Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Đầu xuân, khi trời mát
mẻ, đức Phật tính chuyện lên đường trở về Sāvatthi. Thấy hội chúng quá
đông, đức Phật bảo chư
vị trưởng lão mỗi vị dẫn mỗi nhóm, mỗi chúng phân phối theo nhiều lộ trình, qua
nhiều thôn làng để tiện việc khất thực.
Hôm kia, trời chiều,
cạnh một khu rừng, với đại chúng vây quanh, đức Phật ngắm nhìn một bọn trẻ đang
quây quần vui chơi bên một đám bò đang ăn cỏ; và xa xa bên kia, lại có một đám
trẻ khác dường như đang lựa tìm để cắt những đám cỏ xanh non hơn; ngài chợt mỉm
cười cất tiếng gọi:
- Có tỳ-khưu Sotthiya
đấy không?
- Thưa có, bạch đức Thế
Tôn.
Khi tỳ-khưu Sotthiya
đến đảnh lễ đức Phật rồi tìm ngồi nơi phải lẽ. Đức Phật hỏi:
- Thuở trước, ông là
một đứa trẻ chăn bò, ông có dâng cho Như Lai tám bó cỏ kusa để Như Lai kết nên
một bồ đoàn; cỏ ấy quả thật là cỏ thơm và lâu hư mục, vậy chắc ông trước đó là
một người chăn bò khéo giỏi nhỉ?
- Thưa, không dám thế
đâu! Nhưng đệ tử biết tất cả các loại cỏ như cỏ hôi, cỏ đắng, cỏ độc, cỏ
thơm, cỏ nhuận trường, cỏ táo bón, cỏ có gai, cỏ không gai, cỏ mau thối
rữa, cỏ lâu hư mục... bạch đức Thế Tôn!
- Thật diệu kỳ thay,
này đại chúng! Các pháp ở thế gian, Như Lai cũng nhận thấy là có pháp hôi, có
pháp đắng, có pháp độc, có pháp thơm, có pháp nhuận trường, có pháp táo bón, có
pháp có gai, có pháp không gai, có pháp mau thối rữa, có pháp lâu hư mục y như
Sotthiya đã nói vậy đó!
Khi thấy đại chúng đều
mở to đôi mắt ngạc nhiên, có vẻ quan tâm muốn nghe lời mở đầu kỳ lạ như thế; đức
Phật bèn cất giọng nói tuyệt diệu như tiếng chim Ca-lăng-tần-già lảnh lót, vang
ngân giữa rừng chiều thinh lặng:
- Này các thầy tỳ-khưu!
Sau khi giác ngộ dưới cội bồ-đề, với tuệ thế gian thông suốt, với tuệ xuất thế
gian viên mãn, Như Lai thấy biết rõ ràng pháp trong, pháp ngoài, pháp gần, pháp
xa, pháp thô thiển, pháp vi tế, pháp đen, pháp trắng, pháp xấu, pháp tốt một
cách minh nhiên, như thị.
Thế nào là pháp có mùi
hôi? Đấy là những người không có giới đức, sống trược hạnh, hành ác
hạnh mà lại muốn lập tông, lập giáo, làm đạo sư, làm chân sư, làm giảng sư rồi
thuyết giáo lung tung, huyên thuyên nơi này và nơi khác, tưởng mình là trung tâm
của vũ trụ, tưởng mình là ngôi sao lóe sáng giữa trời cao; thì lời nói ấy, pháp
ấy, luôn tỏa ra mùi hôi, mùi ác uế, mùi thô trược phải nên tránh xa, không nên
thân cận, gần gũi.
Thế nào là pháp có vị
đắng? Pháp có vị đắng là những lời nói chơn chánh, ngay thật, đúng đắn
của các vị trưởng lão vô lậu, của thiện bạn hữu, thiện thân tình khi khuyên ta
từ bỏ một vài thói hư, tật xấu... Đôi khi lời nói ấy quá trực
tính, khó nghe hoặc đụng chạm đến tự ái, bản ngã của ta nên rất khó ăn, khó nuốt
vì nó đắng quá. Nhưng chính nhờ thuốc đắng mới chữa trị được nhiều căn
bệnh. Vậy, thuốc đắng ấy mới cần thiết hơn những lời nói ngọt ngào, đường mật,
êm tai, thỏa dạ để cố mua chuộc lòng người trong một mưu đồ, mưu
cầu vị kỷ nào đó; các thầy phải thấy rõ, biết rõ như vậy.
Thế nào là pháp có vị
độc? Người có bụng dạ độc ác thường được ví như cọp
beo, như rắn rít. Vậy, các trạng thái tâm như độc ác, hận thù, bạo tàn,
hung dữ... là những thứ đại độc có thể đưa ta xuống địa ngục đồng sôi, địa ngục
chão dầu. Ngay chính những vị độc nhẹ hơn như bực tức, nóng
nảy, giận hờn, ganh ghét, đố kỵ cũng đừng nên để chúng dính vào tâm, nguy hiểm
lắm đó.
Thế nào là pháp có mùi
thơm? Người nào có giới, có định, có tuệ thì pháp của họ luôn tỏa ra mùi
thơm. Người có giới, định, tuệ thì dù họ nói hay, nói dở, nói ngắn, nói
dài, nói dịu dàng, nói gay gắt, nói lắp bắp, nói ngọng nghịu gì gì chăng nữa thì
pháp ấy cũng đều thơm tho, ngào ngạt cả. Như bản chất của chiên đàn đỏ, chiên
đàn vàng... thì dù quăng vất đâu, đốt xuôi, đốt ngược, và cho dù thành khói,
thành tro nó cũng tỏa hương thơm nồng đượm.
Thế nào là pháp nhuận
trường? Pháp nhuận trường chính là những pháp bố thí,
xả, ly tham. Người nào thực hành những pháp này thì tâm
người ấy luôn luôn được trôi chảy dịu dàng, thông thoáng, không có bị dính mắc
bới một chấp thủ sở hữu nào. Khi tâm được buông xả như
thế thì thân cũng được nghỉ ngơi, tịnh dưỡng; tất cả thần kinh, khí huyết, mọi
tế bào đều được vận hành điều hòa, bình ổn. Đấy còn được gọi là pháp hỷ,
pháp lạc được tẩm mát, tràn đầy thân tâm, có lợi cho sức khỏe, có lợi cho sự
tiêu hóa, có lợi cho sự xả ly tối thượng...
Thế nào là pháp táo
bón? Những cái gọi là keo kiệt, rít róng, bỏn xẻn khi mà nó đã len
lỏi vào tâm rồi thì nó sẽ làm cho các pháp lành bị teo tóp lại, khô rúm lại; lâu
ngày chầy tháng thì những mầm xanh, những hạt giống lành cũng bị tiêu hoại luôn.
Thế rồi, tâm ảnh hưởng đến thân, tác động toàn bộ tế bào, khí huyết trong một
chừng mực nào đó nó sẽ tạo duyên cho sự táo bón kinh niên, vón cục, vón hòn cả
đường ruột nữa đấy!
Cả hội chúng phì cười.
Đức Phật cũng cười rồi
ngài lại tiếp tục giảng nói như nước chảy mây trôi:
- Còn thế nào là pháp
có gai và pháp không gai? Đấy ám chỉ những pháp còn dính mắc
gai nè kiết sử và những pháp không còn dính mắc gai nè kiết sử. Ví như một đốt tre có mười lóng dính mắc gai nè rườm rà, ám chỉ cho
tâm chúng sanh đang đầy dẫy tham sân si, tà hạnh, trược hạnh.
Trên lộ trình tu tập, họ cắt, họ gỡ lần lần những gai, những mắt ấy đi.
Nếu cắt được ba mắt thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ thì họ bắt đầu đi vào
dòng giải thoát. Làm nhẹ, trẩy sơ sơ hai mắt kế là tình
dục và bất bình thì họ đi vào dòng giải thoát thứ hai.
Nếu làm sạch luôn hai mắt ấy thì họ đi sâu vào dòng giải thoát thứ ba.
Nếu cắt luôn, làm sạch luôn năm mắt cuối là sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, phóng
tâm, vô minh thì họ đã là một vị A-la-hán, đã làm xong những việc cần làm trên
đời này.
Cuối cùng, thế nào là
pháp mau thối rữa và pháp lâu hư mục?
Này các thầy tỳ-khưu!
Đây là ám dụ cho những pháp hữu vi, được cấu tạo, do duyên sinh dù vật chất hay tinh thần.
Những pháp hữu
vi mau thối rữa chính là những ham muốn thân xác hạ liệt, ô uế; vì chúng
mau đưa đến sự nhàm chám, ghê tởm, dơ dáy sớm bốc mùi hôi. Nói rộng hơn thế nữa
là tất thảy những dục vật chất qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thuộc dục giới chúng đều cùng một thuộc
tính là mau chán, mau nhàm và hằng đưa đến những khổ đau, phiền não thô tháo.
Còn thế nào là những
pháp lâu hư mục? Đấy là những ham muốn, những
thỏa mãn về tinh thần. Tuy nó nhẹ nhàng hơn, thanh lương hơn, lâu dài hơn
nhưng vẫn đưa đến những ràng buộc, những phiền não vi
tế. Nói rộng ra, ngay chính những sắc ái, vô sắc ái, những cảnh giới thiền định
này cũng rơi vào định luật trên, tuy có vẻ lâu bền nhưng cũng không chắc thật,
chỉ do tưởng sinh, do tưởng thành mà thôi.
Này các thầy tỳ-khưu!
Vì thấy ba cảnh giới dục, sắc và vô sắc là hệ lụy, là thống khổ, là hữu vi sanh
diệt, là căn nhà lửa nên Như Lai mới công bố pháp giải thoát, pháp siêu xuất
ngoài ba cõi ngay chính trong đời sống này, ngay hiện tại này cho những ai có
tai muốn nghe, có trí muốn tìm hiểu.
Bài pháp giản dị, cụ thể, vô cùng
vi diệu của đức Phật vừa chấm dứt thì đất trời, núi rừng đã đi vào hoàng
hôn. Đàn bò và bọn trẻ chăn bò cũng đã lui về thôn xóm đã lâu.