Chuyến đò

chuyen do

          Hình ảnh những bến đó, những sân ga, gợi cho chúng ta sự linh động của đến, đi, chia tay và hội ngộ, khởi hành và điểm tới, tùy theo định hướng của từng đối tượng.

          Suốt chặng đường đời, đã bao lần lữ khách đứng bên sông, đợi bóng một con đò, lòng bâng khuâng tưởng về nơi sẽ tới, người sẽ gặp? Hay còi tầu giục giã sân ga có làm nôn nao bao người đi, kẻ ở?

          Nhân gian đã từng ngược xuôi muôn vạn chuyến Đi, Về, nhưng con đò kia, chuyến tầu nọ, hình như chỉ là “Nhạn quá trường không. Ảnh trầm hàn thủy. Nhạn vô di tích chi ý. Thủy vô lưu ảnh chi tâm”, chẳng lưu lại gì, như chim bay ngang trời, bóng chìm đáy nước. Chim không ghi lại hình ảnh của ý, thì nước nào mà ghi được bóng dáng của tâm?

          Thế nên, nhân gian cứ đến và đi như gió thoảng mây trôi, cứ tiếp tục luân hồi chìm đắm, dù thảng hoặc, sách vở ghi lại những Đến và Đi “lịch sử”, theo quan niệm hạn hẹp của nhân gian. Chẳng hạn - một sự kiên thôi -như chuyến đi của tráng sỹ Kinh Kha, một mình một kiếm sang Tần với nhiệm vụ giết bạo chúa để cứu muôn dân.

          Thí dụ sự kiện này vì Kinh Kha được ca ngơi tới mức danh-từ-riêng “Kinh Kha” được người đời dùng như một tĩnh từ kép để nói về cái đẹp, cái uy dũng, cái hào khí ngất trời, thỉnh thoảng thấy trong thơ văn, như bước-chân kinh-kha, khí-phách-kinh-kha, tấm-lòng-kinh-kha v...v...

          Tráng sỹ Kinh Kha không hoàn thành được sứ mạng vì âm mưu bị bại lộ. Dù không ai luận anh hùng qua sự thành bại, nhưng những huyền thoại quanh việc Kinh Kha sang Tần có những điều tàn nhẫn quá đáng. Chẳng hạn, trong tiệc rượu vua quan triều thần khoản đãi trước lúc ra đi, Kinh Kha chỉ buột miệng khen cánh tay đẹp của một ca nhi dâng rượu thì sau đó ít phút, một mâm tặng phẩm phủ khăn lụa đỏ được đem ra. Kinh Kha mở tấm lụa, thảng thốt. Đó là đôi tay đẹp của người ca nhi vừa dâng rượu !!!!!!

          Chuyến ra đi làm sao còn đẹp khi máu vô tội đã chảy vì bước chân người đi!?

          Nhưng may thay, có những chuyến đi không tiện rượu, không nhã nhạc, không cả tấp nập tiễn đưa, nhưng những chuyến đi ấy còn rực rỡ hào quang đến nay, còn là đuốc soi đường, còn vô cùng vô tận lợi ích quần sanh.

Đó là chuyến đi của người thanh niên tên Huệ Năng, nhà nghèo, mù chữ, xuất thân từ đất Lĩnh Nam. Cha mất sớm, Huệ Năng làm nghề đốn củi nuôi mẹ, chưa từng bao giờ được đến trường tiếp nhận một chữ Thánh Hiền. Một lần giao củi tới nhà khách, Huệ Năng thoáng nghe tiếng tụng kinh. Dừng sát bên vách, ghé tai chăm chú, chàng thanh niên đó nghe được câu kệ “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”. Chỉ câu kệ đó đã thúc đẩy Huệ Năng can đảm bước vào hỏi:

          - Thưa ngài, ngài đang tụng kinh gì đó?

          Khách bảo:

-         Ta tụng kinh Kim Cang, do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chùa Đông Thiền, huyện Hùynh Mai tuyên giảng.

-         Thưa ngài, từ đây tới đó bao xa?

-         Đi khoảng ba mươi ngày sẽ tới, ngươi hỏi làm chi?

-         Thưa ngài, tôi muốn được nghe pháp vi diệu này.

 Tấm lòng thiết tha cầu đạo của chàng thanh niên nghèo đã làm một thiện nhân cảm động.  Sauk hi biết Huệ Năng còn phải lo nuôi mẹ, người ấy đưa cho Huệ Năng mười lạng bạc, bảo về thu xếp sự ăn ở cho mẹ già để yên tâm lên đường trực chỉ Hoàng Mai.

Nếu duyên chưa hội đủ, có kẻ xa lạ nào sẵn lòng đưa mười lạng bạc cho người thanh niên nhà quê, làm nghề đốn củi, chỉ vì ý muốn vu vơ là tìm thầy học đạo?

Chi tiết này, ngỡ như tình cờ, nhưng nào phải là sự tình cờ bình thường! Nếu không có mười lạng bạc mà an tâm thu xếp về cái ăn, nơi ở cho mẹ già, thì người con hiếu thảo như Huệ Năng không bao giờ ra đi được. Và nếu không có chuyến đi này, liệu hậu thế có Lục Tổ Huệ Năng?

Chuyến đi đó, tranh vẽ nào có thể đẹp hơn?      

Khi đến huyện Huỳnh Mai, Huệ Năng hỏi đường tới chùa Đông Thiền, vào bái yết Ngũ Tổ. Tổ hỏi:

          - Ngươi từ đâu ? Tới cầu chi?

          - Thưa Tổ, con người Lĩnh Nam, tới cầu làm Phật.

          - Người Lĩnh Nam quê mùa, sao cầu làm Phật được?

          - Thưa Tổ, người tuy có Nam có Bắc nhưng Phật tánh thì không phân chia Nam Bắc. Thân quê mùa này so với Tổ có khác, nhưng Phật tánh trong thân này với thân Tổ nào sai khác chi đâu!

          Nghe thế, Tổ Hoằng Nhẫn vội nói:

          - Thôi được, hãy đi xuống nhà trù, lo công việc giã gạo.

          Huệ Năng quỳ xuống, lạy tạ Tổ đã thâu nhận và vâng lời, xuống nhà bếp lo giã gạo, bổ củi.

          Chúng ta tưởng Tổ tàn nhẫn ư? Không đâu, Tổ quá từ bi đấy, vì ngài nhận ra ngay, thanh niên nhà quê này không phải tầm thường. Trước mặt đông đảo môn sinh của chùa Đông Thiền, Ngũ Tổ không muốn họ nhận ra sự quan tâm đặc biệt của Tổ đối với kẻ nghèo khổ, vừa từ xa đến. Đó là Tổ muốn bảo vệ Huệ Năng, không chỉ buổi đầu đó mà để cho an toàn, tám tháng sau Tổ cũng không ngó ngàng tới người thanh niên suốt ngày bửa củi, giã gạo dưới bếp.

          Nhưng hạt đã gieo, phải tới lúc nẩy mầm. Đó là khi Tổ gọi toàn thể môn sinh, hơn một ngàn người tới, truyền rằng:

- Các con theo học ta đã lâu, nay tới lúc kiểm điểm lại thành quả mình. Mỗi người hãy làm một bài kệ, nói lên cái đã thấy biết của mình. Ta sẽ duyệt xét từng bài, hễ nội dung chứng tỏ đã ngộ, ta sẽ trao truyền y bát cho kẻ đó, lãnh trách nhiệm của vị Tổ thứ sáu.

          Thật là một lời truyền vô cùng quan trọng. Cả ngàn môn sinh họp nhau bàn bạc rồi cùng đồng ý xin thầy Thần Tú đại diện, làm một bài thôi vì Thần Tú là người thông minh, trí tuệ nhất đại chúng, ai mà có thể làm hay hơn được!

          Thần Tú viết bài kệ lên vách tường:

                        Thân thị như Bồ Đề

                   Tâm như minh kính đài

                   Thời thời cần phất thức

                   Vật sử nhạ trần ai

          Đại ý, thân như cây Bồ Đề, tâm như tấm gương trong, phải luôn lau chùi quét dọn cho bụi khỏi bám vào.

          Bài kệ được các đồng môn của Thần Tú nức nở khen hay, ai cũng thuộc, cũng đọc, cho đến nơi nhà bếp, Huệ Năng cũng nghe được. Người thanh niên suốt tám tháng trời chỉ im lặng bổ củi, giã gạo, đã mon men đến bức tường có bài kệ đó, nhờ một người đọc lại cho nghe. Nghe xong, Huệ Năng bảo người ấy:

          - Tôi cũng có bài kệ, nhưng không biết chữ, xin huynh viết lên giúp tôi được không?

          Bài kệ của Huệ Năng như vầy:

                        Bồ Đề bổn vô thụ

                   Minh kính diệc phi đài

                   Bản lai vô nhất vật

                   Hà xứ nhạ trần ai.

          Đại ý, bồ đề - ví như thân- thật ra chẳng phải cây, tâm sáng như gương thì chẳng cần đài, bản chất đích thực KHÔNG LÀ GÌ CẢ thì lấy chỗ đâu cho bụi bám mà phải lo lau chùi!

          Kệ của Thần Tú ở thể xác định, kệ Huệ Năng ở thể phủ định, hoàn toàn trái ngược. Khi hai bài kệ được viết gần nhau, đại chúng đều sửng sốt!

          Ngay đêm đó, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn xuống nhà bếp, tìm Huệ Năng.

          - Ngươi biết vì sao ta không hỏi han chi tới ngươi trong tám tháng qua không ?

          Huệ Năng quỳ xuống:

          - Đa tạ sự che chở của sư phụ, đệ tử đã biết,

          - Tốt.

          Và Tổ dùng gậy trúc, gõ xuống sàn ba tiếng, rồi thong thả đi ra.

          Canh ba đêm đó, Huệ Năng tuân theo hiệu lệnh, lặng lẽ lên phòng Tổ. Cửa được đóng kín lại ngay sau bước chân. Dưới ánh nến lung linh, Ngũ Tổ câp tốc giảng kinh Kim Cang cho người đệ tử không biết chữ. Huệ Năng đắc pháp ngay trong đêm, rồi được truyền quỳ gối, kính cẩn nhận Y Bát và lời chỉ dạy:

          - Ngươi nay là Tổ thứ sáu, nhưng chưa thuận duyên để truyền giáo. Ngay đêm nay, ngươi phải lập tức lên đường, cố gắng bảo trọng thân mạng vì sự tranh giành Y Bát này sẽ xảy ra. Ta không có sự chọn lựa nào khác. Vậy hãy đi ngay trước khi trời sáng.

          - Bạch sư phụ, con từ xa tới, nay biết phương hướng nào mà đi!

          - Chớ lo, ta sẽ đưa ngươi một đoạn thuyền

          Đêm đó, trời không trăng nhưng đầy sao. Bến đò Cửu Giang vắng vẻ, u tịch nhưng hương đêm lãng đãng làn nhang trầm phảng phất từ tàng-kinh-các nào. Trong không gian huyền hoặc đó, con đò nhỏ tách khỏi bờ lau, trôi êm về phương Nam. Sao trời lấp lánh trên áo nâu sồng của một già, một trẻ, không nói lời nào mà đang trao truyền muôn vạn lời.

          Chuyến đò rời nhánh sông Cửu Giang đêm ấy đã để lại cho chúng ta bao tặng phẩm vô gía từ tấm lòng nhị vị Đại-Sư. Con đò nhỏ chở đầy từ tâm, độ lượng của Ngũ Tổ và trí tuệ, nhẫn nhục của Lục Tổ đã thành những trang Bảo Đàn Kinh châu ngọc, dẫn dắt chúng sanh nhận ra “Bản lai vô nhất vật”.

“Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác thì bản lai của anh là gì?”

Đó là bài pháp đầu tiên Lục Tổ độ cho người toan ám hại mình để giành Y Bát.

          Sau đó, suốt mười lăm năm sống ẩn dật với đám thợ săn vì biết chưa hội đủ thuận duyên hoằng pháp, nhưng mười lăm năm đó, Lục Tổ Huệ Năng cũng đã phương tiện, độ cho bọn người chỉ biết một cách duy nhất để tìm thực phẩm là săn bắn.

          Khi duyên đã đủ, Lục Tổ rời rừng núi, tìm đến chùa Pháp Tánh tỉnh Quảng Châu, nơi pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn. Hôm đó, trời nhiều gió làm lay động những màn, phướn treo quanh giảng đường. Lục Tổ  nghe thấy hai vị tăng  đối thoại, người thì bảo “gió động”, người kia nhất định không phải gió, mà là “phướn động”.

Khi ấy, Lục Tổ đến bên, nhẹ nhàng bảo:

- Không phải gió động cũng chẳng phải phướn động mà là tâm quý vị động đó thôi.

Vừa nghe như thế, hai vị tăng bỗng ngộ.

          Đó là bài pháp thứ hai mà Lục Tổ dạy cho chúng sanh.

Giai thoại này lập tức đến tai pháp sư Ấn Tông đang ngồi trên tòa cao giảng kinh. Pháp sư cho mời người thanh niên có dáng vẻ nghèo nàn, lam lũ đó tới gần. Khi biết Huệ Năng từ Hoàng Mai đến, pháp sư hỏi:

          - Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn dạy ông những gì?

          - Chỉ luận về sự “thấy tánh”

          - Còn thiền định và giải thoát thì sao?

          - Đó là hai pháp nên chẳng phải Phật pháp vì nếu đích thực Phật pháp thì phải là pháp không hai.

          Pháp sư Ấn Tông chưa hiểu kịp, bèn khẩn khoản:

- Xin ông dạy rõ hơn.

- Tỷ như thiện căn có hai mặt: thường, hoặc vô thường. Tỷ như Uẩn và Giới, kẻ phàm phu phân biệt là hai, khi liễu ngộ mới thấy tánh của chúng là không hai. TÁNH KHÔNG HAI CHÍNH LÀ PHẬT TÁNH, là thể trong suốt, chẳng thường cũng chẳng vô thường nên không hề bị đoạn lìa. Phật tánh đó, chúng sanh hoặc nhận ra, hoặc chưa nhận ra chứ không thể lưng chừng như ác lẫn thiện, đẹp lẫn xấu.

Đó là bài pháp thứ ba, Lục Tổ tuyên giảng khi chưa chính thức đăng đàn thuyết pháp.

Chính ba bài pháp đầu tiên này là nền tảng cho pháp môn Vô Niệm, mà Lục Tổ Huệ Năng đã hết lòng truyền dạy lại cho môn đồ, tứ chúng, để sớm nhận ra điều quan trọng, rốt ráo mà Chư Phật bao đời đã khổ công mong chúng sanh đạt tới. Đó là, NHẬN RA ĐƯỢC PHẬT TÁNH CỦA MÌNH

          Đa tạ tuệ nhãn của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đã nhìn suốt “kỳ tâm” của người thanh niên đất nghèo khổ Lĩnh Nam để hậu sinh được có Lục Tổ Huệ Năng.

Đa tạ con đò canh ba năm xưa, đã “Ưng vô sở trụ”, xuôi êm giòng pháp diệu kỳ để tròn đầy huyền nghĩa câu kinh lóng lánh Kim Cương:

“Ưng vô sở trụ. Nhi sanh kỳ tâm”

 

                                                          Huệ Trân

                                     (Như-Thị-Am,Mùa phượng tím)   

Chia sẻ: facebooktwittergoogle