Hà thúc Minh
Kinh điển
của Phật giao dù cho “lưu truyền tám vạn tư”
đi nữa thì cũng không ra ngoài “Tam học” (三学). Pāli gọi là Tisrah sikkhah, Sanskrit gọi là
Tisrah siksah. Tam học còn gọi là Tam vô lậu học. Đó
là giới, định và tuệ, là quá trình tu tập mà bất
cứ ai hướng về đạo Phật, muốn từ
bỏ mọi phiền não của thế gian, cho dù xuất
gia hay tại gia đều không thể không trải qua.
Người ta thường cho rằng Tam học là sự
quy nạp của Bát chánh đạo (Pāli:
Ariyo Atthangiko maggo, Sanskrit: Aryastangamarga). Chẳng hạn
như “chánh kiến”, “chánh tư duy” thuộc về tuệ,
“chánh ngữ”, “chánh nghiệp”, “chánh mạng”, “chánh tinh tiến”
thuộc về giới, “chánh niệm”, “chánh định”
thuộc về định.
Tuy nhiên, những
pháp môn quan trọng khác như Lục độ (六度), Tứ niệm xứ (四念处)... cũng chỉ là những con đường
khác nhau nhưng đều hướng về mục tiêu
chung. Kinh Dịch gọi
đó là “đồng quy nhi thù đồ”. “Giải thoát” (Sanskrit
gọi la Moksha, Vimoksha, Vimukti hay Mukti) là điểm “đồng
quy” của mọi con đường khác nhau đó.
“Lục độ”
(Paramita, Parami trong tiếng Pāli
có nghĩa là hoàn thiện, hoàn mỹ, perfection). “Bố thí,
trì giới, nhẫn nhục” trong Lục độ thuộc
về giới, còn lại là định
và tuệ.
“Tứ niệm
xứ” (Pāli: Satipatthana, Sanskrit: Satyupasthana). Tứ niệm
xứ là niệm “thân bất tịnh”, “thọ khổ”, “tâm
vô thường”, “pháp vô ngã”. “Thân” và “thọ” thuộc về
giới, “tâm” và “pháp” thuộc về tuệ. Định (niệm)
xuyên suốt cả thân, thọ, tâm, pháp.
Như vậy,
Tam học không chỉ là sự quy giản của Bát chánh
đạo mà còn là sự quy giản của toàn bộ Phật
giáo.
Tam học gồm
có giới, định và tuệ. “Giới” (sila) là giới
luật, pháp luật. “Giới” có nhiều loại: Ngũ
giới, Bát giới, Thập giới, Cụ túc giới, Bồ-tát
giới[1].
“Giới” có thể chia thành hai loại: Chỉ trì giới
và Tác trì giới. Chỉ trì giới là ngăn chặn không
làm những điều ác, Tác trì giới là thực hành những
điều thiện. Nhưng giới luật ở đây
có nghĩa là tự kìm chế bản thân (luật kỷ) chứ
không phải “luật tha”. Cho nên “giới” thuộc về
lĩnh vực đạo đức hơn là pháp luật. Thực
ra đạo đức và pháp luật cũng là anh em cùng
cha khác mẹ đấy thôi. Platon chẳng đã cho rằng
“luật pháp là đạo đức không có tình cảm”
đó sao? Đạo đức và pháp luật là sản phẩm
của con người. Nó là chiếc “phao” để giúp con
người tồn tại và phát triển trong sóng gió của
cuộc đời, nhưng đồng thời nó cũng
là sợi dây ràng buộc con người đối với
con người.
“Định”
là thiền định (dhyana), tĩnh lự. Phật giáo Tiểu
thừa có Tứ thiền và Tứ vô sắc định; Đại
thừa có Niệm Phật thiền và Thực tướng
thiền.
“Tuệ” là trí
tuệ Bát-nhã, là sự giác ngộ sâu sắc đạo lý của
vũ trụ và nhân sinh. “Tuệ” (prajna, tiếng Anh gọi
là wisdom) khác với “tri thức” (vijnana, tiếng Anh gọi
là knowledge). “Tri thức” không những không bao hàm “tuệ” mà
còn bị liệt vào một trong 5 uẩn (sắc, thụ,
tưởng, hành, thức). “Tuệ” là sự thăng hoa của
tri thức. Tri thức có thể truyền đạt từ
người này sang người khác nhưng “tuệ” là sự
tự cảm nhận.
Trong “Tam học”
đạo đức và trí tuệ đã chiếm hết
hai phần ba. “Định” là thiền định, thiền
định không phải là của riêng Phật giáo, nhưng
“định” được dùng để nối kết
giữa đạo đức và trí tuệ lại là điểm
độc đáo chỉ có ở Phật giáo. Hơn nữa
cũng cần lưu ý rằng
trong “Tam học” chỉ có thuật ngữ “trí tuệ” (wisdom)
chứ không phải là thuật ngữ “tri thức” (knowledge).
Ở
phương Tây, từ thời cổ đại Hy Lạp,
Socrates cũng thường nói đến quan hệ giữa
“tri thức” (chứ không phải trí tuệ) và “đạo
đức”. Tuy nhiên, Socrates lại đồng nhất giữa
đạo đức và tri thức. Theo ông, “đạo
đức tức là tri thức” (virtue and knowledge are one and
the same). Socrates đồng nhất đạo đức và
tri thức, nói đúng hơn là ông đã hòa tan đạo
đức vào tri thức. Socrates đã đặt giá trị
của Tri thức ở hàng đầu của mọi giá trị.
Theo ông, “không có gì tốt hơn tri thức và cũng không có
gì tệ hại hơn là ngu dốt” (The only good is knowledge
and the only evil is ignorance).
Phương
Tây quan tâm giải quyết vấn đề quan hệ giữa
con người và tự nhiên hơn là vấn đề quan
hệ giữa con người và con người. Socrates
đề cao giá trị của tri thức cũng chẳng
có gì là lạ, bởi vì tri thức, lý tính, khoa học là chiếc
chìa khóa để con người nhận thức, khai thác tự
nhiên, phát triển sản xuất, kinh tế để
đem lại cho con người đời sống vật
chất đầy đủ hơn. Đạo đức
là luật kỷ, kinh tế là lợi kỷ. Lợi kỷ
xem ra có phần hấp dẫn hơn là luật kỷ. Cho
nên đạo đức có hòa tan vào tri thức hay biến
mất đi nữa cũng chẳng có gì quan trọng lắm
đâu! Chẳng trách Rousseau than thở rằng nền giáo dục
Pháp lúc bấy giờ (thế kỷ XVIII) đã đi sai
đường vì ra sức đào tạo trẻ em khôn lên
chứ không phải tốt lên. Thậm chí Nietzche còn muốn
“từ giã” vị Thượng đế luôn hứa hẹn
sẽ bù lại một cuộc sống Thiên đường
ở thế giới bên kia nếu con người chấp nhận
một cuộc sống lầm than ở thế giới bên
này. Nietzsche tuyên bố: “Thượng đế đã chết”
(Dieu est mort). Khi Thượng đế đã ra đi thì
đạo đức “luật kỷ” kia ở lại làm
gì: “Đạo đức tốt nhất là không có đạo
đức” (Moral est amoral). Đạo đức “luật kỷ”
đã ra đi thì luật pháp, cho dù là “luật tha” đi nữa
cũng sẽ được thay thế. Nhưng dẫu
sao luật pháp cũng chỉ quản lý cái tối thiểu
chứ không phải quản lỳ cái tối đa như
đạo đức. Cho nên phương Tây cho dù hòa tan
đạo đức vào tri thức, để rồi tri
thức, lý tính, khoa học trở thành đôi đũa thần
đem lại đời sống vật chất, kinh tế
đầy đủ cho con người, nhưng đồng
thời cũng biến con người thành “con người
kinh tế”. Đạo đức là “luật kỷ”, kinh tế
là “lợi kỷ”, “luật” và “lợi” bắt tay nhau làm cho
con người kinh tế dẫu sao cũng có được
không gian tự do nào đó. Tuy nhiên, cái gọi là tự do hay
giải thoát thực sự thì e rằng hãy còn lâu. Nếu
không phải vậy thì tại sao ngay ở trang mở đầu
của tác phẩm Khế ước
xã hội (Du contrat social) Rousseau đã phải thốt lên
rằng: “Con người sinh ra vốn tự do nhưng
đâu đâu cũng bị kìm kẹp” (L`homme est né libre, et
partout il est dans les fers). Tuy vậy, “con người kinh tế”
xem ra vẫn còn dễ thở hơn là “con người chính
trị” ở phương Đông.
Nói đến
“con người chính trị” không thể không nói đến
Nho giáo. “Con người chính trị” là sản phẩm không
phải của ai khác mà chính là của Nho giáo. Nho giáo ra đời
vào thế kỷ thứ V – VI trước Tây lịch, ảnh
hưởng đến nhiều nước phương
Đông, hình thành ra cái gọi là khu vực văn hóa Nho giáo.
Nho giáo là học thuyết vế đạo đức. Nói
đúng hơn là học thuyết về chính trị-đạo
đức. Nho giáo nguyên thủy xem đạo đức là
mục đích, chính trị là phương tiện. Nhưng
1.500 năm sau, Tống Nho đã làm một cuộc đảo
lộn ngoạn mục. Đạo đức không còn là mục
đích nữa mà chỉ là phương tiện, chính trị
mới là mục đích. Cũng như Nho giáo nguyên thủy,
Tống Nho đặt đạo đức cao hơn cả
sinh mệnh con người: “Chết đói việc nhỏ,
thất tiết mới là việc lớn” (Nga tử sự
tiểu, thất tiết sự đại 饿死事小失节事大 - Trình thị
di thư). Đạo đức được đặt
cao hơn sự sống, sinh mệnh con người,
nhưng lại được đặt dưới chính
trị. Nho giáo nguyên thủy luôn đứng về phía đạo
đức nếu như đạo đức và chính trị
mâu thuẫn. Tống Nho lại khác, “đại nghĩa diệt
thân” (tiểu nghĩa là đạo đức, đại
nghĩa là chính trị) là chiêu bài của Tống Nho dùng
để giải quyết khi mâu thuẫn xảy ra giữa
đạo đức và chính trị. Chiêu bài “đại
nghĩa diệt thân” càng được giương cao bao
nhiêu thì phụ tử, huynh đệ càng tương tàn bấy
nhiêu. Trong xã hội mà Nước là sự mở rộng của
Nhà và Nhà là sự thu hẹp của Nước thì khi mà chính
trị đối đầu với đạo đức
thì cũng là lúc mà đạo đức và vô đạo
đức trở thành những từ đồng nghĩa
trong xã hội gọi là văn minh.
Phật giáo
không phải không nói đến kinh tế và chính trị. Dẫu
sao thì kinh tế và chính trị cũng chỉ là điều
kiện chứ không phải là cứu cánh của giải
thoát. Phật giáo cũng không chủ trương “ly thế
mịch Bồ-đề”, nhưng tự do hay giải thoát
của Phật giáo cũng có những sắc thái riêng không
phải giáo lý nào cũng có. “Tam học” là sự kết hợp
giữa đạo đức và trí tuệ (chứ không phải
tri thức) bằng thiền định đã thể hiện
đặc điểm về giải thoát của Phật
giáo. Có thể kể ra những đặc điểm sau
đây:
Thứ nhất,
giải thoát không phải bắt đầu từ bên ngoài
mà bắt đầu từ bên trong.
Thiên hạ
thường nói với nhau rằng hoàn cảnh tạo ra
con người và con người cũng tạo ra hoàn cảnh.
Có thể thay đổi hoàn cảnh, thay đổi thế
giới bên ngoài để từ đó thay đổi bản
thân con người. Cũng có thể thay đổi bản
thân con người để từ đó thay đổi thế
giới bên ngoài. Trong hai cách đó, có lẽ giải thoát của
Phật giáo theo cách thứ hai. Cũng cần nói thêm rằng
“thay đổi” thế giới không nhất thiết chỉ
bằng hoạt động thực tiễn mà là thay đổi
nhận thức của con người vế thế giới.
Chẳng hạn như hôm qua tôi nhìn núi là núi, nhìn sông là sông,
hôm nay tôi nhìn núi không phải núi, nhìn sông không phải sông.
Ngày mai tôi lại nhìn núi là núi, nhìn sông là sông. Không phải tôi
thay đổi núi sông mà chính là thay đổi nhận thức
của tôi về núi sông. Đào núi ngăn sông hay là chinh phục
tự nhiên là chuyện dài nhiều tập của khoa học.
Còn chuyện thay đổi nhận thức của tôi về
thế giới là chuyện của tôi, nằm trong tầm với
của tôi. Chẳng trách hội nghị Phật giáo thế
giới vẫn thương nhắc lại giáo lý giải
thoát đặc biệt này của đạo Phật:
“A harmonious World
begins in the Mind” (Thế giới hài hòa bắt đầu từ
trong Tâm); hay:
“Harmony in Society
begins from the Mind” (Một xã hội hài hòa bắt đầu
từ trong Tâm).
Mọi người
hãy còn nhớ đến nhà triết học Kant của
Đức thế kỷ XVIII, tuyên bố rằng ông đã
làm cuộc cách mạng về nhận thức luận theo
kiểu Copernic đã làm trong thiên văn học. Kant cho rằng
không phải nhận thức của chủ thể phải
phù hợp với khách thể mà ngược lại. Không biết
Kant chịu ảnh hưởng của Phật giáo nhiều
hay ít, nhưng điều mà ông tuyên bố về nhận thức
luận không hẹn mà trở thành bạn đồng hành với
giải thoát của Phật giáo.
Người ta
đã khắc câu nói nổi tiếng của nhà triết học
Kant trên bia mộ của ông:
“Có hai sự kiện
làm cho chúng càng suy nghĩ càng cảm thấy bàng hoàng, khiếp
sợ, đó là khoảng trống không trên bầu trời
và khoảng trống không về chuẩn mực đạo
đức trong tâm của chúng ta”.
(Zwei Dinge erfüllen das Gemüt mit immer neuer
und zunehmender Bewunderung und Ehrfurcht, je öfter und anhaltender sich das
Nachdenken damit beschäftigt: Der bestirnte Himmel über mir, und das moralische
Gesetz in mir).
Hai sự kiện,
hai khoảng trống mà Kant nói đến, đối với
ông là hoàn toàn thụ động, nhưng đối với
thiền định của Phật giáo thì lại hoàn toàn
chủ động. Khoảng “không” của thiền định
bao giờ cũng tạo điều kiện tối ưu
để tuệ và giải thoát thăng hoa.
Thứ hai, giải
thoát bắt đầu từ cá nhân chứ không phải từ
cộng đồng.
Nếu “tuệ”
là tự cảm nhận chứ không phải là truyền
đạt-tiếp thu. Vậy thì không có cộng đồng
nào có thể làm việc đó thay cho cá nhân cả. Nếu
như sáng tạo bao giờ cũng bắt đầu từ
cá nhân thì giải thoát cũng vậy, giải thoát là sự
sáng tạo của sáng tạo.
Trần Thái
Tông trong Khóa hư lục khẳng
định rằng không có định thì không có tuệ,
không có tuệ thì cũng không có giải thoát.
Tóm lại, đạo đức và tri thức là sản
phẩm của con người, không có nó thì con người
không thể tồn tại và phát triển. Tuy nhiên nếu
đạo đức hòa tan vào tri thức hay vào chính trị
thì con người hoặc trở thành con người kinh tế hoặc con người chính trị. Phật giáo không phải
không bàn đến kinh tế hay chính trị. Chẳng phải
Phật giáo đời Trần đã làm cho kinh tế, chính
trị của đất nước lúc bấy giờ phát
triển mạnh mẽ đó sao? Tuy nhiên, kinh tế, chính trị
chỉ là điều kiện chứ không phải là cứu
cánh. Nó là ngón tay để chỉ mặt trăng chứ
không phải bản thân mặt trăng. Giải thoát của
Phật giáo làm cho con người trở thành con người
nhân bản. Tam học của Phật giáo là sự kết hợp
giữa đạo đức - trí tuệ và thiền định
để giải thoát. Cho nên giải thoát là tự giải
thoát. Tam học và giải thoát của Phật giáo đáng
để cho cuộc sồng hiện nay suy ngẫm.