôn
luôn cao hơn nữ giới
từ 2 đến 5 lần! Thế
nhưng có một sự kiện
khá đặc biệt là
người phụ nữ Trung
Quốc tự tử nhiều hơn
nam giới, và tình
trạng này cũng thấy
xảy ra ở Ấn Độ. Lý
do có thể là vì
người phụ nữ ở hai
quốc gia này phải
chịu nhiều thiệt
thòi hơn trong gia
đình cũng như ngoài
xã hội, hậu quả của
hai nền văn hóa
không xem trọng
người phụ nữ.
Nông dân: Một sự
kiện đáng để ý là ở
Ấn Độ, theo thống kê
của TCYTTG thì hàng
năm số nông dân tự
tước đoạt sự sống
rất cao, họ là những
người trồng bông vải
trong các vùng phía
tây của quốc gia
này. Người nông dân
trong các vùng này
lệ thuộc vào hạt
giống biến đổi gen
(OGM: Organisme
Génétiquement
Modifié/GM:
Genetically modified
crops) do các công
ty tài phiệt độc
quyền. Các cây bông
vải biến đổi gen cho
năng suất gấp đôi,
nhưng lại không
chống được sâu bọ.
Dù sản xuất gấp đôi
nhưng tiền mua hạt
giống mỗi năm rất
cao và phải dùng
thuốc trừ sâu thật
nhiều nên đã khiến
người nông dân mang
nợ và không đủ sống.
Tập thể những người
nông dân trở thành
một guồng máy sản
xuất hay những con
vật hy sinh cho sự
gia tăng nông phẩm.
Đây là một sự kiện
đáng để chúng ta
phải lưu tâm và suy
nghĩ trên phương
diện tổ chức xã hội
và tình trạng khai
thác con người.
Những người bị tù
đày: Trở lại với hai
bài báo của nữ ký
giả Pascale Krémer
thì chúng ta sẽ nhận
thấy các nguyên nhân
đưa đến các ý nghĩ
đáng tiếc đó tương
đối rõ ràng hơn. Đối
với những người bị
tù đày thì nguyên
nhân thường là sự
nghèo đói, sống
trong các gia đình
căng thẳng và xáo
trộn, thuộc các
thành phần thấp kém
trong xã hội, ít
học, nghiện ngập,
yếu đuối, thiếu
thăng bằng trên
phương diện tâm lý,
không chủ động được
các sự thúc đẩy bản
năng của mình, mất
hết định hướng trong
cuộc sống,... Nếu
suy nghĩ thêm một
chút thì hẳn sẽ
không đến nỗi quá
khó để hiểu rằng sự
hung bạo mà họ gây
ra cũng chỉ là những
thúc đẩy sâu kín của
tình trạng mặc cảm,
yếu đuối tâm thần,
thiếu khả năng suy
nghĩ và lý luận. Tuy
nhiên trước pháp
luật thì họ lại được
xem là những người
"bình thường", hoàn
toàn ý thức về các
hành động nổi loạn
hoặc bất lương của
họ. Chỉ khi nào các
cử chỉ và ngôn từ
của họ cho thấy các
triệu chứng điên rồ
thật "lộ liễu" thì
họ mới được pháp
luật xem là những
người mắc bệnh tâm
thần. Các kết quả
thống kê cho biết từ
87% đến 98% các tù
nhân tự tước đoạt sự
sống của mình đều là
những người có các
triệu chứng liên
quan đến các bệnh
tâm thần. Trong bối
cảnh này, chúng ta
hãy ghi nhớ rằng
luật pháp được lập
ra là để cứu giúp và
che chở họ chứ không
phải là để trừng
phạt họ. Các nhận
xét trên đây cho
thấy ngoài các
nguyên nhân thuộc
bối cảnh bên ngoài
(hoàn cảnh nghèo
đói, ít học...), còn
có các nguyên nhân
khác sâu kín hơn
(những sự đau buồn,
uất ức, tuyệt
vọng...) bên trong
nội tâm của mỗi cá
thể.
Bác sĩ
Xavier
Pommereau
Trẻ vị thành niên:
Đối với lứa tuổi vị
thành niên thiết
nghĩ chúng ta cũng
chỉ cần suy tư và
tìm hiểu về những
lời phát biểu của
bác sĩ tâm thần
Xavier Pommereau
(phụ trách chương
trình ngăn ngừa tệ
nạn tự tước đoạt sự
sống của lứa tuổi vị
thành niên tại Bệnh
Viện Đại Học
Bordeaux) nêu lên
trong bài báo thứ
hai của bà Pascale
Krémer, cũng là đủ:
"Rất nhiều trẻ vị
thành niên rơi vào
tình trạng tuyệt
vọng và theo sự ước
tính của tôi thì
trong bảy đứa trẻ vị
thành niên là có một
đứa bị bệnh trầm
cảm. Các đứa trẻ ấy
luôn bị căng thẳng
và lo âu về số phận
của chúng, và nhất
là mất hết mọi ý
niệm về sự hiện hữu
của chính mình.
Chúng không còn nhận
biết được cá tính
của mình, cũng không
còn nhận định được
vị trí của mình
trong xã hội, cũng
không tìm được cho
mình một lý tưởng
nào cả. Tất cả chẳng
qua là vì người lớn
chung quanh phó mặc
chúng với số phận
của chúng. Các trẻ
em trong các gia
đình nghèo khó
thường buông tay".
Sau hết vị bác sĩ
này đã kết luận như
sau: "Tình trạng
tâm thần của trẻ vị
thành niên cũng
tương tự như một tấm
gương phản ảnh những
nỗi lo buồn của cha
mẹ chúng trong bối
cảnh gia đình và
tình trạng căng
thẳng tạo ra bởi các
mối giao tiếp trong
xã hội". Các
nhận xét trên đây
cho thấy chúng ta
thường đối xử với
những đứa trẻ vị
thành niên thật vô
trách nhiệm, thiển
cận và hoàn toàn vô
ý thức.
Các kết quả
thăm dò đối với lứa
tuổi 15 cho thấy chỉ
số nữ sinh ở lứa
tuổi 15 có ý định tự
tước đoạt sự sống
lên đến 20,9 và đối
với nam sinh cùng
lứa tuổi là 8,8. Các
phản ứng khác biệt
trên phương diện
giới tính trên đây
cho thấy một sự liên
hệ nào đó với tính
khí và các thúc đẩy
bản năng sâu kín của
các đứa trẻ. Theo
bài báo của nữ ký
giả Pascale Krémer
thì các nhà phân tâm
học cho biết trong
số ba đứa trẻ gái
thì có một đứa tự
gây ra thương tích
trên thân thể mình -
có thể là rất nặng
hoặc chỉ mang tính
cách tượng trưng -
nhằm gián tiếp nói
lên ý định tự tước
đoạt sự sống của
mình. Trong khi đó
thì các đứa trẻ trai
lại phản ứng bằng
các thái độ ngỗ
nghịch, phá phách,
bướng bỉnh, phản ảnh
những những nỗi khổ
đau sâu kín của
chúng. Trong khi đó
đối với các lứa tuổi
già dặn hơn (trưởng
thành và lớn tuổi)
thì chỉ số tự tước
đoạt sự sống của nam
giới lại cao hơn từ
hai đến năm lần so
với nữ giới. Sự kiện
này phản ảnh khá rõ
rệt tính khí khác
biệt nhau giữa nam
và nữ giới. Phải
chăng ở vào các lứa
tuổi chín chắn người
phụ nữa trở nên nhẫn
nhục hơn và sức chịu
đựng khổ đau của họ
cũng cao hơn nam
giới? Giới tính
không do bối cảnh
gia đình hay xã hội
tạo ra, nhưng cũng
không phải là một sự
ngẫu nhiên. Dầu sao
thì càng phân tích
chúng ta lại càng
thấy các nguyên nhân
đưa đến hành động tự
tước đoạt sự sống
hết sức đa dạng và
khó xác định một
cách rõ rệt.
Những người sống cô
độc: Ngoài ra người
ta cũng nhận thấy
chỉ số tự tước đoạt
sự sống rất cao của
những người thất
nghiệp, độc thân, ly
dị, những người
không con, có một
cuộc sống khép kín
hoặc là những người
quá bộc lộ luôn bị
lôi cuốn bởi khung
cảnh bên ngoài và
các mối giao tiếp
trong xã hội. Đối
với các trường hợp
này hành động tự
tước đoạt sự sống
đôi khi xảy ra rất
đột ngột, không có
dấu hiệu nào báo
trước. Các ý định
đen tối trong các
trường hợp này không
nhất thiết phản ảnh
một sự mong muốn làm
chấm dứt một tình
trạng khổ đau vượt
quá sức chịu đựng
của mình như các
trường hợp nói trên
mà là một hình thức
không chấp nhận một
cảnh huống bế tắc
nào đó trong cuộc
sống của mình. Các
trường hợp tự tước
đoạt sự sống dưới
hình thức tránh né
một tình trạng không
lối thoát này cũng
như các phản ứng khổ
đau sâu kín của các
đứa trẻ vị thành
niên dường như liên
hệ đến bản chất sâu
kín của chính sự
hiện hữu của
mình.
Tìm hiểu tệ nạn tự
tước đoạt sự sống
qua các góc nhìn
của một số khái niệm
Phật Giáo
Như đã thấy
trong phần trên đây,
các ngành khoa học
như tâm lý học, phân
tâm học, xã hội học,
nhân chủng học,
thống kê học... đã
không ngừng nỗ lực
tìm kiếm nguyên nhân
đưa đến tệ nạn tự
tước đoạt sự sống
nhằm tìm kiếm các
biện pháp ngăn ngừa.
Tuy nhiên càng tìm
hiểu và nghiên cứu,
và dù cho các kết
quả mang lại ngày
càng phong phú hơn
bao nhiêu, thì vấn
đề lại cũng trở nên
đa dạng và phức tạp
hơn bấy nhiêu. Các
sự hiểu biết đó có
thể nhân lên đến vô
tận, bởi vì sự tiếp
cận của khoa học chỉ
đơn thuần căn cứ vào
hiện tượng, và hiện
tượng thì luôn biến
động và đổi thay.
Phương pháp
tiếp cận của Phật
Giáo lại đi ngược
hẳn với các phương
pháp khoa học nói
trên là thay vì tìm
hiểu các hiện tượng
căn cứ vào bản
chất và các
đặc tính của
chúng, thì Phật Giáo
lại tìm hiểu
nguyên nhân làm
phát sinh ra chúng
và các điều kiện
chi phối sự vận
hành của chúng. Vì
thế sự hiểu biết của
Phật Giáo đã dẫn đến
một tầm nhìn sâu sắc
hơn nhiều so với sự
hiểu biết chi tiết
mang tính cách phân
tích của khoa học.
Nói một cách khác là
sự hiểu biết đa
dạng của khoa
học mang tính cách
phân tán dựa
vào thế giới hiện
tượng, trong khi đó
thì sự hiểu biết
Phật Giáo mang tính
cách hội tụ
hướng vào nguyên
nhân và cội
nguồn làm phát
sinh ra các hiện
tượng trong thế giới
ấy.
Chúng ta hãy
thử tìm hiểu một vài
khái niệm căn bản
của Phật Giáo và sau
đó sẽ ứng dụng các
khái niệm này vào
việc tìm kiếm những
nguyên nhân cội rễ
nào đã đưa đến tệ
nạn thật đáng đau
buồn đó trong xã hội
loài người.
Khái niệm về nguyên
nhân và điều kiện
trong Phật Giáo
Khái niệm
nguyên nhân và điều
kiện thường được
kinh sách gốc Hán
ngữ gọi là khái niệm
"Nhân-Duyên". Thật
ra khái niệm này
cũng không phải là
gì quá khó hiểu cho
lắm. "Nhân" có nghĩa
là nguyên nhân đưa
đến sự hình thành
của một thể dạng hay
một hiện tượng nào
đó, tiếng Pa-li là
hetu và
nguyên nghĩa của chữ
này là lý do,
nguồn gốc, cội rễ,
động cơ thúc đẩy...,
nói một cách vắn tắt
là mầm mống
làm phát sinh ra một
thứ gì khác. "Duyên"
có nghĩa là điều
kiện, tiếng
Pa-li là paccaya,
chữ này có nghĩa khá
tương đồng với chữ
conditions
trong các ngôn ngữ
Tây Phương, tức có
nghĩa là các điều
kiện cần thiết
góp phần vào một quá
trình tạo tác đưa
đến một sự hình
thành nào đó. Sở dĩ
dài dòng như vậy là
vì chữ duyên
trong các kinh sách
gốc Hán ngữ không
nói lên được đầy đủ
ý nghĩa này. Nếu
muốn thấu triệt sâu
xa hơn thế nào là
nguyên nhân và
thế nào là điều
kiện góp phần
tạo ra các hiện
tuợng thì phải cần
tìm hiểu thêm về một
khái niệm khác vô
cùng quan trọng
trong Phật Giáo: đó
là nguyên tắc
tương liên, tương
tác và tương tạo
giữa mọi hiện tượng,
tiếng Pa-li là
paticcasamutpada
tiếng Phạn là
pratityasamutpada,
kinh sách gốc
Hán ngữ gọi là lý
duyên khởi, kinh
sách bằng các ngôn
ngữ Tây Phương gọi
là
interdependence/conditioning
co-production/conditioned-coproduction/dependent
origination/depending
arising, v.v.
Trở lại vấn
đề tìm hiểu các
nguyên nhân nào
đưa đến ý định hay
hành động tự tước
đoạt sự sống, thì
phần phân tích các
kết quả do khoa học
mang lại trên đây đã
cho thấy là các
nguyên nhân ấy liên
hệ đến tuổi tác,
giới tính, không con
cái, nghiện ngập,
các bệnh tâm thần,
tình trạng xáo trộn
tâm lý, nghèo đói,
ít học, bị tù tội,
cô đơn, lớn lên
trong khung cảnh gia
đình xáo trộn, mất
định hướng trong
cuộc sống, v.v. Tóm
lại tính cách phân
tán và đa dạng của
các nguyên nhân
này thật hết sức
tiêu biểu cho sự
hiểu biết phân
tán của khoa học
nói chung.
Phật Giáo
không xem các
nguyên nhân đa
dạng và phân tán
trên đây do khoa học
khám phá là các
nguyên nhân đích
thật (hetu)
mà chỉ xem chúng là
các cơ duyên
tức là các điều
kiện cần thiết (paccaya)
góp phần vào quá
trình đưa đến ý nghĩ
hay hành động tự
tước đoạt sự sống.
Tóm lại đối với Phật
Giáo các biến cố
hay hiện tượng xảy
ra trong bối cảnh
bên ngoài hoặc
là các trạng
huống tâm lý mất
thăng bằng của
một cá thể chỉ đơn
giản là các điều
kiện hay cơ duyên
phù hợp, thích nghi
và cần thiết góp
phần giúp cho những
nguyên nhân đích
thật và sâu kín
hơn có thể phát lộ,
đưa đến ý nghĩ và
các hành động đáng
tiếc mà thôi. Theo
quan điểm Phật Giáo
thì các nguyên
nhân sâu kín đó
cũng không phải là
quá khó hiểu: đấy
chính là sự khổ
đau.
Khái niệm về
khổ đau trong Phật
Giáo mang ý nghĩa
thật bao quát, liên
hệ đến nhiều lãnh
vực khác nhau và
mang nhiều thể dạng
ở các cấp bậc khác
nhau, kể cả dưới một
số các hình thức mà
chúng ta quen gọi là
hạnh phúc và hân
hoan. Vậy chúng ta
hãy thử tìm hiểu xem
theo quan điểm Phật
giáo thì khổ đau là
gì.
Khái niệm về khổ đau
trong giáo lý Phật
Giáo
Sự Thật Cao
Quý thứ Nhất trong
số Bốn Sự Thật Cao
Quý mà Đức Phật đã
nêu lên trong bài
thuyết giảng đầu
tiên sau khi đạt
được Giác Ngộ là Sự
Thật về Khổ Đau,
tiếng Pa-li là
dukkha và tiếng
Phạn là duhkha.
Thuật ngữ này trong
Phật Giáo thường
được dịch bằng một
từ thông dụng là
khổ đau
(souffrance/suffering),
thế nhưng thật ra
thì chữ khổ đau
với ý nghĩa thông
thường trong các
ngôn ngữ ngày nay
của chúng ta không
phản ảnh được tính
cách bao quát và sâu
sắc của thuật ngữ
dukkha trong
triết học Phật Giáo.
Ý nghĩa của khổ đau
(dukkha) được
xác định trong bài
kinh
Dhammacakkappavattana-sutta
(Tương Ưng Bộ Kinh,
SN, 56.11) như sau:
"Này các tỳ-kheo,
sự thật cao quý của
Dukkha là: sinh là
dukkha, già là
dukkha, chết là
dukkha; đau buồn, ta
thán, đau đớn, buồn
khổ, tuyệt vọng là
dukkha; phải gánh
chịu những gì mà
mình không thích là
dukkha, phải xa lìa
những gì mà mình yêu
quý là dukkha, không
đạt được những gì mà
mình mong muốn là
dukkha. Một cách
ngắn gọn là năm thứ
cấu hợp của sự bám
víu là dukkha"
(năm thứ cấu hợp còn
gọi là ngũ uẩn,
tức là các thành
phần cấu hợp tạo ra
một cá thể: gồm một
thành phần cấu hợp
vật chất và bốn
thành phần cấu hợp
tâm thần là các giác
cảm và ba chức năng
cảm nhận và diễn đạt
của tâm thức. Tất cả
năm thứ cấu hợp này
đều mang lại khổ đau
cho một cá thể).
Các thể loại
khổ đau - dukkha
- trên đây được phân
loại và hệ thống hóa
dưới ba thể dạng:
- Dukkha dukkha:
"Khổ đau của khổ
đau", là các thể
loại đau đớn thông
thường và lộ liễu
nhất, gồm bệnh tật
trên thân xác, cũng
như các xúc cảm lo
âu, sợ hãi, kinh
hoàng, hoảng hốt,
đau buồn, tiếc nuối,
hy vọng, ước mong,
v.v... thể hiện bên
trong nội tâm.
- Viparinama dukkha:
"Khổ đau của sự
đổi thay", là
các thứ khổ đau gây
ra bởi bản chất vô
thường của mọi sự
hiện hữu, nói cách
khác là những gì đi
ngược lại với sự
mong muốn của một cá
thể. Con người luôn
bị ám ảnh bởi sự đổi
thay và tìm đủ mọi
cách để chống lại
tình trạng luôn luôn
biến đổi ấy của hiện
thực: chẳng hạn như
già nua, bệnh tật và
cái chết. Con người
nghĩ ra đủ mọi cách
để chống lại tình
trạng đổi thay ấy.
Tôn giáo cũng là một
hình thức không chấp
nhận các hiện tượng
vô thường, kể cả đối
với Phật Giáo qua
một vài hình thức tu
tập. Dưới một khía
cạnh nào đó, tôn
giáo nói chung cũng
có thể là nguyên
nhân mang lại khổ
đau. Thật vậy các
nghi thức, lễ lạc,
giáo điều, đức tin,
giáo phái, cải đạo,
truyền giáo, các sự
tranh chấp, chiến
tranh giữa các tôn
giáo... đều phản ảnh
một sự khổ đau nào
đó.
- Samkhara dukkha:
"Khổ đau tạo ra
bởi các sự tạo tác
tâm thần" còn gọi là
"Khổ đau của sự hiện
hữu trói buộc".
Chữ Samkhara
mà kinh sách
gốc Hán ngữ gọi là
"Hành" là một thuật
ngữ dùng để chỉ định
cấu hợp (uẩn) thứ tư
trong số năm cấu hợp
(ngũ uẩn) tạo ra một
cá thể. Cấu hợp này
(samkhara/"hành")
mang chức năng diễn
đạt sự nhận biết của
các giác quan và đưa
đến sự hình thành
của tâm thức. Những
sự diễn đạt đó được
xem như các
nguyên nhân tạo
nghiệp mang lại
các thể dạng khổ
đau. Khổ đau phát
sinh từ những sự tạo
dựng này hiện ra qua
các hình thức bất
toại nguyện thường
xuyên, sâu kín và
mang tính cách hiện
sinh
(existentialist) về
sự hiện hữu lệ thuộc
của chính mình. Nói
cách khác là các sự
khổ đau này hiện ra
qua các cảm tính về
sự ràng buộc của
thân xác và tâm thức
mình trong thế giới
hiện tượng, phản ảnh
một sự bất lực trước
mọi cố gắng vượt lên
trên sự hiện hữu
trói buộc của chính
mình. Chỉ khi nào
thật sự thấu hiểu
được các hình thức
khổ đau này là gì
thì khi ấy mới có
thể hiểu được trọn
vẹn ý nghĩa của chữ
Giải Thoát trong
giáo lý Phật Giáo.
Thật vậy một cá thể
luôn cảm thấy mình
bị ràng buộc với
thân xác và tâm thức
mà mình đang có.
Thân xác và tâm thức
ấy cũng lại lệ thuộc
vào vô số các hiện
tượng khác trong thế
giới hiện tượng
xuyên qua quy luật
tương liên, tương
tác và tương tạo
(pratityasamutpada/conditioned
co-production/lý
duyên khởi). Nói một
cách cụ thể hơn là
khi nào chúng ta còn
cảm thấy những thứ
xúc cảm "bất toại
nguyện" bùng lên
trong nội tâm mình
mỗi khi nhận thấy
những gì hiện ra với
mình thật "hết sức
phi lý", thì đấy
chính là thể loại
khổ đau thứ ba phát
sinh từ những sự
"tạo tác tâm thần"
của chính mình. Nếu
cứ để mặc các xúc
cảm "bất toại
nguyện" và những sự
cảm nhận "phi lý" đó
về sự hiện hữu của
mình và của thực tại
chung quanh cứ tiếp
tục bùng lên đến cực
độ thì chúng có thể
sẽ biến thành các
nguyên nhân (hetu)
đưa đến ý nghĩ tự
tước đoạt sự sống
của mình, nói cách
khác là đưa đến tình
trạng mà mình không
sao chấp nhận được
trước các sự bất
toại nguyện và phi
lý của sự hiện hữu
của chính mình.
Dù rằng nền
móng triết học Phật
Giáo được thiết lập
xoay quanh khái niệm
khổ đau, và chính
Đức Phật cũng đã xác
định điều ấy:
"Như Lai chỉ giảng
một điều duy nhất:
đó là khổ đau và sự
chấm dứt của khổ
đau", thế nhưng
Phật Giáo không phải
là một tín ngưỡng
yếm thế mà đúng hơn
là rất thực tế, đưa
ra một sự nhận định
sáng suốt về hiện
thực giúp mỗi người
trong chúng ta nhìn
thẳng vào khía cạnh
dukkha của
nó: tức là bản chất
lệ thuộc, bất toại
nguyện và không hoàn
hảo của sự sống.
Trong kinh
Rahogata-sutta (Bài
kinh về sự đơn độc,
Tương Ưng Bộ Kinh,
SN, 36.11) có kể lại
câu chuyện một vị
tỳ-kheo bắt bẻ Đức
Phật bằng cách nêu
lên là các giác cảm
(vedana) có
thể là thích thú (sukha-vedana),
khó chịu (dukkha-vedana)
hay trung hòa (adukkham-asukkha-vedana),
thế nhưng tại sao
năm thứ cấu hợp (ngũ
uẩn) tạo ra một cá
thể lại chỉ là toàn
khổ đau (dukkha),
có phải đấy là một
sự mâu thuẫn hay
không? Đức Phật giải
thích rằng tất cả
các hiện tượng (dù
là thích thú, khó
chịu hay trung hòa)
đều là vô thường và
phải nhờ vào sự tạo
tác do điều kiện mà
sinh ra (conditioned
co-production/sự
tương liên hay lý
duyên khởi), và nếu
đã là vô thường và
không mang tính cách
bền vững (tức là
những gì tạm thời,
giai đoạn, lệ thuộc,
không mang tính cách
tự tại hay nội tại)
thì nhất thiết phải
là khổ đau (dukkha):
Nói tóm lại thì "tất
cả những gì thuộc
thể loại giác cảm
đều là khổ đau".
Những gì
trên đây cho thấy
khổ đau hiện ra dưới
muôn nghìn thể dạng
khác nhau. Khoa học
sở dĩ "lạc hướng" -
nếu có thể nói như
thế - là vì chỉ biết
chạy theo các hiện
tượng để nghiên cứu,
phân tích với mục
đích tìm kiếm nguyên
nhân. Ngược lại Phật
Giáo không chạy theo
các hiện tượng mà
chỉ phân tích và tìm
hiểu các nguyên
nhân làm phát
sinh ra hiện tượng.
Nhờ đó Phật Giáo đã
khám phá ra
nguyên nhân sâu kín
nhất mang lại
các hiện tượng khổ
đau và gọi đấy là nghiệp,
tiếng Pa-li là
kamma, tiếng
Phạn là karma.
Vậy nghiệp là gì?
Khái niệm về nghiệp
trong Phật Giáo
Khổ đau có
thể nhận biết và
chứng nghiệm được
qua các kinh nghiệm
cá nhân, hoặc bằng
các phương pháp và
khí cụ khoa học. Một
số ngành như sinh
học, thần kinh học,
tâm lý học, phân tâm
học... có thể phát
hiện, theo dõi, phân
tích các cảm nhận
cũng như sự vận hành
của khổ đau qua một
số các thể dạng phát
lộ của nó. Thế nhưng
đối với khái niệm về
nghiệp thì khó nắm
bắt hơn nhiều, bởi
vì khái niệm này
mang các khía cạnh
triết học siêu hình
gần với tôn gíáo
hơn. Thế nhưng thật
ra thì nghiệp cũng
chỉ là một thể dạng
vận hành của một quy
luật toàn cầu là sự
tương liên tương tác
và tương tạo giữa
mọi hiện tượng
(interdependence/conditioned
co-production/lý
duyên khởi). Nói
cách khác nghiệp chỉ
là một thể dạng đặc
biệt của quy luật
này liên quan đến sự
sống nói chung qua
các hình thức xúc
cảm phát sinh từ bên
trong tâm thức của
một cá thể và được
chính tâm thức
chuyển tải xuyên qua
không gian và thời
gian. Nghiệp vô cùng
phức tạp, linh động
và biến dạng không
ngừng, tương tự như
tư duy trong tâm
thức một cá thể và
các hiện tượng khác
trong vũ trụ.
Nếu muốn
thấu hiểu được
nghiệp và nhận biết
được sự vận hành của
nó thì cần phải có
một số vốn kinh
nghiệm về thiền định
tức là một sự suy tư
bén nhạy và lâu dài,
một khả năng chú tâm
và tổng hợp cao độ.
Hãy nêu lên một thí
dụ đơn giản và cụ
thể: một người đi
ngang một thớt thịt
ở chợ chợt trông
thấy một miếng thịt
đùi heo đỏ tươi, ít
mỡ, nạc nhiều, da
cạo sạch, nhưng
không có phương tiện
hay vì bận không
dừng lại được để
mua; một người thứ
hai cũng đi ngang
thớt thịt ấy và cũng
trông thấy miếng
thịt ấy, nhưng ngửi
thấy mùi thịt và máu
hôi tanh, miếng thịt
dính máu thật kinh
khiếp, thì vội tránh
ra nơi khác. Đêm hôm
ấy trong giấc ngủ
người thứ nhất có
thể mơ thấy mình
được ăn một bữa cơm
với thịt kho thật
ngon, người thứ hai
thì lại nằm mơ thấy
một cơn ác mộng: một
người đồ tể thọc
huyết heo hay một
tai nạn lưu thông
máu me lênh láng
chẳng hạn. Hai cách
cảm nhận khác nhau
đối với cùng một sự
kiện là do ảnh hưởng
của nghiệp khác nhau
có sẵn từ trước của
hai người. Các xúc
cảm phát sinh từ hai
cách cảm nhận khác
nhau ấy được ghi
khắc và lưu lại
trong tri thức của
mỗi người. Trong
giấc ngủ thì các xúc
cảm ấy lại hiện lên
qua các hình ảnh hay
giấc mơ phản ảnh bản
chất của các xúc cảm
ấy. Các hình ảnh hay
giấc mơ của người
thứ nhất phản ảnh sự
thèm khát và bám
víu, trong khi đó
các hình ảnh hay
giấc mơ của người
thứ hai phản ảnh sự
thương xót trước
cảnh chết chóc. Sự
thèm khát và bám víu
của người thứ nhất
sẽ đưa đến các hậu
quả mang cùng một
bản chất trong cuộc
sống của mình. Sự
thương xót và sợ hãi
của người thứ hai có
thể là một sự thức
tỉnh khơi động lòng
từ bi của mình, hoặc
cũng có thể là một
sự cảnh giác và nhờ
đó khi ra đường biết
đâu sẽ giúp mình
tránh được một tai
nạn xe cộ có thể xảy
đến với mình. Các
thí dụ cụ thể và đã
được đơn giản hóa
trên đây cho thấy
tác động của các
nghiệp khác nhau của
hai cá thể sẽ tạo ra
các thái độ khác
nhau trước cùng một
sự kiện giống nhau.
Kết quả đưa đến từ
hai thái độ đó cũng
sẽ khác nhau.
Nêu lên các
thí dụ trên đây là
để khẳng định rằng
khái niệm về nghiệp
không phải là một sự
giả định, suy đoán
hay dự đoán nào cả
mà là một sự hiểu
biết sắc bén và sâu
sắc về một quy luật
thiên nhiên chi phối
sự vận hành của các
trạng thái tâm thần
liên quan đến các
xúc cảm phát sinh từ
bên trong tâm thức,
hoặc là qua các sự
tiếp xúc với các
cảnh huống bên ngoài
và các mối giao tiếp
trong trong xã hội.
Những gì
trên đây cho thấy
nghiệp không phải là
một sự trừng phạt
hay khen thưởng do
một sức mạnh nằm bên
ngoài tâm thức một
cá thể, mà đơn giản
chỉ là quá trình tác
động của các xúc cảm
bên trong tâm thức
của cá thể ấy, trực
tiếp liên quan đến
cung cách hành xử
của chính cá thể ấy
trong quá khứ. Quá
trình đó khởi đầu
bằng một "hành
động", và "hành
động" ấy có thể là
một tác ý tức là một
tư duy mang tính
cách chủ tâm hay cố
tình nào đó, hoặc là
một ngôn từ hay một
động tác (hành động
trên thân xác) mang
một chủ đích rõ rệt.
Các tác ý, tư duy,
ngôn từ hay động tác
chủ tâm ấy luôn luôn
tạo ra các xúc cảm
kèm theo với chúng.
Các xúc cảm này sẽ
được ghi khắc và lưu
lại trên dòng luân
lưu không gián đoạn
của tri thức. Vào
một lúc nào đó khi
tiếp xúc với các
điều kiện thích nghi
và thuận lợi (tức là
các cơ duyên) thì
các vết hằn của các
xúc cảm ấy lại
chuyển thành các xúc
cảm mới và hiện ra
trong tâm thức, đưa
đến các tác ý, ngôn
từ hay hành động
khác. Quá trình níu
kéo và liên kết đó
sẽ không bao giờ
chấm dứt khi một cá
thể vẫn còn chưa
biết cách làm cho
các xúc cảm ấy không
còn ghi khắc hoặc
dấy lên được nữa.
Điểm thứ hai
cần giải thích thêm
là nghiệp sẽ nhờ vào
phương tiện nào và
cơ sở nào để có thể
tồn lưu và luân
chuyển xuyên qua các
yếu tố không gian và
thời gian. Đức
Đạt-lai Lạt-ma đã
giải thích rất rõ về
các điểm này. Ngài
cho biết tri thức là
một dòng luân lưu
liên tục (continuum)
gồm các "đơn vị"
mang bản chất thời
gian. Các "hành
động" tạo nghiệp
(tác ý, ngôn từ,
động tác mang tính
cách chủ tâm) sẽ làm
phát sinh ra các xúc
cảm, các xúc cảm này
sẽ lưu lại các "dấu
vết" trên các đơn vị
của dòng tri thức
(tương tự như các
dấu vết của trí
nhớ). Các dấu vết ấy
sẽ tác động với các
dấu vết cũ có sẵn
trong một đơn vị xảy
ra trước đó và tạo
ra các dấu vết khác.
Các dấu vết này lại
tiếp tục tác động
với các dấu vết mới
tạo ra bởi các xúc
cảm khác trong đơn
vị hiện ra tiếp theo
sau đó. Nếu trở lại
với thí dụ trên đây
về hai người đi
ngang một thớt thịt,
thì dù rằng cả hai
đã "quên" hình ảnh
miếng thịt mà họ
trông thấy lúc ban
ngày, thế nhưng các
dấu vết lưu lại bởi
các xúc cảm phát
sinh từ việc trông
thấy miếng thịt vẫn
tồn lưu trên dòng
tri thức của họ và
sẽ hiện ra trong
giấc mơ khi họ ngủ,
bởi vì trong khi
ngủ thì ngũ giác
ngưng nghỉ hay hoạt
động chậm lại, khiến
tri thức không còn
bị tràn ngập bởi các
xúc cảm dồn dập phát
sinh trong lúc thức,
nên các dấu vết xúc
cảm đã được ghi khắc
từ trước dễ hiện ra
dưới hình thức các
hình ảnh trong giấc
mơ. Chẳng hạn như
trong những lúc bận
rộn, chúng ta không
nhớ đến những chuyện
xảy ra trong quá
khứ, cũng không lo
tính đến các chuyện
tương lai, nhưng
trong những lúc ngồi
không thì lại cứ hay
nghĩ đến các chuyện
xưa, càng nghĩ lại
càng lo buồn tức
bực, càng lo buồn
tức bực lại càng
phóng tưởng vào
tương lai để mưu
tính các cách giúp
mình giải quyết các
mối lo buồn và bực
tức ấy. Cũng xin
mượn dịp này để cho
biết là phép chú tâm
vào một điểm của
người hành thiền là
cách giúp người này
không nghĩ đến quá
khứ cũng không phóng
tưởng vào tương lai.
Các dấu vết
do nghiệp lưu lại
trên dòng tri thức
không bao giờ mang
tính cách khô cằn và
bất động. Khi các
xúc cảm được cảm
nhận và bắt đầu ghi
khắc trên dòng tri
thức thì tức khắc nó
tương tác với các
dấu vết xúc cảm đã
có từ trước và làm
cho nó biến dạng đi,
các dấu vết biến
dạng này lại tiếp
tục tương tác với
các dấu vết mới tạo
ra bởi các xúc cảm
mới hiện ra sau đó
trên dòng tri thức.
Đó là phương cách
vận hành của nghiệp
trong tâm thức một
cá thể. Với mục đích
giúp người tu tập ý
thức được dễ dàng
hơn các tác động của
nghiệp đối với một
cá thể, người ta
thường đơn giản hóa
và phân loại nghiệp
thành ba thể dạng
khác nhau: nghiệp
không tốt lành (akusala-kamma)
nghiệp tốt lành (kusala-kamma)
và nghiệp trung hòa
tức không tốt cũng
không xấu (akusala-kammapatha).
Thế nhưng trên thực
tế thì nghiệp chuyển
động liên tục bằng
cách tương tác với
nhau, khiến sức mạnh
của chúng có thể gia
tăng hay giảm xuống
và khiến bản chất
của chúng biến dạng
không ngừng.
Trí nhớ cũng
là một thể dạng của
nghiệp, do đó phân
tích và tìm hiểu trí
nhớ cũng là một cách
giúp mình tìm hiểu
nghiệp. Tương tự như
nghiệp, trí nhớ khởi
sự bằng các hình
thức xúc cảm: xúc
cảm càng mạnh thì
trí nhớ càng đậm
nét. Mỗi khi lục
giác (ngũ giác và
tri thức) tiếp xúc
với một đối tượng:
trong trường hợp của
ngũ giác thì đối
tượng thuộc môi
trường bên ngoài,
trong trường hợp của
tri thức thì đối
tượng là một tư duy
hay xúc cảm bên
trong tâm thức
(chẳng hạn như sự
tức giận hay một sự
nhớ nhung nào đó
sinh ra từ một một
dấu vết trí nhớ
khác). Các xúc cảm
sinh ra từ các sự
tiếp xúc ấy sẽ được
ghi khắc trên dòng
luân lưu của tri
thức và có thể sẽ
hiện ra trở lại
trong tâm thức khi
gặp được các điều
kiện (cơ duyên)
thích hợp. Trên dòng
luân lưu của tri
thức các vết trí nhớ
có thể lu mờ, gay
gắt hơn, hoặc ngủ
yên, hoặc cũng có
thể bị xóa bỏ hẳn
dưới tác động của
các vết trí nhớ
khác. Cũng tương tự
như trường hợp của
nghiệp các vết trí
nhớ được dòng tri
thức chuyển tải
trong một khoảng
thời gian nào đó tùy
thuộc vào sức tác
động khác của các
dấu vết khác xảy ra
trên dòng tri thức.
Trong một vài trường
hợp các vết trí nhớ
có thể được tồn lưu
lâu dài hơn qua một
kiếp sống khác. Nhờ
đó một số người có
thể "nhớ lại" được
tiền kiếp của mình.
Các dấu vết trí nhớ
hiện lên trở lại
trên dòng tri thức
có thể tạo ra các
xúc cảm có thể là
tích cực hay tiêu
cực (hối hận, thương
tiếc, tuyệt vọng,
hân hoan, hạnh
phúc,...) ảnh hưởng
đến tư duy, ngôn từ
và hành động của một
cá thể.
Các khái
niệm căn bản và chủ
yếu của Phật Giáo
trên đây có thể giúp
tìm hiểu các nguyên
nhân sâu kín đưa đến
hành động tự tước
đoạt sự sống. Thiết
nghĩ các sự hiểu
biết đó của Phật
Giáo nếu được khai
thác và áp dụng rộng
rãi, phối hợp với
các sự hiểu biết
khoa học thì có thể
giúp cải thiện được
một tệ nạn thật đau
buồn mà xã hội con
người vẫn còn bất
lực và chỉ biết che
dấu một cách vụng
về. Sau đây chúng ta
hãy chuyển tầm nhìn
sang một hướng khác
nhằm tìm hiểu chi
tiết hơn vấn đề tự
tước đoạt sự sống
qua các quan điểm và
trường hợp khác nhau
nêu lên trong kinh
sách và qua dòng
lịch sử phát triển
của Phật Giáo.
Giới cấm và các quan
điểm về sự tự tước
đoạt
sự sống nêu lên
trong kinh sách
Phật Giáo là
một tín ngưỡng tự do
và phóng khoáng trên
mọi khía cạnh, từ
giáo lý đến các phép
tu tập, thế nhưng
cũng là một tín
ngưỡng xem trọng kỹ
luật và vô cùng khắt
khe trên phương diện
đạo đức. Trong số ba
tạng kinh căn bản và
chủ yếu nhất là Tam
Tạng Kinh, thì tạng
thứ nhất là Tạng
Luật. Trước hết
chúng ta sẽ tìm hiểu
sơ lược ý nghĩa về
các điều khoản
nghiêm cấm và các
biện pháp ngăn ngừa
trong Phật Giáo và
sau đó sẽ tìm hiểu
cặn kẽ hơn về một
vài khía cạnh và
tường hợp đặc biệt
liên quan đến giới
cấm sát sinh - trong
đó bao gồm cả trường
hợp tự tước đoạt sự
sống - nêu lên trong
kinh sách.
Các giới cấm và các
biện pháp ngăn ngừa
trong Phật Giáo
Phật Giáo là
một tín ngưỡng nêu
cao đạo đức, kỷ
cương và quy định
thật nhiều giới cấm.
Tuy tạng thứ nhất
trong Tam Tạng Kinh
được gọi là Luật
Tạng thế nhưng thật
ra Phật Giáo không
có một "bộ luật" hay
"giáo điều" nào nhằm
mục đích quy định và
xử phạt các tội phạm
cả, Phật Giáo chỉ
đưa ra các điều cấm
đoán không được vi
phạm, nhưng thật ra
đôi khi các điều cấm
đoán ấy cũng chỉ là
những lời khuyên nhủ
với mục đích giữ gìn
đạo đức (ethic) và
kỷ luật cho tăng
đoàn, với mục đích
mang lại một một nếp
sống tập thể hài hòa
và gương mẫu cho
những người tu tập.
Thật vậy đạo đức và
nếp sống tinh khiết
của người tu hành là
tấm gương cho người
thế tục soi chung.
Qua góc nhìn đó các
giới cấm không phải
là "chân lý", cũng
không phải là một
"sự thật" tuyệt đối
nào cả.
Vì thế đối
với Phật Giáo giới
cấm cũng có thể biến
đổi hầu thích nghi
với truyền thống,
với các nền văn hóa
khác nhau và sự tiến
hóa của xã hội. Trên
dòng lịch sử phát
triển của Phật Giáo
cũng có một số giới
cấm được thêm vào
hay bớt đi. Điển
hình nhất là sự khác
biệt giữa Phật Giáo
Theravada và Phật
Giáo Đại Thừa đối
với một số giới cấm
thứ yếu. Phật Giáo
Theravada đưa ra 227
giới cho người
tỳ-kheo và 311 giới
cho người tỳ-kheo
ni, còn đối với Phật
Giáo Đại Thừa thì
người tỳ-kheo phải
tuân thủ 250 giới và
người tỳ-kheo ni 348
giới. Thật ra các
giới cấm này cũng
chỉ là để áp dụng
cho người xuất gia.
Đối với người thế
tục thì chỉ cần tuân
thủ 5 hay 8 giới cấm
là đủ. Chỉ có một
điều vô cùng đáng
tiếc là một số những
người tu hành ngày
nay tự động giảm đi
rất nhiều các giới
cấm đó và quên rằng
giữ gìn gíới cấm là
một phép tu căn bản
nhất trong số ba
phép tu là: tu giới,
tu định và tu tuệ.
Nếu không thực hiện
được phép tu giới
thì không thể nào có
thể tu định và tu
tuệ được.
Nếu đã nói
đến giới cấm thì tất
cũng phải dự trù các
biện pháp ngăn ngừa
hay trừng phạt nếu
có sự vi phạm. Thế
nhưng Phật Giáo cũng
chỉ đưa ra một biện
pháp trừng phạt duy
nhất là khai trừ
khỏi tăng đoàn
trong một thời gian
dài hay ngắn, nhưng
cũng có thể là vĩnh
viễn nếu vi phạm
các giới cấm quan
trọng, đi ngược lại
với Đạo Pháp và lý
tưởng của người tu
hành. Riêng đối với
người thế tục thì
không có một biện
pháp trừng phạt nào
đối với họ. Tu tập
Phật Giáo là một sự
tự nguyện đối với
người xuất gia cũng
như người thế tục.
Trên nguyên
tắc thì người
tỳ-kheo phải thuộc
lòng tất cả các giới
luật và ít nhất là
tất cả các bài kinh
trong Trung A Hàm.
Vào các thời kỳ phát
triển đầu tiên của
Phật Giáo, mỗi tối
hoặc ít nhất là vào
ngày rằm mỗi tháng,
tăng đoàn phải họp
nhau nghe giảng, ôn
lại kinh kệ và sám
hối tức là phải tự
xét xem mình có phạm
vào giới cấm nào hay
không. Một vị tỳ
kheo được đề cử đọc
lên các giới cấm,
nếu quên thì các
người khác nhắc, các
vị ngồi nghe nếu
thấy mình phạm vào
giới nào thì phải
thú nhận, tăng đoàn
sẽ quyết định biện
pháp: hoặc cảnh
giác, hoặc khai trừ
trong một thời gian
nào đó.
Trên một
bình diện khác tất
cả chúng ta đều hiểu
rằng Đức Phật rất
xót thương con
người, nhất là đối
với những người yếu
đuối, u mê và lầm
lẫn. Trái với các
tôn giáo hữu thần,
Đức Phật không phải
là một vị quan tòa,
Ngài không xét xử ai
cả, cũng không trừng
phạt ai cả, việc
thưởng phạt là hậu
quả mang lại từ hành
động của mình tức là
nghiệp mà mình tự
tạo ra cho mình.
Trong khi đó thì
trong các tôn giáo
hữu thần đều có một
Đấng Tối Cao nắm giữ
vai trò thưởng phạt.
Hình phạt trong các
tôn giáo này có thể
là bị ném đá, chặt
tay, đưa lên giàn
hỏa, v.v. Thí dụ các
tội không tin có
Trời, không theo đạo
hay bỏ đạo, hoặc
phạm thượng
(blasphème/blasphemy/lộng
ngôn, bất kính) là
các tội lớn nhất,
bởi vì có thể khiến
cho Trời nổi giận mà
gây ra tai họa cho
xã hội, và nếu phạm
vào các tội này thì
sẽ bị tử hình. Các
trọng tội khác liên
quan đến các vấn đề
tính dục, nhất là
tội ngoại tình. Thật
vậy tính dục là một
vấn đề ám ảnh con
người từ muôn thuở,
liên quan đến bản
năng truyền giống
của tất cả mọi sinh
vật nói chung. Nếu
đã là bản năng
truyền giống thì
phải là giống của
mình. Người phụ nữ
cũng chẳng khác gì
nam giới cũng biết
chọn giống phù hợp
và tốt nhất cho
mình, thế nhưng tội
ngoại tình thì nặng
hơn hoặc chỉ dành
riêng cho người phụ
nữ. Trong Ấn Giáo
người phụ nữ phạm
vào tội này sẽ bị xử
tử bằng cách cho chó
phân thây, đối với
các tôn giáo hữu
thần khác thì người
phụ nữ sẽ bị ném đá
cho đến chết. Ngoài
ra Ấn Giáo cũng đặc
biệt dự trù hình
phạt này đối với nam
giới nhưng chỉ trong
trường hợp một người
đệ tử ngủ với vợ của
vị đạo sư (guru) của
mình, người này sẽ
bị đưa lên giàn hỏa
hoặc bị thiến. Ngày
nay các hình phạt
này gần như không
còn áp dụng
nữa.
Tạng Luật (Vinaya)
nêu lên ngay trong
tập thứ nhất
(Parajika kanda)
bốn giới cấm nghiêm
trọng nhất trong số
hàng trăm các giới
cấm khác. Bốn giới
cấm này là: 1) không
được dâm dục (bất
dâm), 2) không được
lấy những gì mà
người khác không cho
mình (bất đạo), 3)
không được giết hại
chúng sinh, trong đó
kể cả có ý tự giết
mình, giết người
khác hoặc nhờ người
khác giết mình (bất
sát), 4) không được
nói dối hoặc nói
những lời thô bỉ
(bất vọng ngữ). Bốn
giới này được gọi là
bốn giới parajika
tức có nghĩa là nếu
vi phạm các giới này
sẽ bị khai trừ vĩnh
viễn khỏi tăng đoàn.
Chữ parajika
nguyên nghĩa trong
tiếng Pa-li là bị
khai trừ, các
kinh sách gốc Hán
ngữ dịch âm là
ba-la-di, và bốn
giới cấm ba-la-di
thì gọi là Tứ
trọng tội, cách
gọi này không được
thích nghi lắm bởi
vì như đã được giải
thích trên đây các
thuật ngữ đại loại
như tội phạm, hình
phạt, các biện pháp
trừng trị v.v. trên
nguyên tắc không phù
hợp với Phật Giáo.
Xin ghi chú thêm là
trong bản dịch kinh
Phạm Võng Thích Trí
Tịnh đã dịch chữ
parajika là
"Bồ-tát Ba La Di
tội".
Giới bất sát trong
Phật Giáo
Như đã được
nói đến trên đây
giới "bất sát" là
giới cấm đứng hàng
thứ ba trong số bốn
giới cấm ba-la-di
và được Tạng Luật
định nghĩa như sau:
"Nếu một
người tỳ kheo chủ
tâm tước đoạt sự
sống của một người
khác, hoặc nhờ người
khác hạ sát thay
mình, hoặc hô hào sự
lợi ích của cái
chết, hoặc xúi dục
kẻ khác tự sát, hoặc
để cho ý nghĩ ấy hay
chủ tâm ấy dấy lên
trong tâm thức mình,
thì sẽ bị khai trừ
vĩnh viễn khỏi tăng
đoàn".
Qua
cách định nghĩa trên
đây chúng ta thấy
rằng hành động tự
tước đoạt sự sống
chỉ được gián tiếp
nêu lên dưới hình
thức các ý nghĩ tự
sát, nhờ người khác
giết hoặc xúi dục
người khác sát nhân.
Tuy nhiên trong kinh
Di-lan-đà vấn đạo
kinh (Milandapanha)
ghi lại cuộc đàm
thoại giữa vua
Di-lan-đà (Milanda,
thế kỷ thứ II trước
Tây lịch) và nhà sư
Na-tiên (Nagasena,
thuộc học phái
Sarvastivada/Nhất
Thiết Hữu Bộ, một
học phái xưa đã mai
một) có một câu phát
biểu của nhà sư này
như sau: "Này các
tỳ-kheo, không được
đâm đầu xuống vực
thẳm, nếu có ai làm
việc ấy thì sẽ bị
trừng phạt", có
thể đây là trường
hợp duy nhất trong
kinh sách chỉ định
trực tiếp hành động
tự tước đoạt sự sống
của một người tu
hành (?). Cũng xin
ghi chú thêm là kinh
Di-lan-đà là
một bản kinh khá
xưa, xuất hiện vào
khoảng 100 năm trước
kỷ nguyên. Phật Giáo
Miến Điện xếp kinh
này chung trong Kinh
Tạng, nhưng Phật
Giáo Tích Lan và
Thái Lan thì lại
không xem kinh này
là chính thống. Kinh
Di-lan-đà rất được
Đại Thừa ưa chuộng
và ít nhất có hai
bản dịch sang Hán
ngữ. Nếu hiểu theo
câu nói của nhà sư
Na-tiên, nếu nhảy
xuống vực thẳm mà
không chết thì mới
bị trừng phạt, và
trong câu định nghĩa
về giới bất sát
trong Luật Tạng thì
cũng chỉ cần mưu
tính tự sát hoặc có
ý định nhờ tay người
khác giết, thì cũng
đủ để bị khai trừ
khỏi tăng đoàn.
Trong cả hai trường
hợp nếu cái chết
không xảy ra với
mình thì mới có thể
áp dụng biện pháp
ba-la-di được.
Ngoài ra
giới cấm bất sát còn
được áp dụng cho cả
việc hiến sinh
(sacrifice/sát sinh
trong mục đích tế lễ
và cúng dường), là
một nghi lễ quan
trọng và phổ biến
trong đạo Bà-la-môn
vào thời kỳ Đức Phât
còn tại thế (hiến
sinh đối với một số
tín ngưỡng cũng có
thể là sự hiến sinh
sự sống của chính
mình hay của kẻ
khác). Đức Phật
tuyệt đối cấm đoán
các hình thức nghi
lễ hiến sinh này.
Xin trích dẫn một
đoạn trong một quyển
sách của học giả
Odon Vallet như sau:
"Đối với vấn đề
hiến sinh thì Đức
Phật cấm đoán một
cách dứt khoát khi
Ngài nói với những
người Bà-la-môn như
sau: "Giết thì thật
hết sức dễ, thế
nhưng bảo toàn sự
sống thì quả là khó
khăn vô cùng. Do đó
sự hiến sinh tự nó
là một việc vô ích".
Thật vậy các
người Bà-la-môn giết
chúng sinh để tế lễ
các vị trời là một
hành động không mang
một ý nghĩa nào cả,
khi mà các vị trời
ấy hoàn toàn bất lực
trong việc làm cho
khổ đau phải chấm
dứt. Tốt hơn hết là
phải bảo vệ sự sống
và chỉ nên giết các
thứ dục vọng trong
lòng mình"
(trích trong quyển
Jesus et Bouddha
của Odon Vallet,
Albin Michel, 1999,
trang 72-73. Odon
Vallet là một học
giả hàng đầu của
Pháp về tôn giáo nói
chung, và đặc biệt
là rất uyên bác về
Phật Giáo).
Trở lại với
Tạng Luật thì giới
cấm bất sát - trong
đó kể cả các mưu
tính tự sát - chỉ
đứng hàng thứ ba
trong số bốn trọng
tội ba-la-di.
Nếu một người
tỳ-kheo có các ý
nghĩ ấy thì hiển
nhiên là một người
mang các triệu chứng
tâm thần mất thăng
bằng, không thể tu
tập được mà chỉ mang
lại tai tiếng cho
tăng đoàn mà thôi.Thật
vậy nếu trong tăng
đoàn có một vị phạm
vào giới này thì quả
thật hình ảnh cao
đẹp của những người
từ bỏ gia đình không
sao tránh khỏi phải
bị sứt mẻ. Các giới
cấm nghiêm trọng
khác là bất dâm, bất
đạo và bất vọng ngữ
cũng là nhằm vào mục
đích ấy.
Vào các thời
kỳ khi Đức Phật còn
tại thế và nhiều
trăm năm sau đó
trong thung lũng
sông Hằng, giới bất
sát được áp dụng một
cách nghiêm nhặt
đúng với ý nghĩa nêu
lên trong Tạng Luật.
Thế nhưng xã hội,
văn hóa, tư tưởng
đều biến đổi với
thời gian, Phât Giáo
thì cũng bành trướng
ra khỏi biên giới Ấn
kể từ thế kỷ thứ III
trước Tây lịch dưới
triều đại của vua
A-dục. Đặc biệt nhất
là vào thế kỷ thứ I
sau Tây Lịch Phật
Giáo đã theo con
đường tơ lụa để tiếp
xúc với nền văn hóa
lâu đời của Trung
Quốc, một nền văn
hóa hoàn toàn xa lạ
và khác biệt với nền
văn hóa Ấn Độ, nơi
mà Phật Giáo đã được
hình thành từ sáu
thế kỷ trước đó.
Trên mảnh đất mới
này Phật Giáo phát
triển rất nhanh với
nhiều đường hướng
mới hầu thích nghi
với tính khí, tư
tưởng, phong tục và
cả ngôn ngữ của dân
tộc Hán. Đồng thời
vào thế kỷ thứ I sau
Tây Lịch trong thung
lũng sông Hằng cũng
bắt đầu hình thành
một đường hướng tu
tập mới gọi là Đại
Thừa. Qua các đường
hướng phát triển mới
của Phật Giáo ở
Trung Quốc và qua sự
hình thành của Đại
Thừa trên đất Ấn,
giáo huấn của Đức
Phật cũng khó tránh
khỏi các hình thức
diễn đạt cũng như
các đường nét khai
triển mới. Vậy chúng
ta hãy thử tìm hiểu
xem giới bất sát và
quan niệm về sự tự
tước đoạt sự sống đã
biến đổi như thế nào
qua các đường hướng
phát triển mới ấy,
tức là sau giai đoạn
hình thành và phát
triển đầu tiên của
¨Phật Giáo kéo dài
sáu thế kỷ trong
thung lũng sông
Hằng.
Một vài quan điểm về
sự tự tước đoạt sự
sống khác hơn với
giáo lý nêu lên
trong Tam Tạng Kinh
Trước khi
đưa ra bất cứ một
phán đoán hay nhận
định nào về vấn đề
tự tước đoạt sự sống
theo các quan điểm
của Phật Giáo dù là
theo chiều hướng
nào, thiết nghĩ
trước hết phải lưu ý
đến hai khái niệm
căn bản và chủ yếu
của Phật Giáo là
khái niệm về nghiệp
và sự tái sinh. Như
đã nói trong phần
trước, khái niệm về
nghiệp cho biết là
bất cứ một hành động
nào cũng đều đưa đến
một hậu quả mang
cùng một bản chất
với nó. Nếu sự tự
tước đoạt sự sống là
một hành động mang
bản chất tiêu cực và
hung bạo, thì tất nó
sẽ phải đưa đến một
sự hình thành khác
mang cùng một bản
chất với nó. Điều ấy
có nghĩa là đối với
Phật Giáo sự tự tước
đoạt sự sống không
mang lại một sự chấm
dứt nào cả mà chỉ là
cách tạo ra cho mình
những khổ đau khác
có thể còn trầm
trọng hơn thế nhiều.
Điều thứ hai cần
phải lưu tâm và suy
xét là Phật giáo
không xem sự sống là
một đặc ân hay một
hình thức ban tặng
của một vị Trời Sáng
Tạo nào cả, do đó
việc tự tước đoạt sự
sống không phải là
một hành động bất
tuân hay chống lại ý
chí của Trời. Phật
Giáo cũng không xem
sự sống là duy nhất,
mà sự sinh và cái
chết cũng chỉ là các
thể dạng tiếp nối
nhau và xoay vần bất
tận. Sự sinh tạo
điều kiện để cái
chết xảy ra, và cái
chết tạo điều kiện
để sự sinh hình
thành. Người tu tập
phải biết mang lại
cho sự sống và cái
chết của mình một ý
nghĩa nào đó, không
nên để cho sự sống
trở thành một sự bám
víu và cái chết phải
là một cách chuẩn bị
cho một sự hình
thành tốt đẹp hơn.
Long Thụ
trong tập Đại Trí
Độ Luận (Mahaprajnapamita-sastra)
không xem hành động
tự tước đoạt sự sống
là một tội lỗi, bởi
vì hành động đó
không gây ra cái
chết cho người khác
hay một chúng sinh
nào cả. Hơn thế nữa
thân xác và sự sống
của mình là kết quả
mang lại từ các
nghiệp lành trong
quá khứ, nếu cần
phải hy sinh những
điều xứng đáng ấy
thì đấy cũng sẽ là
một dịp giúp mình
mang lại lợi ích cho
kẻ khác. Bản sinh
kinh (Jataka-sutta),
còn gọi là
Jatakamala/Vòng hoa
hay chuỗi hạt tiền
kiếp. "Kinh" này
tuy được xếp vào
Tiểu Bộ Kinh thế
nhưng chỉ là những
câu chuyện ngụ ngôn
mang tính cách đại
chúng, nhiều cốt
chuyện mượn ý từ các
chuyện cổ tích Ấn
Độ, vì thế kinh này
hiển nhiên không
phải là những lời
thuyết giảng của Đức
Phật, mà chỉ thuộc
vào thể loại
"kinh sách xuất hiện
muộn". Kinh
thuật lại nhiều câu
chuyện về các tiền
thân của Đức Phật,
trong các câu chuyện
này các vị bồ-tát
tiền thân của Đức
Phật vì lòng từ bi
vô biên đã hy sinh
mạng sống của mình
để cứu giúp chúng
sinh đang lâm vào
cảnh đói khát và
tuyệt vọng. Chẳng
hạn trong một tiền
kiếp Ngài đã nhảy
xuống một vực sâu
làm mồi cho một con
cọp mẹ vì quá đói
chực ăn các con mình
vừa mới sinh. Trong
một tiền kiếp khác
Ngài tự biến thành
một con thỏ và nhảy
vào một đống lửa để
làm thức ăn cho một
người tu khổ hạnh
sắp chết vì quá đói.
Vị bồ-tát tiền thân
Đức Phật nhảy xuống
vực sâu để nuôi một
con cọp mẹ sắp ăn
thịt các con của
mình vừa mới sinh.
Tranh vẽ trên vách
đá trong động Đôn
Hoàng, Trung Quốc.
Các câu
chuyện trên đây nêu
lên tấm gương hy
sinh thân xác mình
vì lý tưởng từ bi,
thế nhưng qua dòng
lịch sử phát triển
của Phật Giáo người
ta còn thấy nhiều
trường hợp tự "từ
bỏ thân xác tạm bợ"
của mình vì lý tưởng
bảo vệ Đạo Pháp,
hoặc để phản kháng
và chống lại những
gì sai lầm và bất
công trong xã hội,
chẳng hạn như các
trường hợp tự thiêu.
Trong quyển Phật
Giáo và sự Hung Bạo
(Bouddhisme et
Violence, Le
Cavalier Bleu, 2008,
Paris) học giả
Bernard Faure (một
học giả Pháp cựu
giáo sư giảng dạy về
Phật Giáo tại đại
học California, nay
đã về hưu và đã trở
về Pháp được vài năm
nay) cho biết là
hiện tượng tự thiêu
đã từng xảy ra từ
thế kỷ thứ V ở Trung
Quốc, và cho biết
thêm là hành động
này có thể đã bắt
nguồn từ Kinh Hoa
Sen (Saddharmapundrika-sutra/Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh).
Bộ kinh này được
trước tác làm nhiều
lần trong khoảng
thời gian giữa thế
kỷ thứ I trước Tây
lịch và thế kỷ thứ I
sau Tây Lịch. Trong
một phân đoạn của
kinh này có nêu lên
trường hợp Bồ-tát
Dược Vương
(Baishajyaraja. Xin
nhắc thêm là trong
bản Việt dịch của
kinh Hoa Sen có nhắc
đến vị Bồ-tát này ở
chương XXIII), đã tự
hủy hoại sự sống của
mình với mục đích
hiến dâng thân xác
cho Phật. Vị sư này
đã nuốt thật nhiều
nhang, xức dầu đàn
hương và biến mình
thành một ngọn đuốc
cháy liên tục suốt
1200 năm. Dược Vương
nhờ những điều xứng
đáng ấy lại được tái
sinh dưới thể dạng
một vị bồ-tát khác.
Ngoài ra học
giả Bernard Faure
còn nêu lên thêm một
số trường hợp của
các nhà sư khác đã
từng hiến dâng sự
sống hoặc một phần
thân thể mình với
mục đích bảo vệ Đạo
Pháp và phản kháng
các chính sách đàn
áp Phật Giáo của các
triều đình Trung
Quốc. Năm 574 nhà sư
Đạo Tế (Daoji) cùng
với bảy vị đồng tu
khác đã tự hủy hoại
sự sống của mình để
phản đối chánh sách
ngược đãi Phật Giáo
dưới triều đại Bắc
Chu (557-581). Đây
là pháp nạn thứ ba
và cũng là một trong
các Pháp nạn lớn
nhất xảy ra trên đất
nước Trung Quốc. Nhà
sư Đại Trí (Dazhi)
tự đốt một cánh tay
để phản đối sự ngược
đãi Phật Giáo của
Tùy Dạng Đế (Sui
Yang Di, 567-609),
và thương tích trên
cánh tay ông đã làm
độc khiến ông chết
sau đó. Các chi tiết
trên đây đã được tác
giả Bernard Faure
tìm thấy trong một
quyển sách của Trung
Quốc mang tựa là
"Các nhà sư nổi
tiếng". Ngoài ra
Bernard Faure còn
cho biết là quyển
sách này đã nêu lên
hơn năm mươi trường
hợp tự thiêu và
quyển sách cũng đã
hết lời khen ngợi
những hành động này.
Theo sự tra cứu thêm
của người viết bài
này thì quyển sách
trên đây được trước
tác vào thế kỷ thứ
VI, mang tựa là
"Cao Tăng Truyện"
(Kao Sheng
Tchouan) tác giả
là nhà sư Huệ Giáo
(Houei Kiao), và đã
được Viện Đông
Phương Học của Bỉ
đặt tại thành phố
Louvain dịch sang
tiếng Pháp với tựa
là
"Bibliographies des
moines éminents"
(Tiểu sử các nhà
sư nổi tiếng),
dịch giả là Robert
Shih (Bibliothèque
du Museum, Louvain,
1968, XII. Dường như
chưa có bản dịch
tiếng Việt nào của
quyển sách này).
(Ngoài ra người viết
cũng xin mạn phép
lưu ý là dù trích
dẫn nhiều lần quyển
sách của Bernard
Faure, thế nhưng đấy
không phải là một
cách giới thiệu các
sách của học giả
này. Theo thiển ý
thì các sách của ông
có thể góp phần vào
việc nghiên cứu và
mang lại nhiều kiến
thức, thế nhưng
không thật sự góp
phần thiết thực vào
việc tu tập. Ông
thường nêu lên nhiều
chi tiết và sử dụng
phương pháp suy diễn
(deduction) thường
thấy trong cách viết
của một số triết gia
mang ít nhiều định
kiến/intentional).
Trường hợp của kinh
Phạm Võng
Kinh Phạm
Võng có hai phiên
bản khác nhau: một
bằng tiếng Pa-li (Brahmajala-sutta,
Trường Bộ Kinh, DN
1) có nghĩa là
Lưới Trời (Brahma
là Phạm Thiên/Trời,
jala là tấm
lưới), và một bằng
tiếng Hán được xem
là dịch từ một bản
kinh gốc tiếng Phạn
mang tựa
Brahmajala-sutra,
và thường được cho
là do Cưu-ma-la-thập
(344-413, một nhà sư
Trung Quốc rất thông
thái chuyên dịch
kinh sách từ tiếng
Phạn sang tiếng Hán)
đích thân hiệu đính.
Thế nhưng các học
giả Tây Phương đều
xem bản kinh Phạm
Võng bằng tiếng Hán
này là một ngụy tác
(texte
apocryphe/apocryphal
text), bởi vì không
có một phiên bản nào
về bản kinh này bằng
tiếng Phạn cả, và do
đó họ cho rằng bản
kinh bằng tiếng Hán
đã được trước tác
tại Trung Quốc. Các
bằng chứng ngụy tác
của bản kinh này
thật hết sức lộ liễu
và do đó đã được các
học giả Tây Phương
xem là một trường
hợp điển hình và
tiêu biểu về các
kinh sách "không
chính thống" được
trước tác tại Trung
Quốc, nhưng được cho
là dịch từ tiếng
Phạn (đây cũng là
quan điểm của
Philippe Cornu trong
quyển Tự điển
Bách Khoa Phật Giáo
- Dictionnaire
Encyclopédie du
Bouddhisme, tr.
103).
Nội dung của
hai bản kinh bằng
tiếng Pa-li và tiếng
Hán này cho thấy một
sự khác biệt nổi
bật: kinh Phạm Võng
gốc Hán ngữ chú
trọng đến giới luật
và lên án nặng nề
hành động tước đoạt
sự sống bằng cách
đặt giới "bất sát"
lên hàng thứ nhất
trong số mười giới
trọng. Phạm vào một
trong số mười giới
này sẽ bị khép vào
"hình phạt" Bồ-tát
Ba-la-di tội (parajika),
tức là bị khai trừ
vĩnh viễn khỏi tăng
đoàn. Xin trích dẫn
giới cấm này trong
kinh Phạm Võng Hán
ngữ theo bản dịch
của Thích Trí Tịnh:
IV.- MƯỜI GIỚI
TRỌNG :
Đức Phật bảo các
Phật-Tử rằng :
Có mười điều giới
trọng. Nếu người thọ
giới Bồ-Tát mà không
tụng điều giới nầy,
thời người ấy không
phải Bồ-Tát, không
phải Phật-Tử. Chính
ta cũng tụng như vậy
(thiết
nghĩ Đức Phật là một
vị Thầy thuyết giảng
các tư tưởng siêu
việt thì không ngồi
tụng các giới cấm do
chính mình đưa ra).
Tất cả Bồ-Tát đã
học, sẽ học và đương
học. Đã lược giảng
xong tướng-trạng của
giới Bồ-Tát cần nên
học, hết lòng
kính-trọng
phụng-trì. Đức Phật
dạy :
1- Giới sát sanh:
"Nếu Phật-Tử,
hoặc tự mình giết,
bảo người giết,
phương cách (?)
giết, khen tặng sự
giết, thấy giết mà
tùy-hỉ, dẫn đến dùng
bùa chú để giết:
Nhân giết, duyên
giết, cách-thức
giết, nghiệp giết.
Phàm tất cả loài
hữu-tình có mạng
sống đều không được
cố ý giết. Là
Phật-Tử, lẽ ra phải
luôn luôn có lòng
từ-bi, lòng
hiếu-thuận, lập thế
cứu giúp tất cả
chúng-sanh, mà trái
lại tự phóng tâm nỡ
lòng sát-sanh,
Phật-Tử này phạm
Bồ-Tát Ba-La-Di tội.
Trong khi đó
thì bản kinh Phạm
Võng bằng tiếng
Pa-li lại là một bản
kinh triết học vô
cùng sâu sắc, khúc
triết và cao siêu.
Tuy trong phần đầu
của bản kinh cũng có
nêu lên các giới cấm
thế nhưng chỉ xem là
thứ yếu (minor
details of mere
moral virtue, theo
bản dịch tiếng Anh
của Bhikkhu Bodhi).
Việc đặt đạo đức
xuống hàng thứ yếu
có thể là một cách
làm nổi bật các vấn
đề triết học siêu
hình vô cùng cao
siêu của kinh này
(có thể xem bản dịch
tiếng Anh của
Bhikkhu Bodhi:
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/dn/dn.01.0.bodh.html.
Ít nhất có ba bản
Việt dịch của kinh
này: một bản của HT
Thích Minh Châu
(1991) dựa vào bản
gốc tiếng Pa-li,
một bản của Tỳ-kheo
Giác Lộc (2000) dựa
vào bản dịch tiếng
Anh của Rhuys Davids
(đầu thế kỷ XX), và
bản dịch của HT
Thich Minh Châu đã
được Bình An Sơn
hiệu đính (2004) dựa
vào một bản dịch
tiếng Anh của một
người Anh là Maurice
Walshe (1997). Dầu
sao các bản Việt
dịch này cũng còn
quá nhiều chữ Hán
khó hiểu đối với một
số người đọc). Theo
các học giả Tây
Phương thì việc lên
án gắt gao giới bất
sát trong kinh Phạm
Võng gốc Hán ngữ -
được trước tác vào
cuối thế kỷ thứ VI
trong bối cảnh Pháp
nạn thứ hai (570) ở
Trung Quốc dưới
triều đại của Chu Võ
Đế thuộc nhà Bắc Chu
- mang hậu ý chính
trị nhiều hơn là Đạo
Pháp. Việc nhấn mạnh
đến giới "bất sát"
và đặt gìới này lên
hàng đầu trong tất
cả các giới cấm có
thể là mang chủ đích
ngăn ngừa các nhà sư
tự thiêu phản đối
chính sách diệt Phật
Giáo do vương triều
chủ trương thời bấy
giờ.
Trở lại với
quyển sách Phật
Giáo và sự hung bạo
của Bernard Faure
thì chúng ta cũng
thấy học giả này nêu
lên trường hợp tự
thiêu của Bồ-tát
Thích Quảng Đức năm
1963, và sau đó cùng
trong năm này cũng
đã có bảy vị khác đã
tự thiêu, với mục
đích phản đối chiến
tranh và tố cáo
chính sách kỳ thị
tôn giáo của chính
quyền Ngô Đình Diệm
thời bấy giờ.
"Những người Phật
Giáo Việt-Nam lúc đó
đang trong một tình
thế bất ổn
(uncomfortable):
không được chính
quyền Nam Việt Nam
(vì nằm trong tay
người Thiên Chúa
Giáo và bị người Mỹ
lèo lái) và cả khối
Việt Cộng theo cộng
sản ủng hộ, họ bị
gạt ra khỏi chính
trường" (trích
dịch nguyên văn).
Cũng xin nhắc thêm
là gần đây hàng trăm
người Tây Tạng cũng
đã tự thiêu để phản
đối chính sách diệt
chủng của chính
quyền Trung Quốc.
Bồ-tát Thích
Quảng Đức tự
thiêu năm
1963
Hai quan điểm về
trường hợp tự thiêu
của Bồ-tát Thích
Quảng Đức
Khi nêu lên
hành động tự thiêu
của Bồ-tát Thích
Quảng Đức học giả
Bernad Faure cũng có
trích dẫn hai quan
điểm khác nhau về sự
cố này: một của nhà
sư Walpola Rahula
(1906-1997, là một
trong số các nhà sư
uyên bác và uy tín
nhất của Tích Lan
trong thời kỳ hiện
đại) và một của
thiền sư Thích Nhất
Hạnh (1926-, là một
trong số các nhà sư
Việt Nam hiếm hoi có
thể giảng cho người
Tây Phương nghe và
viết cho người Tây
Phương đọc).
Nhà sư
Walpola
Rahula
(1906-1997)
Theo nhà sư Walpola
Rahula thì hành động
này dù là dũng cảm
vô song đi nữa thì
cũng không phù hợp
với giáo huấn đích
thật của Đức Phật.
Thật vậy hành động
tự thiêu phạm vào
một trong bốn giới
cấm ba-la-di
nêu lên trong Tạng
Luật. Thế nhưng
trong giáo lý của
Phật Giáo Theravada
người ta cũng có thể
tìm thấy khái niệm
về thân xác "dư
thừa" của một vị
A-la-hán sau khi đã
đạt được giác ngộ.
Theo khái niệm này
thì một vị tỳ-kheo
sau khi đã trở thành
một vị A-la-hán thì
thân xác của mình
chỉ là một sự "dư
thừa", một tổng thể
cấu hợp vật chất
thuộc vào kiếp nhân
sinh cuối cùng của
mình mà thôi. Dù có
phải lìa bỏ sự "dư
thừa" đó bằng cách
này hay cách khác,
thì cũng không còn
là một vấn đề quan
trọng nữa. Dưới một
khía cạnh khác thiết
nghĩ cũng cần thận
trọng trước khi
khẳng định một điều
nào đó đích thật hay
không đích thật là
do Đức Phật thuyết
giảng. Phật Giáo
Theravada cũng chỉ
là một học phái duy
nhất trong số gần 30
học phái được hình
thành trong thời kỳ
"dọ dẫm" và truyền
khẩu kéo dài nhiều
trăm năm sau khi Đức
Phật tịch diệt, và
vẫn còn tồn tại đến
nay. Chính nhà sư
Walpola Rahula cũng
đã từng nêu lên sự
kiện này qua câu
phát biểu sau đây:
"Tất cả các
"thừa" (yana) từ Kim
Cương Thừa, Đại
Thừa, Tiểu Thừa,
Theravada, v.v. tất
cả đều được hình
thành vào các thời
kỳ hậu Đức Phật",
điều này có ý nói
lên là tất cả các
thừa Phật Giáo không
có thừa nào thật sự
hoàn toàn trung thực
với giáo lý của Đức
Phật cả (trích câu
trả lời của nhà sư
Walpola Rahula trong
một cuộc phỏng vấn
ngày 17 tháng 7 năm
1994 tại một ngôi
chùa Theravada trong
vùng ngoại ô phía
bắc Paris). Thật vậy
ngay cả Tam Tạng
Kinh cũng không hoàn
toàn trung thực với
những lời do chính
Đức Phật thuyết
giảng, bởi vì qua
hàng trăm năm truyền
khẩu cũng khó tránh
khỏi một vài sai
lệch và thêm thắt.
Nghiên cứu, học hỏi
và tìm hiểu Phật
Giáo rất khó là như
vậy.
Thiền sư
Thích Nhất
Hạnh
Mặt khác học giả
Bernard Faure cũng
cho biết là theo
thiền sư Thích Nhất
Hạnh thì hành động
tự thiêu của Bồ-tát
Quảng Đức không phải
là một sự tự sát
thông thường, có
nghĩa là một hành
động tự hủy diệt sự
sống của mình vì
tuyệt vọng mà là một
sự tự nguyện thúc
đẩy bởi lòng từ bi.
Học giả Bernard
Faure cho biết là
thiền sư Nhất Hạnh
còn so sánh trường
hợp của Bồ-tát Quảng
Đức với trường hợp
của Chúa Giê-su.
Thiết nghĩ sự so
sánh này có thể hơi
đi quá xa. Dù rằng
chủ đích của hai
trường hợp đó có
giống nhau đi nữa
thế nhưng bản chất
thì thật khác nhau:
một đằng là một sự
tự nguyện, một đằng
là một sự hành quyết
bởi kẻ thù của mình.
Dầu sao thì sự tự
thiêu của Bồ-tát
Quảng Đức cũng đã
đánh thức được lòng
người trong nước
cũng như ngoài nước
và đưa đến một khúc
quanh lịch sử của xứ
sở vào thời bấy giờ.
Thật ra bất cứ một
sự kiện hay biến cố
nào cũng chỉ mang ý
nghĩa trong một bối
cảnh không gian và
thời gian nhất định
mà thôi, những gì
tiếp tục xảy ra sau
đó chỉ là các kết
quả mang lại từ sự
tương liên và tương
kết với thật nhiều
các biến cố và sự
kiện khác nữa.
Sau hết cũng
xin nêu lên quan
điểm của Đức Đạt-lai
Lạ-ma về vấn đề tự
tước đạt sự sống qua
một cuộc phỏng vấn
trong chương trình
Phật Giáo trên đài
truyền hình Pháp
ngày 1 tháng 10 năm
2000 với chủ đề
"Nền tảng đạo đức
nào cho thiên niên
kỷ thứ III"?
(...)
Hỏi (bà Cathérine
Barry): Vậy thì có
thể bảo rằng có một
khía cạnh đạo đức
nào đó mà người ta
không mấy quan tâm:
đấy chính là thái độ
hành xử đối với
chính mình, tức là
không được phép làm
phương hại đến bản
thân mình, như người
ta thường thấy xảy
ra trong các xã hội
[Tây Phương] chúng
tôi. Thật vậy các xã
hội đó đang gặp phải
nhiều khó khăn bởi
vì có quá nhiều các
người bị bệnh trầm
cảm, thù ghét chính
mình và tệ nạn tự
tử.
Đáp (Đức Đạt-lai
Lạt-ma): Sự kiện đó
quả là một chướng
ngại cho việc phát
huy đạo đức, bởi vì
nếu muốn giúp đỡ kẻ
khác thì trước hết
chính mình phải là
một tấm gương tốt
đẹp, phải biết phát
huy sự trìu mến và
tình thương yêu, và
xem đấy như là một
số vốn mà mình phải
có, các điều ấy hoàn
toàn trái ngược với
các thứ cảm tính thù
hận chính mình. Phải
hiểu rằng niềm ước
vọng sâu xa mong sao
đạt được hạnh phúc
cho chính mình là
một điều hoàn toàn
chính đáng.
Ước vọng
đó là cách nhắc nhở
mình phải biết yêu
thương chính mình.
Chẳng phải là mình
luôn mong cầu tìm
thấy hạnh phúc cho
mình và hy vọng sẽ
đạt được niềm hạnh
phúc ấy hay sao? Vì
thế chỉ khi nào đã
cảm nhận được các
cảm tính ấy hiện ra
trong lòng mình như
là một kinh nghiệm
bản thân, thì khi đó
mình mới có thể vun
đắp chúng ngày thêm
lớn mạnh hầu có thể
phát lộ chúng hướng
vào người khác. Vì
thế biết thương yêu
chính mình một cách
đúng đắn cũng là một
mối dây đạo đức và
vị tha kết nối mình
với kẻ khác.
Tuy nhiên
cũng có thể xảy ra
một số trường hợp
nghiêm trọng đòi hỏi
mình phải thực hiện
những điều lợi ích
cho người khác,
chẳng hạn như nếu
phải giải cứu cho
một số đông người
đang lâm vào tình
cảnh hiểm nguy, thì
mình cũng phải sẵn
sàng hy sinh sức
khỏe của mình
(nhận chịu mọi sự
đau đớn),
hoặc một phần thân
thể của mình và cũng
có thể là cả mạng
sống của mình nữa.
Hành động ấy chẳng
những không hề nói
lên một sự thù hận
nào đối với chính
mình, mà đúng hơn là
một thái độ hoàn
toàn trái ngược lại
với cung cách hành
xử của một người
tuyệt vọng, chỉ biết
thù ghét chính mình
và tìm mọi cách để
kết liễu đời mình.
Theo quan điểm Phật
Giáo, tự tử là một
hành vi tiêu cực
thật nghiêm trọng,
không thể mang ra so
sánh với các hành
động thúc đẩy bởi
lòng từ bi trong
những cảnh huống mà
mình phải hy sinh
mạng sống của mình
để giải cứu cho
nhiều người khác".
(…)
Ngôi chùa
Lerab Ling
H1- Ngôi chùa Lerab
Ling tại làng
Roqueredonde miền
nam nước Pháp, nơi
diễn ra cuộc phỏng
vấn Đức Đạt-lai lạt
do đài truyền hình
Pháp thực hiện ngày
1 tháng 10 năm 2000,
với chủ đề "Nền
tảng đạo đức nào cho
thiên niên kỷ thứ
III". Ngôi chùa
này là do nhà sư Tây
Tạng Sogyal Rinpoché
thiết lập, vị này là
người biên soạn tập
sách mang tựa
"Quyển sách Tây Tạng
về sự sống và cái
chết", tiếng Tây
Tạng là "Bardo
Thodrol Chenmo"
có nghĩa là "Sự
giải thoát bằng cách
lắng nghe trong giai
đoạn chuyển tiếp"
(trước tác của
Liên Hoa Sinh,
Padmasambhava, thế
kỷ thứ VIII, quyển
sách này đã được
Liên Hiệp Quốc xem
là Gia Tài Văn Hóa
của Nhân Loại). Có
nhiều bản dịch sang
các ngôn ngữ Tây
Phương, thế nhưng
bản dịch tiếng Pháp
của Philippe Cornu,
gồm 1054 trang, được
dịch thẳng từ tiếng
Tây Tạng là bản dịch
đầy đủ, chính xác và
rõ ràng hơn cả. Bản
dịch này là một phần
trong luận án tiến
sĩ triết học của
ông). Người
phỏng vấn Đức
Đạt-lai Lạt-ma là bà
Cathérine Barry, phụ
trách chương trình
Phật Giáo trên đài
truyền hình quốc gia
Pháp từ năm 1997 đến
2007, và cũng là
người đã góp nhặt và
in thành quyển
"108 lời dạy của Đức
Đạt-lai Lạt-ma".
Thông dịch viên là
nhà sư Matthieu
Ricard.
Nhà sư
Matthieu
Ricard
Đức Đạt-lai
Lạt-ma và nữ
Phật tử
Cathérine
Barry
Lời kết
Hiện thực
cho thấy một sự kiện
có thể khiến chúng
ta phải kinh hoàng
hay ít ra thì cũng
phải suy nghĩ: đó là
con số người tự tước
đoạt sự sống hàng
năm quá cao, cao hơn
nhiều so với số tử
vong gây ra bởi
chiến tranh và thiên
tai. Và nếu cộng
thêm các trường hợp
được cứu sống kịp
thời và các trường
hợp chỉ mang ý nghĩ
tự kết liễu đời
mình, thì con số này
chắc hẳn sẽ lớn
khủng khiếp! Chẳng
phải là một cuộc
thăm dò ở Pháp đã
cho thấy là riêng
đối với các nữ sinh
ở lứa tuổi 15, thì
cứ mỗi 5 đứa lại có
một đứa từng mang ý
nghĩ tự tước đoạt sự
sống của mình hay
sao? Thế nhưng nhìn
kỹ lại thì hành động
đáng tiếc này hầu
hết lại xảy ra với
nam giới ở lứa tuổi
già dặn trên 50.
Điều này cho thấy
những thể dạng khổ
đau thật sâu kín
luôn tàng ẩn bên
trong nội tâm của
mỗi con người chúng
ta, dù là ở lứa tuổi
nào.
Khoa học
không thể xác định
được nguyên nhân
của những thứ
khổ đau ấy mà chỉ có
thể ghi nhận được
các trường hợp
hay điều kiện
bên ngoài khiến cho
các thứ khổ đau ấy
có thể bùng lên
trong tâm thức. Chỉ
có Phật Giáo là nhìn
thấy được nguyên
nhân đích thật
của các thứ khổ đau
ấy ẩn nấp thật sâu
kín bên trong nội
tâm của mỗi cá thể.
Nguyên nhân đích
thật ấy chính là ảo
giác của một "cái
tôi" che lấp tri
thức của mình, đưa
đến một thể dạng nắm
bắt nhị nguyên giữa
chủ thể và đối
tượng. Sự giằng co,
nắm bắt và nuôi
dưỡng một "cái tôi"
trong tâm thức sẽ
không tránh khỏi
mang lại các tư duy
và xúc cảm bấn loạn,
và trong một số
trường hợp cực đoan
có thể đưa đến những
ý nghĩ đen tối khiến
cho một cá thể chỉ
muốn làm sao cho
"cái tôi" ấy phải
chấm dứt.
Nhân loại
ngày càng đông, sự
sống ngày càng phức
tạp, xã hội ngày
càng bất lực trước
các hành động tự
tước đoạt sự sống
của con người và chỉ
biết che dấu một
cách vụng về. Khoa
học thực sự cũng
không làm được gì
nhiều, và ngay cả
sách lược toàn cầu
do Tổ Chức Y Tế Thế
Giới đưa ra thì cũng
chỉ hy vọng có thể
làm giảm bớt 10% con
số tử vong vì tệ nạn
này từ đây đến năm
2020.
Trước thềm
thiên niên kỷ thứ
III, Đức Đạt-lai
Lạt-ma khuyên chúng
ta phải biết yêu
thương "cái tôi" ấy
của mình, thế nhưng
cũng phải sẵn sàng
hiến dâng sự yêu
thương ấy và cả "cái
tôi" ấy cho tất cả
chúng sinh, dù phải
hy sinh sức khoẻ, kể
cả những năm tháng
còn lại của đời mình
trong thế giới hiện
tượng này nếu phải
cần đến. Thiết nghĩ
nếu biết sử dụng
"cái tôi" ấy một
cách xứng đáng thì
đấy cũng là một cách
góp phần vào việc
bảo tồn sự sống còn
này của nhân loại.
Bure-Sur-Yvette,
27.12.14
Hoang Phong
|