Bài học từ sinh hoạt hằng ngày của Đức Dalai Lama
bai hoc
Hằng
Như dịch
VICTOR
CHAN, người viết chung với
ngài
Dalai Lama cuốn “The Wisdom of Forgiveness” (Trí
tuệ của sự tha thứ), có
được cơ hội quý báu trải qua một khoảng thời gian riêng cùng
ngài
Dalai Lama. Dưới đây là lá thư ông viết cho các con của mình và kể lại những gì
ông học được trong buổi sáng đặc biệt ấy.
Lina và Kira
yêu quý,
Bây giờ, các
con đã 16 và 19 tuổi rồi, bắt đầu hoạch định cho cuộc sống của chính mình. Thời
gian qua là chuỗi ngày dường như vô tận, chúng ta chỉ mải mê ngồi đó và tán gẫu
suốt ngày. Cha tiếc thời gian chúng ta hoang phí rong
ruỗi
ngoài bãi biển và những chuyến đi chơi dài ngày trong lần đi cắm trại ở
Westfalia của gia đình mình trong khi các con chỉ ngoan ngoãn làm theo những gì
cha bảo.
Một câu
chuyện cha muốn chia sẻ với các con là về buổi sáng cha có dịp sống với
ngài
Dalai Lama. Đây là một sự trải nghiệm có ý nghĩa sâu sắc của đời cha. Mấy tiếng
đồng hồ cùng
ngài
đã cho cha hiểu rõ cách
ngài
sử dụng thời gian cho riêng mình đằng sau ánh hào quang của
ngài.
Ngài hầu như không nói gì nhiều với cha trong buổi sáng hôm ấy, nhưng những gì
ngài
làm đã nói thay
ngài
rất nhiều và có liên quan đến tất cả chúng ta.
Do đó, cha
quyết định viết thư này chia sẻ với các con.
Thời điểm ấy,
khi đang viết bản thảo cho cuốn The Wisdom of Forgiveness (Trí
tuệ của sự tha thứ), cuốn sách cha viết chung với
ngài
Dalai Lama,
ngài
mời cha đến cùng
ngài
trải qua một buổi sáng tại tịnh thất của
ngài ở
Dharamsala, Ấn Độ. Cha đã từng cùng
ngài
đi qua bốn châu lục và nhiều lần thực hiện phỏng vấn cùng
ngài,
nhưng cha chưa bao giờ có được cơ hội vào nơi tịnh thất của riêng
ngài.
Chỉ một lần thôi, cha không ngại thức dậy vào lúc nửa đêm, với cha, có thể nói
như vậy, lúc nửa đêm các con ạ.
Lúc 3:45
sáng, cha đang ngồi trên một tấm thảm nhỏ đặt trên nền nhà ở trong phòng hành
thiền của
ngài
Dalai Lama. Không gian nơi đây thật yên tĩnh và kỳ diệu, trang nhã, nhẹ nhàng.
Trong phòng, có bài trí một chiếc bàn, một góc dành để ngồi thiền và một khu vực
nhỏ để ngồi và dùng bữa. Có nhiều chiếc kệ trưng bày các loại pháp khí bằng đồng
đủ các kích cỡ lớn nhỏ và nhiều giá sách đựng các tập kinh viết bằng chữ Tây
Tạng.
Những tấm rèm dày che cửa sổ buông dài từ trần nhà đến sàn và trong ánh sáng mờ
mờ trước lúc rạng đông, cha có thể thấy thấp thoáng ảnh hiện dãy núi Hy mã lạp
sơn.
Vào thời điểm
mà chỉ có những chú chó không chủ ở ngoài đường phố thức dậy,
ngài
Dalai Lama đã bắt đầu một ngày của mình bằng việc lễ lạy. Từ tư thế đứng,
ngài
buông dài người ra sàn nhà, với chỉ một tấm đệm mỏng trải trên tấm ván đủ cho
phần thân mình. Hai tay
ngài
đưa thẳng lên khỏi đầu, lòng bàn tay tựa vào miếng vải vuông, tạo nên một góc
với các ngón tay đang chỉ thẳng lên trần nhà.
Rồi với một
động tác điêu luyện,
ngài
trượt hai tay xuống dần đến đùi để lấy đà chống đỡ, gấp người về vị trí quỳ trên
gót chân, rồi đứng thẳng lên. Ngài đặt lòng hai bàn tay lên đỉnh đầu, nhẹ nhàng
đưa dần xuống ngực và trượt người nằm dài trên sàn trở lại. Thế rồi
ngài
tiếp tục quy trình như vậy nhiều lần.
Cha quên đếm
một lát, nhưng cha ước chừng
ngài
lạy theo cách như vậy ít nhất là 30 lần. Ngài Dalai Lama đã lạy như thế hầu như
mỗi ngày trong suốt cuộc đời
ngài,
và nếu có ai đó đếm số lần
ngài
lạy, cha đoan chắc rằng, phải hơn một ngàn lần lặp đi lặp lại như thế trong suốt
hơn bảy chục năm qua.
Sau khi lạy
xong,
ngài
đến máy đi bộ (máy tập thể dục) đặt ở góc cửa sổ. Ngài treo xâu chuỗi niệm Phật
trên một thanh nắm cạnh cái khăn choàng và bắt đầu bước nhanh trên thanh trượt
của máy tập đang di chuyển. Hầu như ngay tức khắc,
ngài
nhắm mắt lại theo điệu nhạc phát ra từ máy và cứ thế,
ngài
thực hành thiền khi đang tập thể dục. Điệu nhạc dành cho thiền hành có tiết tấu
nhanh hơn.
Sau khi tắm,
ngài
Dalai Lama đưa cha đi vòng bên ngoài tịnh thất của
ngài.
Những rặng núi bao quanh vẫn còn chìm trong màn đêm, hầu như mặt trời chưa chạm
tới. Những làn khói mỏng cuộn tròn bay lên từ những ống khói ẩn khuất đâu đó từ
từ lan nhẹ trong làn sương lạnh. Xa xa dưới thung lũng Kangra, lác đác những tia
sáng từ các phố thành Ấn Độ có thể nhìn thấy ẩn hiện từ xa. Còn quá sớm, chim
vẫn chưa cất tiếng gọi đàn.
Ngài Dalai
Lama bắt đầu từ đằng xa, hòa mình vào không gian yên tĩnh, để tất cả các căn của
ngài
hòa quyện vào sự thanh tịnh đến huyền diệu của môi trường xung quanh. Ngài thật
bình an trong hiện tại, không hề dao động mảy may với sự hiện diện của cha bên
cạnh. Khi quan sát
ngài,
cha đứng đó trong tĩnh lặng, một tay nhẹ chạm vào rào chắn bằng kim loại sơn màu
xanh, sự thanh thoát không bút mực nào có thể tả được đã chạm vào trái tim cha.
Trời lạnh nên
ngài
và cha không ở lâu bên ngoài tịnh thất. Ngay sau khi trở lại phòng,
ngài
lập tức ngồi thiền. Ngài ngồi trên tấm tọa cụ trải sau chiếc bàn, có một tấm pa-nô
bẵng gỗ gụ nhũ vàng hình tròn đặt phía sau lưng
ngài.
Ngài gỡ đôi kính ra khỏi mắt, thần thái thanh thoát, hiện thân của sự sống viên
mãn nhất, được thể hiện trọn vẹn nơi
ngài.
Có vết thâm quầng ở dưới mi mắt
ngài
và những nếp nhăn chạy dài từ hai má đến cằm. Khuôn mặt
ngài
thật bình thản, nghiêm trang và đầy trí tuệ.
Khi
ngài
Dalai Lama hành thiền,
ngài
luôn rung lắc thân mình, nhịp nhàng như cái máy. Đôi mắt
ngài
khép hờ, nhưng cha có thể thấy thỉnh thoảng con ngươi
ngài
di chuyển nhẹ trong hố mắt. Có những lúc con ngươi đưa lên, cha có thể thấy
tròng trắng trong mắt Ngài. Hai bàn tay
ngài
đặt trên đùi, các ngón tay
ngài
gõ theo một cách nhịp nhàng. Cha cảm thấy không thoải mái, có cảm giác như sự
hiện diện của mình đã xâm phạm vào không gian vô cùng riêng tư này.
Một điều chắc
chắn rằng
ngài
Dalai Lama đi vào một trạng thái sâu lắng và vô cùng đặc biệt. Sau đó,
ngài
có chia sẻ với cha rằng, khi hành thiền, tâm
ngài
không hoàn toàn tĩnh lặng theo cách nói của các thiền sư. Một cách năng động,
tâm
ngài
định hướng những mong muốn, hoạch định
ngài
sẽ làm trong ngày, ngập tràn với ý niệm làm thế nào để tâm từ bi phát triển sâu
rộng hơn. Ngài mong ước đem tâm từ trải đến mọi người và giúp họ vơi đi nỗi khổ
bằng bất cứ cách nào
ngài
có thể. Sự phân tích hợp lý trong lúc này giúp
ngài
nuôi lớn trí tuệ để thấy rằng, bằng cách trải tâm từ đến người khác, bản thân
ngài
vẫn có được lợi ích là tâm trở nên an tịnh.
Sau 4 tiếng
đồng hồ, đã đến lúc cha chào
ngài
ra về. Ngài nắm chặt tay cha và đưa cha đến một căn phòng nọ. Từ đây,
ngài
lấy ra một viên đá nhỏ màu xám có khắc một ngôi tu viện Ấn Độ được trang trí bởi
cái tháp ở phía trên cùng của một cái bục có hai tầng. Bốn ngọn tháp nhỏ an trí
ở bốn hướng. Ngài nói “Tháp ở Bồ-đề
đạo tràng đây, riêng dành tặng anh”.
Ngài đưa cha
ra cửa thì dường như có một ý tưởng lóe lên trong đầu
ngài.
Ngài hướng cha đến một cái thùng chứa đầy các vật thể đẹp. Ngài vui mừng reo lên
“À đây!”. Ngài cẩn thận lấy ra và trao cho cha một mảnh gỗ gụ có khắc một ông
già râu dài đến tận thắt lưng. Đó là biểu
tượng
cho sự hoàn hảo ở một vị thánh Trung Hoa.
Ngay lúc đó,
Paljior la, thị giả của
ngài
Dalai Lama, nhẹ nhàng bước vào phòng. Vị này dâng lên
ngài
Dalai Lama một phong bì nhỏ màu đỏ để Ngài trao cho cha. “Một bao lì xì đỏ dành
cho anh, theo phong tục của người Trung Hoa. Tạm biệt anh”. Ngài nói trong sự
chân tình, ấm áp. Bên trong bao lì xì là một xấp tiền đô-la Mỹ. Cảm giác ngại
ngùng lan tỏa khắp khuôn mặt cha. Cha cảm thấy xấu hổ. Quá bất ngờ khi
ngài
Dalai Lama cho cha những món quà, kể cả những vật quý giá với lai lịch đặc biệt
của chúng. Và biết rằng cha khá eo hẹp,
ngài
còn cho tiền nữa.
Khi cha bước
ra khỏi phòng thiền, ngay giây phút ấy, cha chạm phải ánh nhìn vô cùng hoan hỷ
của
ngài
Dalai Lama. Khuôn mặt
ngài
rạng ngời. Dường như khi cho cha những món quà ấy,
ngài
rất hài lòng. Điều này thể hiện trên nét mặt rạng rỡ của
ngài.
Vài nếp nhăn dọc theo hai gò má
ngài
dường như căng ra, vầng trán như bớt nhăn đi và bọng nước dưới mi mắt
ngài
dường như bớt thâm quầng. Tất cả toát lên vẻ bình yên và an lành nơi
ngài.
Lina và Kira,
từ kinh nghiệm cá nhân của mình, các con đã biết ít nhiều về những lợi ích của
sự cho đi. Gia đình chúng ta đã từng sống ở Ấn Độ một năm khi Lina lên 7 và Kira
lên 9. Các con có lẽ còn nhớ thời gian vài tuần đầu, chúng ta khó khổ như thế
nào. Các con đã phải khổ sở với sự khác biệt quá lớn về văn hóa khi phải đối đầu
với đói nghèo và khổ sở bao vây. Các con cảm thấy thật khủng khiếp. Rồi các con
biết được những học sinh đường phố ở Dharamsala và rất vui khi được chăm sóc các
bạn.
Cha còn nhớ
rất rõ hai con đã bò qua những rãnh nước hôi hám dơ dáy để mang thức ăn và nước
uống cho các con vật nhỏ. Rồi khi chúng bắt đầu chết vì sự lan tràn của vi rút
gây bệnh, các con lại dấn thân vào việc kêu gọi mọi người chung tay để mua thuốc
phòng bệnh cứu chúng. Hành vi chăm sóc, đặt lợi ích của người khác lên trên bản
thân mình đã khơi dậy và làm cho tinh thần các con phấn chấn đáng kể.
Như tôn giả
Tịch Thiên (Shantideva), một vị
Thánh
người Ấn vào thế kỷ
XIX
và chủ trương học thuyết của vị này ảnh hưởng sâu sắc đến
ngài
Dalai Lama, từng viết rằng: “Tất
cả niềm vui mà thế gian này chứa đựng đến từ mong ước người khác có hạnh phúc”.
Cũng như
ngài
Dalai Lama thường nói rằng “Nếu
bạn muốn người khác hạnh phúc, hãy thực hành tâm từ. Nếu bạn muốn bản thân mình
hạnh phúc, hãy thực hành tâm từ”.
Sau khi rời
chỗ ở của
ngài
Dalai Lama, cha đến một quán cà phê trong khu chợ ở Dharamsala. Ngồi nhâm nhi ly
cà phê sữa ngon lạ, cha hồi tưởng lại những gì mình vừa trải nghiệm trong mấy
tiếng đồng hồ qua. Cha thấy cuộc sống hằng ngày của
ngài
rất đơn giản, thậm chí bình thường. Ngài lạy, đi trên máy đi bộ, đi dạo vòng
quanh tịnh thất, hành thiền và biếu quà cho cha. Không có việc nào ra ngoài quỹ
đạo của cuộc sống bình thường cả, thật sự là như vậy. Khi nói với các con đây,
cha vẫn còn cảm nhận được nguồn an lạc toát ra từ
ngài.
Cha đã từng
gặp
ngài,
một người biết tự chăm sóc mình, cả về phương diện vật lý cũng như tinh thần.
Cha biết công việc thường ngày trong mỗi buổi sáng của
ngài
cứ như thế, từ năm này sang năm khác, diễn ra một cách nhẹ nhàng. Nó diễn ra một
cách có nguyên tắc, kiên trì và tự chủ, thức dậy lúc 3:30, thực hành tâm linh
trong mấy tiếng đồng hồ trước khi bắt đầu những công việc đa đoan ở văn phòng.
Ngài Dalai Lama vẫn đều đặn thực hành như thế trong suốt mấy chục năm qua, ngay
cả khi
ngài
đi xa với sự khác biệt múi giờ.
Ngài Dalai
Lama nhiều lần bảo cha rằng,
ngài
không thích tập thể dục. Thế nhưng, với cái đầu thiên về khoa học, không ngừng
cập nhật những ưu điểm mới nhất trong lãnh vực sức khỏe,
ngài
hiểu rằng thể dục là quan trọng. Ngài ý thức rõ ràng về thời gian, sự tương đối
và không phung phí nó. Khả năng của
ngài
là càng hoàn thiện sứ mạng giúp người càng tốt và tất cả đều phụ thuộc vào sức
khỏe của
ngài
có cho phép hay không.
Cha cũng biết
rằng
ngài
không phải là một học trò ngoan khi còn nhỏ. Ngài có tính khí thất thường và bốc
đồng. Nguyên tắc tu viện (giới luật) như thiền định và học kinh điển không phải
đến với
ngài
một cách tự nhiên.
Trong một
cuộc nói chuyện trước đây, với ánh mắt xen lẫn một chút tinh nghịch,
ngài
Dalai Lama nói với cha rằng, “lúc khoảng lên 7 hay 8 tuổi, tôi không hề ham học.
Chỉ thích chơi thôi. Thế nhưng có một điều: đầu óc tôi lúc đó vì còn nhỏ, nên
sắc bén lắm, có thể học dễ dàng. Vì lẽ đó mà chủ quan sinh ra lười. Do vậy, mấy
vị thầy dạy tôi luôn giữ cái roi bên mình, cái roi màu vàng. Khi trông thấy cái
roi màu vàng, cái roi thánh thiện dành cho cậu học trò thánh thiện Dalai Lama,
tôi học. Vì sợ mà học. Ngay cả khi đến tuổi có hiểu biết, khi tôi học, không có
sự đau đớn thánh thiện nào”.
Mặc dù không
mấy ham học khi còn nhỏ,
ngài
Dalai Lama đã toàn tâm toàn ý thực hành mỗi buổi sáng. Với sự kiên trì và tự
chủ, Ngài đã tập ngồi tĩnh lặng trong thời gian khá lâu. Dần dần,
ngài
có thể kiểm soát tốt hơn những bản năng sai lầm. Thiền định và học pháp trở
thành quan trọng hơn việc chơi; không đáp ứng ngay những gì mình muốn thỏa mãn
trở thành điều tất nhiên.
Trong một
thời gian dài, các nhà tâm lý học tập trung vào phương diện hiểu biết thuộc tri
thức và xem đó là yếu tố quan trọng nhất để dự đoán sự thành công trong cuộc
sống. Ngày nay, phần đông đều nhất trí rằng chỉ số trí tuệ IQ phần lớn tùy thuộc
vào khả năng tự chủ. Những đứa trẻ thông minh nhất không thể luôn luôn y cứ
thuần túy vào khả năng của não bộ. Sự thành công lâu dài phụ thuộc vào khả năng
tự điều chỉnh, làm giảm đi những bản năng không tốt và tăng cường những gì tốt
đẹp cho cuộc sống.
Kira, cha
nghĩ con có thể liên hệ đến vấn đề này. Suốt ngày ở trường, con cứ lao đầu vào
mớ bài tập, cắm cúi cho đến phút cuối. Điều này nói lên rằng, con có khả năng tự
chủ tốt, không đáp ứng ngay những thỏa mãn mang tính bản năng. Cha nghĩ con cảm
nhận được khi làm xong trách nhiệm đúng lúc, con đã hoàn thành công việc. Điều
này dỡ đi gánh nặng từ đôi vai con và để con rảnh rang làm việc khác, những công
việc có lẽ đem lại nhiều niềm vui hơn. Cha rất vui khi con có thể rèn cho mình
có thói quen hữu ích này, một việc quan trọng trong đời sống của con.
Ngài Dalai
Lama thường giảng về tầm quan trọng của tự chủ. Ngài tin rằng tự chủ là yếu tố
cần thiết trong sự thực hành tâm linh. Nó cho chúng ta phương tiện để thực hành
và nuôi lớn những đặc tính cần thiết quyết định cho cuộc sống. Nó cho phép chúng
ta thẩm vấn những hành vi của mình và mở đường cho sự sửa đổi ngày càng tốt hơn.
Nó ví cái tâm chưa được thuần hóa của chúng ta với con voi nổi loạn chưa được
huấn luyện. Nếu có thể dần thuần hóa được nội tâm, chúng ta sẽ có cơ hội nuôi
dưỡng tâm từ, nền tảng của hạnh phúc thuần chân một cách dễ dàng hơn.
Rõ ràng rằng
đối với
ngài
Dalai Lama, thiền định rất quan trọng. Ngài dành một khoảng thời gian lớn trong
ngày cho việc hành thiền, và cha đã từng chứng kiến
ngài
được nạp thêm nguồn năng lượng sau thời khóa buổi sáng. Câu nói của ngài Dalai
Lama được trích dẫn nhiều trong thời gian gần đây là “Nếu
mọi đứa bé lên tám được dạy thiền, chúng ta sẽ chấm dứt bạo lực trên thế giới
chỉ trong một thế hệ mà thôi”.
Càng ngày
càng có nhiều người thực hành thiền. Nhưng điều cha lo ngại là mặc dù họ có
thiện chí đó, nhưng được bao nhiêu người có thể kiên trì thực hành thiền trong
cuộc sống của mình. Sớm muộn gì những công việc cấp bách cần giải quyết của đời
thường sẽ làm trở ngại việc thực hành thiền hằng ngày của nhiều người.
Với ngài
Dalai Lama, việc hành thiền tự nhiên như việc đánh răng vậy thôi. Đó là một thói
quen trong cuộc sống hằng ngày. Cha thử nhẩm tính, hẳn ngài đã dành ra hơn 100
ngàn tiếng đồng hồ để thực hành thiền. Và không nghi ngờ gì nữa, ngài là người
hạnh phúc nhất mà cha từng biết. Sự hài hước của ngài, khả năng gây cười và niềm
hoan hỷ trong cuộc sống của ngài thật là thần kỳ. Ngài Dalai Lama đã chỉ cho cha
một số cách đơn giản để ứng dụng thiền vào trong công việc hằng ngày. Đừng quá
tham vọng làm điều gì to tát; hãy kềm chế sự nóng nảy. Lúc mới bắt đầu thực hành
thiền, đừng ngồi quá lâu, mỗi lần chỉ nên ngồi chừng 10 đến 15 phút thôi. Có
điều là cần thực hành thường xuyên, nhiều lần trong một ngày và duy trì để nó
trở thành một thói quen thường xuyên trong cuộc sống.
Làm cho việc
hành thiền trở thành một công việc nhịp nhàng như
một
thói quen hằng ngày, đó là bí quyết để
ngài
Dalai Lama nuôi dưỡng suối nguồn bình an. Và trong những năm gần đây, khoa học
cũng đã xác chứng sự liên quan mật thiết giữa thiền định và hạnh phúc thuần
chân.
Ngài Dalai
Lama bảo cha “thế nhưng muốn tiến bộ, cần kiên trì với thời gian. Hành thiền
không giống như mở công tắc bóng đèn, mà giống như nhen một ngọn lửa: bắt đầu từ
một đốm lửa nhỏ, nó cháy to dần, mỗi lúc một to dần, sáng hơn, mỗi lúc một sáng
hơn. Hành thiền là giống như vậy đó”.
Đây là đôi
điều cha học được trong buổi sáng hôm ấy. Hãy rèn luyện. Điều này tốt cho cả
thân và tâm. Thiền định cũng rất tốt. Không có gì đáng ngạc nhiên ở đây. Cha
không nói với các con điều gì mới mẻ cả. Thế nhưng cha ấn tượng với sự thấu hiểu
hàm chứa trong công việc buổi sáng của
ngài
Dalai Lama. Không có gì to tát cả, nhưng thật ý nghĩa khi chứng kiến những kinh
nghiệm sống động như thế.
Đầu tiên là
sự tự chủ và tất cả những gì nó hàm chứa: không đáp ứng ngay những gì mình muốn
thỏa mãn, sống có nguyên tắc, bền bỉ kiên trì. Thứ hai là thói quen. Hình thành
một thói quen hằng ngày một cách nhẹ nhàng giúp chúng ta có được sự kiên trì và
thành công trong mỗi việc mình muốn thực hiện. Thứ ba là chúng ta có được sự
hài lòng từ sự cho đi, từ sự giúp đỡ người khác. Tất cả những điều này đều hiện
thực, xác chứng những phương cách ta có thể sử dụng để làm cho cuộc sống mình
thêm thành công và tươi đẹp hơn.
Hiểu biết sâu
thẳm nhất đến một cách nhanh chóng với cha khi ở bên ngoài tịnh thất cùng
ngài
Dalai Lama. Ngay cả lúc này, nó vẫn còn thoáng hiện trong tâm trí cha, tuy không
được trọn vẹn như lúc đó. Cha không mong hai con có thể liên hệ đến việc ấy
trong lúc này, nhưng các con nên lưu tâm điều này. Đó là khi ở bên ngoài tịnh
thất hôm đó, cha đã cảm nhận một cách khái quát về sự duyên sinh và tầm quan
trọng trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau trong cuộc sống này. Ngài Dalai Lama
luôn sống với tâm ở trạng thái phản tỉnh, và
ngài
hầu như không nói gì với cha. Thế nhưng những khoảnh khắc ngắn ngủi trong sương
lạnh trước lúc rạng đông trong buổi sáng hôm ấy đã đánh động mãnh liệt đến tâm
thức cha một cách không ngờ.
Cha trực nhận
năng lực của
ngài
và sự liên kết rất thật với những gì quanh
ngài,
một sự kết nối làm thăng hoa ý tưởng.
Cha xin được
nhắc lại trong một cuộc phỏng vấn
ngài
trước đó. Ngài đã nói với cha về nhiều điều
ngài
trải nghiệm lúc
ngài
hơn 20 tuổi. Bất cứ cái gì
ngài
nhìn – một chiếc bàn, chiếc
ghế, hay một người nào đó –
ngài
đều thấy nó không có một thực thể, không thật tồn tại. Có một “cái không trong
cái có hiện hữu”,
ngài
nói với cha như thế.
Nhìn thấy
cha bối rối chưa hiểu gì,
ngài
giải thích “những khoảnh khắc này giống như những bức tranh xuất hiện, giống như
xem ti vi hay xem phim vậy. Đặc biệt rất giống như xem phim. Ta có cảm giác
những gì đang diễn ra là thật, nhưng đồng thời, trong khi mắt ta nhìn thấy các
cảnh ấy, tâm ta biết đó chỉ là bức tranh. Chỉ là sự diễn xuất, không thật có”.
Cách nhận
thức này, sự cảm nhận vi tế về thực tại này là nền tảng trong đời sống tâm linh
của ngài Dalai Lama. Ngài biết, trên phương diện tri thức cũng như phương diện
trải nghiệm, rằng vạn vật đều chịu sự chi phối của luật vô thường và rằng sự tồn
tại của mình tùy thuộc vào một mạng lưới phức tạp trong các mối quan hệ khác.
Trên cơ sở này, các ranh giới cá nhân đều tan ra. Kết quả là, ngài cảm nhận được
sự gắn kết quyến thuộc với tất cả vạn vật và mọi người.
Lina và Kira,
cha khép lại những chia sẻ về những gì đi qua tâm trí cha về buổi sáng hôm ấy.
Cha vẫn luôn nhớ về mấy tiếng đồng hồ quý báu cha có mặt cùng ngài Dalai Lama.
Ngài chẳng giảng cho cha những giáo lý cao siêu nào, cũng không phải theo cách
thông thường. Hầu như trong mọi lúc, ngài không đoái hoài gì đến sự có mặt của
cha. Nhưng các con có thể nói rằng, cha đã học được những điều quan trọng –
những điều không dễ dùng ngôn ngữ mà diễn đạt được.
Yêu hai
con nhiều,
Cha các
con
Vitor
Chan.
Nguồn:
http://www.shambhalasun.com/index.php?option=com_content&task=view&id=4093