PHẬT HỌC CẤP II
(BUDDHISM KEY STAGE II)
NGHIÊN CỨU ĐẠO PHẬT - SÁCH DÀNH CHO
THIẾU NHI
Nguồn dịch: Sách của Quỹ Giáo Dục Đạo
Phật Anh Quốc
Nguyên tác : Jing Yin W. Y. Ho
Người dịch: Hoàng Phước Đại - Pháp
danh: Đồng An
MỤC LỤC CONTENTS
Lời giới thiệu
Introduction
ĐỨC PHẬT THE BUDDHA
1. Sự ra đời của thái tử The birth of
the prince
2. Tuổi thơ của
thái tử Childhood of the prince
3. Thời niên thiếu và việc học tập của thái tử
Youth and education of the prince
4. Bốn cái nhìn The four sights
5. Sự từ bỏ
Renunciation
6. Câu hỏi The quest
7. Giác ngộ Enlightenment
8. Lãnh đạo các tỳ kheo
Chief monks
9. Lãnh đạo tỳ kheo ni Chief nuns
10. Những cư sĩ xuất chúng Outstanding
Lay Followers
11. Những ngày cuối cùng của Đức Phật
The Buddha’s Last Days
PHÁP THE - DHARMA
1. Chân lý
cao quý thứ Nhất: Sự khổ đau
The First
Noble Truth: Suffering (Dukkha)
2. Chân lý
cao quý thứ Hai: Nguyên nhân của sự khổ đau
The Second
Noble Truth: The cause of suffering
3. Chân lý
cao quý thứ Ba: Chấm dứt khổ đau
The Third
Noble Truth: The end of suffering
4. Chân lý
cao quý thứ Tư: Con đường chấm dứt khổ đau
The Fourth
Noble Truth: Path leading to the end of suffering
TĂNG ĐOÀN - THE SANGHA
Nương tựa Tam bảo The Threefold Refuge
Năm giới hạnh The Five Moral Precepts
Biểu tượng Đạo Phật Symbols in Buddhism
Cư sĩ The Laity
Lễ hội Phật giáo Buddhist Festivals
Đạo Phật trên thế giới Buddhism in the
World
NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ ĐẠO PHẬT - THE BUDDHIST STORIES
Ki Sa Gau Ta Mi Kisa Gautami Chân lý
cao quý thứ Nhất — Khổ đau The First Noble Truth — Suffering (Dukkha)
Cái bẫy khỉ The Monkey Trap Chân lý cao
quý thứ Hai — Nguyên nhân của khổ đau The Second Noble Truth — The cause of
suffering
Người tỳ kheo hạnh phúc A Happy Monk
Chân lý cao quý thứ Ba— Chấm dứt khổ đau The Third Noble Truth — The end of
suffering
Cái bè Raft Chân lý cao quý thứ Tư —
Con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ
The
Fourth Noble Truth — Path leading to the end of suffering
Ngươi không thể làm bẩn bàu trời You Cannot Dirty the Sky
Nói đúng — Tránh dùng những từ ngữ thô lỗ khi nói chuyện
Right Speech — Avoid using harsh words in speech
Con chim cút dũng cảm The Brave Quail
Giới thứ Nhất — Không sát sinh The First Precept — No killing
Thói quen xấu của người lớn Habit of Committing Adultery
Giới thứ Ba — Không quan hệ tình dục bừa bãi The Third Precept — No sexual
misconduct
Con
ruồi và con voi A Fly and an Elephant
Giới thứ Năm — Tránh uống rượu và sử dụng chất ma túy The Fifth Precept —
Avoiding intoxicant drinks and drugs
Người
cư sĩ vi phạm Năm giới luật A Layman who Violates the Five Precepts
Sự
tuan trọng của giữ giới luật The importance of keeping to the precepts
Con
voi Na La Gi Ri The Elephant Nalagiri
Yêu thương - lòng từ bi Loving-Kindness
Lời giới thiệu
Lúc thiếu thời, Đức Phật đã có những suy nghĩ giống thiếu nhi hôm nay. Các cháu
tự hỏi tại sao các chàu bị sốt. Tự hỏi tại sao ông bà các cháu lại chết. Tại sao
những ước mơ của các cháu không phải là sự thật. Các cháu tự hỏi về vẻ đẹp và
hạnh phúc của cuộc đời.
Bởi vì Đức Phật biết rõ suy nghĩ của trẻ em nói riêng và loài người nói chung,
Ngài dạy chúng ta làm thế nào để sống hạnh phúc và có cuộc sống thanh bình. Đạo
Phật không phải là niềm tin mù quán vào nơi xa lạ nào đó. Đạo Phật xem xét và
suy nghĩ về cuộc sống của chúng ta. Dạy cho chúng ta hiểu về bản thân và làm thế
nào để đối phó với những vấn đề rắc rối của bản thân chúng ta. Đạo phật không
dựa vào mê tín. Đạo Phật dạy cho chúng ta dựa vào nỗ lực bản thân chúng ta muốn
tiến bộ. Đức Phật dạy khoan dung và thương yêu tất cả mọi sinh vật.
Đà Nẵng, ngày 3 tháng 12 năm 2009
Người dịch: Hòang Phước Đại. Pháp
danh Đồng An
Introduction
We know that as a child, the Buddha was troubled by some of the same thoughts as
children have today. Children wonder why they get sick. They wonder why their
grandfather died. They wonder why some people are poor, while others are rich.
They wonder why their wishes do not come true. Children also wonder at the
beauty and happiness of life.
Because the Buddha knew what was in the hearts of children and mankind, he
showed us how to live a happy and peaceful life. Buddhism is not about learning
strange beliefs from faraway lands. It is about looking at and thinking about
our own lives. It shows us how to understand ourselves and how to cope with our
problems. Buddhism is not based on superstition. It teaches us to rely on our
own efforts if we want to better ourselves. The Buddha taught tolerance of other
faiths and compassion to all living creatures.
Preface
Buddhism Key Stage 2 is the second publication in our series of Buddhist
textbooks, and is devised for pupils between the ages of seven and eleven. This
edition is produced under the guidelines stipulated in the syllabus prescribed
in the UK by the revised National Curriculum of 1994.
The subjects covered in this book are an extension of the theme on the Triple
Gem presented in Buddhism Key Stage 1, with the contents augmented to include
additional information on the life of the Buddha, his teachings, the development
of Buddhism and its characteristics as a religion. Although Buddhist
thoughts are formally introduced at this Key Stage, their meaning is confined to
an elementary level and explained in the context of everyday experience of
pupils in this age group. The brief Introduction is intended to bring into
context the spirit behind what the pupils are about to learn, and the selection
of Buddhist stories to illustrate the Dharma and Precepts covered in the main
contents. As both Pali and Sanskrit words appear in the text, a list of their
equivalents is provided at the end of the book for easy reference.
Buddhism Key Stage 2 is accompanied by a Teacher’s Guide which lists
instructional objectives, vocabulary and essential points of the text in each
Unit. There is also supplementary information and guidance on approach to
provide a more effective teaching-learning situation. As it is believed that
pupils of this age group are more likely to benefit in the learning process
through active participation, activities and discussion topics are suggested in
the hope of making these lessons on Buddhism more interesting and mentally
stimulating.
We look forward to receiving feedback
from both teachers and pupils on this edition with a view of improving the
material in the next.
President
The Buddhist Education Foundation
(UK)
Đức Phật
1 Sự ra đời của Thái tử
Cách đây rất lâu, tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn, có một vương quốc nhỏ gọi là Vương
quốc Ca Tỳ La Vệ. Ở đây, có vị vua Vương Đầu Đà Nà thuộc họ Thích
Ca, nổi tiếng về đức hạnh và tài trí, cai quản thống trị. Kinh đô của ngài rất
đẹp, đông đúc dân cư và nhiều khu mua bán, ở đó có nhiều người tốt bụng, khôi
ngô tuấn tú và mắt sáng. Những người phụ nữ kiều diễm đi trên đường với những nữ
trang lấp lánh. Đường phố tấp nập người qua lại, quý tộc đi xe ngựa, thương nhân
cưỡi voi và nông dân đi bộ. Trẻ em chơi đùa và dân làng đang tắm dọc 2 bên bờ
sông tràn ngập ánh nắng. Thành phố được bao bọc bởi những vườn cây rộng lớn với
nhiều hoa, muôn thú và ao hồ mát mẻ. Những chiến binh dũng cảm đang trên ngựa
bảo vệ nhà vua.
(Hình bên: Trung tâm đồng bằng
sông Hằng ở Bắc Ấn Độ The Central Ganges Plain in Northern India)
The Buddha
1. The birth of the prince
A long time ago, at the foot of the Himalayan Mountains, there was a small
kingdom called Kapilavatthu. Here, the righteous and mighty King Suddhodana
ruled over the Sakya clan. His capital city was a delightful place, where a mass
of joyful people with handsome features and flashing eyes crowded the squares
and market places. Young girls walked gracefully along the streets, wearing
their sparkling jewellery. All kinds of people travelled along the roads —
noblemen in chariots, merchants on elephants and peasants on foot. Children
played in the gleaming river and holy men and villagers bathed along its shores.
The city was decorated with large gardens filled with beautiful flowers,
peacocks and cool ponds. Brave warriors on horseback guarded the kingdom.
Giấc mơ của hoàng hậu Ma Da
Nhà vua có người vợ tên là Ma Da, xinh
đẹp, tốt bụng và yêu quý mọi người. Nhà Vua và hoàng hậu rất hạnh phúc, ngoại
trừ một điều. Họ chưa có con. Vào một đêm trăng tròn, Hoàng hậu Ma Da mơ thấy
một con voi trắng với sáu ngà. Những vị thông thái tiên đoán rằng “ Hoàng hậu
sẽ sinh hạ một thái tử tài đức song toàn”. Mọi người trong cung điện chúc
mừng khi nghe tin hoàng hậu sẽ sanh hạ thái tử.
The dream of Queen Maya
The king had a beautiful wife named
Maya, who was kind and loved by everyone. The king and queen were very happy,
except for one thing. They did not have any children.
On a full-moon night, Queen Maya dreamed of a big white elephant with six tusks.
The wise men predicted, “You will give birth to a wonderful child.”
Everyone in the kingdom celebrated when they heard that a child was to be born
to their queen.
Sanh hạ trong vườn Lâm Tỳ Ni
Hoàng hậu Ma Da trở về nhà cha mẹ của mình, chuẩn bị
sanh nở theo phong tục Ấn Độ. Nhà vua ra lệnh dọn dẹp, trang trí hoa và băng rôn
dọc đường.
Khi đoàn tùy tùng đến vườn Lâm Tỳ Ni, hoàng hậu nói, "Chúng ta dừng chân và
nghỉ ngơi đêm nay trong vườn cây sum sê kia”. Bây giờ là tháng Năm. Những
bông hoa trong vườn nở rộ, tỏa mùi hương thơm ngát. Nhưng con chim líu lo vang
lừng, những con bướm dập dìu dọc lối đi của hoàng hậu và đoàn tùy tùng. Ánh sáng
ban ngày bắt đầu lui dần, Mặt trăng sáng vằng vặc đang cao dần trên ngọn cây.
Hoàng hậu dừng chân dưới cây Sa La. Hoàng hậu với tay hái bông hoa. Ngay lúc đó,
một bé trai khôi ngô, được sanh hạ từ hoàng hậu. Thân thể của bé trai phát ánh
sáng chói lòa và khuôn mặt khôi ngô, tuấn tú, với nhiều vẻ đẹp. Bầu trời tràn
ngập hương thơm và những âm thanh thần tiên. Mọi người ai cũng vui mừng lúc thái
tử được sanh hạ. Những con hươu và muôn thú trong vườn, ý thức về sự kiện đặc
biệt đã đến và ngắm nhìn thái tử.
Mọi người ngạc nhiên, khi thái tử cất tiếng nói “ Ta là người cao quý nhất
thế giới. Ta là người thông thái nhất thế giới. Đây là lần sinh cuối cùng của ta.
Rồi thái tử mỉm cười và đi bảy bước chân về bốn hướng. Hoa sen nở dưới chân khi
thải tử đi qua.
Lúc đoàn tùy tùng về đến cung điện. Nhà vua nhìn thấy con mình và nói, “ Ta
rất vui sướng. Hãy để cho mọi người vui sướng với ta”.
The birth in Lumbini Park
Queen Maya returned to her parents’ home
to give birth as that was the custom in India. The king had the roads along the
way cleaned and decorated with flowers and bright silk banners fluttering in the
warm breeze from the hills.
When the royal party came to Lumbini Park, the queen said, “We shall stop and
rest for the night in this grove of beautiful trees.” It was the month of
May. The flowers in the park were in full bloom, scenting the air with a sweet
smell. Birds chirped their lovely songs and butterflies darted along the path
where the queen and her attendants walked. The daylight began to fade and a
silvery full moon rose above the treetops.
Queen Maya stopped under a sala-tree. She reached up to a branch to pluck a
flower. As she did, a shining baby boy was born from her. His body shone with a
dazzling light and he was perfect in every way. A soft rain fell and the night
air was filled with heavenly music. Showers of perfumed petals rained down.
Everyone was delighted at the birth. The deer and other animals in the
park, sensing something special, came and looked in wonder at the prince.
To everyone’s amazement, the baby prince spoke a verse, “I am the highest in
the world. I am the foremost in the world. This is my last birth.” Then he
smiled and took seven steps
in each of the four directions. Lotuses sprang open under his feet as he
walked.
Afterwards, the royal party returned to
the palace. When the king saw his son, he said, “I am filled with great joy.
Let everyone in the world rejoice.”
Lời tiên doán của A Tư Đà
Trên đỉnh núi cao hiểm trở, có một người tên là A Tư
Ðà sinh sống, nguời này rất thông thái có thể đoán trước tương lai. Một ngày
kia, ông ấy nhìn thấy hào quang tỏa sáng rực rỡ mọi nơi và biết rằng có thể thái
tử đã sinh thành. Ông ấy xuống núi đi đến cung điện, báo cho nhà vua
sự ra đời của thái tử thiên tài.
“
Xin chúc mừng nhà vua và hoàng hậu, đã sinh hạ được cháu bé tài giỏi”, A
Tư Đà nói với vẻ vui mừng. Rồi bất chợt ông ấy thở dài, chảy nước mắt.
Nhà vua lo sợ hỏi, “Liệu sẽ có điều không may với cháu bé?”
A Tư Đà trả lời, “Thần không thấy điều gì có thể làm tổn thương cháu bé. Cháu
bé này được sinh ra để mang lại hạnh phúc cho thế giới. Cháu bé sẽ trở thành thủ
lĩnh của mọi người. Thần khóc bởi hạnh phúc, vì cháu được sinh ra trên
mảnh đất của chúng ta. Nhiều điều kì diệu sẽ xảy ra. Thần khóc bởi vì thần chết
sớm và không được vinh dự học hỏi từ người. Người này sẽ ngự trị khắp thế giới
và trở thành Đức Phật.
Vị thông thái không nói gì thêm ông lui về hang động của mình trên đỉnh núi
tuyết phủ. Đức vua và hoàng hậu rất buồn khi nghe điều này.
Cháu bé được đặt tên là Tất Đạt Đa có
nghĩa là điều ước được thỏa mãn.
Asita’s prediction
In the distant mountains lived Asita, a
wise man who could see into the future. One day he saw a bright glow all around
the palace and knew that a mighty prince had been born. He came down from
the mountain and went to the palace. The proud and happy king showed him his
amazing son.
“Rejoice, O King and Queen, a very special child has been born to you!” Asita said joyfully.
Then he went into deep thought. Suddenly he began to shed tears.
The king was troubled. He asked, “Will some misfortune befall the Prince ?”
Asita answered, “I foresee no harm to the child. He is born to bring
happiness to the world. He will be a great leader among men. I shed tears of joy
that he has been born in our land. Many wonderful things will happen. I shed
tears of sad-ness because I shall soon die and not be able to honour him or
learn from him. He will go forth in the world and become a Buddha.” The holy
man said no more, he went back to his cave in the snow-capped mountains. The
king and the queen were very upset when they heard this.
The baby was given the name Siddhartha, which means “a wish fulfilled”, and his
family name was Gautama.
2. Tuổi thơ của Thái tử
Bảy ngày sau khi sanh, Hoàng hậu Ma Da qua đời. Thái tử được nuôi nấng dưới sự
yêu thương bảo bọc của người mẹ kế tên là Ba Xà Ba Ðề. Thái tử khôn lớn và hạnh
phúc, lúc nào cũng nghĩ người mẹ kế như người mẹ ruột của mình.
Cây táo đỏ
Vào mỗi mùa xuân, nhà vua tham gia lễ hội cấy cày với những cận thần, một lễ hội
truyền thống của người Ấn Độ. Nhà vua sẽ cày đường đầu tiên trên đồng ruộng cho
mùa gieo trồng vụ xuân.
Năm đó, nhà vua dẫn thái tử đến dự lễ cày. Mọi người ai cũng vui sướng khi nhìn
thấy nhà vua và thái tử. Người lớn và trẻ em reo hò khi những đường cày vàng của
nhà vua rẽ vào đất. Kế tiếp các vị quan lại cày với chiếc cày bạc của mình và
những người nông dân sẽ tham gia những đường cày còn lại bằng cày gỗ. Có một
ngàn đường cày như vậy. Lúc những người nông dân đang làm việc, mồ hôi túa ra từ
trán của họ. Họ hò hét và quất mạnh vào những con trâu đang chịu đau đớn, cố
gắng kéo những cái cày nặng kia.
Thình lình, trên bầu trời xuất hiện nhiều con quạ đen lượn vòng trên những đám
đất vừa cày xong. “Quạ!, quạ!” chúng kêu lên trong lúc đâm bổ xuống đất
và gắp những con sâu lên khỏi mặt đất bằng chiếc mỏ sắc bén. Thái tử kéo tay cha
và nói “ Sao không có ai ngăn chúng lại?”
Nhà vua cười vang, “ Đó là điều tự nhiên!”
Thái tử bần thần bỏ đi và ngồi xuống dưới bóng râm của cây táo đỏ, để thiền
định. Thái tử quan tâm đến hơi thở của mình. Hơi thở của thái tử giống như cái
cầu nối giữa thân thể và suy nghĩ. Khi thái tử tập trung vào hơi thở trong giây
lát, thân thể của thái tử trở nên thoải mái nhẹ nhàng và tâm hồn trở nên bình
lặng và thư thái.
Khi nhà vua nhìn thấy thái tử ngồi thiền, nhà vua nhớ đến lời tiên đoán của A Tư
Đà. Nhà vua nghĩ thầm, liệu lòng tốt, sự hào hiệp và suy nghĩ về chúng sinh, sẽ
làm cho thái tử từ bỏ thế giới này trong ngày nào đó.
Con thiên nga bị thương
Một ngày kia khi thái tử và người em họ tên là Đề Bà
Đạt Đa đang đi bộ trong rừng, họ thấy một con thiên nga. Nhanh như tia sáng, DĐề
Bà Đạt Đa rút cung tên và bắn rơi con thiên nga, Thái tử tức tốc lao đến con
thiên nga bị thương và lôi mũi tên ra. Thái tử ôm thiên nga vào lòng và vỗ về.
De Va Dat Ta la lên giận dữ với thái tử “ Trả con thiên nga cho em, em đã bắn
nó, nó thuộc về em”.
Thái tử nói chân thành, “Ta sẽ không bao giờ giao thiên nga cho em, vì em sẽ
giết nó!”. Họ tranh cãi với nhau về con thiên nga, mãi đến khi Tất Đạt Đa
đưa ra đề nghị,” Hãy hỏi các quan ở tòa và để họ quyết định”.
Các quan tòa có ý kiến khác nhau.
Một vài quan tòa nói,”Con thiên nga thuộc về Đề Bà Đạt Đa.”
Quan tòa khác nói,” Nó phải thuộc về thái tử.”
Cuối cùng, một quan tòa nổi tiếng thông thái đứng dậy nói, "Sự sống thuộc về
người nào đã cứu nó, nó không thuộc về người đã hủy hoại nó. Con thiên nga thuộc
về thái tử.”
Thái tử chăm sóc thiên nga cẩn thận, cho đến khi thiên nga có thể bay lại được.
Sau đó, thái tử thả nó ra để nó có thể sống tự do trong rừng với những con thiên
nga khác.
Đề Bà Đạt Đa không bằng lòng. Đề Bà Đạt Đa thách thức thái tử,“ Một ngày kia,
ta sẽ cho ngươi biết tay”.
2. Childhood of the prince
Within seven days after the birth of her baby, Queen Maya died. The Prince was
brought up under the loving care of his stepmother, Pajapati. He grew up to be a
happy child, thinking of her as his mother.
The Rose-Apple tree
It was an ancient Indian tradition that
every spring, the king took part in the Ploughing Festival with his subjects.
The king would plough the first row in the fields for the spring planting.
That year, the king took the prince to the Ploughing Festival. Everyone was
happy to see them. The men and boys shouted with joy as the king’s golden plough
cut into the earth. Next, the royal ministers ploughed a row with their silver
ploughs, and then the peasants took over the rest of the ploughing with their
wooden ploughs. There were one thousand ploughs in all. As the peasants worked,
sweat poured from their brows. They yelled and whipped the panting oxen that
struggled to pull the heavy ploughs.
Suddenly, the sky was filled with black crows circling over the freshly ploughed
fields. “Caw! Caw!” they cried as they swooped down and plucked worms out
of the earth with their sharp beaks. The prince tugged at his father’s arm, “Can’t
anyone stop them?”
The king laughed heartily, “It is only natural!”
The prince wandered off and sat under the shade of a rose-apple tree,
meditating. He concentrated on his breath. His breath was like a bridge between
his body and mind. When he concentrated on his breath for a while, his body
became relaxed and his mind became quiet and peaceful.
When his father saw the prince sitting in meditation, he remembered Asita’s
words. He wondered whether the prince’s kind, gentle and thoughtful nature would
one day lead him to give up the world after all.
The wounded swan
One day when the prince and his cousin
Devadatta were walking in the woods, they saw a swan. As quick as a flash,
Devadatta drew his bow and shot the swan down. The prince rushed to the wounded
swan and pulled out the arrow. He held the bird in his arms and stroked it.
Devadatta shouted angrily at the prince, “Give me the swan! I shot it!
It belongs to me!”
“I shall never give it to you. You will only kill it!” said the prince firmly.
They argued over the swan for some time, until Siddhartha made a suggestion. “Let’s
ask the ministers of the court and let them decide.”
The ministers all had different views. Some said, “The swan should be given
to Devadatta.”
Others said, “It should go to the prince.”
At last one minister who was especially wise stood up and said, “ life
belongs to the one who saved it, not to oneA who will destroy it. The swan goes
to the prince.”
The prince took care of the swan until it could fly again. Then he turned it
loose so it could live freely with its own kind.
Devadatta was not happy. He shook his fist at his cousin, “One day, I will
get even with you!”
3. Tuổi trẻ và học tập của thái tử
Đi học
Khi Tất Đạt Đa lên 8 tuổi. Thái tử rất
vui mừng khi biết thái tử sẽ bắt đầu được đi học. Thái tử dậy sớm, rửa mặt và
chải tóc gọn gàng. Thái tử lắng nghe tiếng chân bước vào cung điện. Thái tử đứng
nhón chân cho cao hơn và lắng nghe. Thái tử đang chờ được gặp thầy giáo. Người
thầy thông thái nhất trong cung điện được chọn để dạy thái tử và Tất Đạt Đa hăm
hở muốn học được nhiều thứ. Thái tử có một cây bút dài và một bàn đá để học.
Một người đàn ông lịch thiệp với cặp mắt sáng bước vào phòng. Ông ấy thân mật
nói,“ Thầy tên là Tỳ Xa Mật Đa La. Thầy sẽ dạy cho thái tử về mặt trời,
mặt trăng và các vì sao trên trời. Chúng ta sẽ cùng nhau khám phá và học về hiện
tượng mưa. Thái tử cũng sẽ học cách bắt chước tiếng kêu và cách sống của động
vật. Thầy sẽ dạy cho thái tử viết những bài văn về các mùa trong năm và nhiều
điều khác nữa. Thái tử cũng học để đối xử tốt hơn.”
Gặp Kan Tha Ka
Một ngày kia, nhà vua ghé vào lớp học
nói, “ Tất Đạt Đa, cha có điều bất ngờ dành cho con. Con hãy nhìn ra ngòai
cửa sổ.” Tất Đạt Đa vỗ tay vui thích, khi nhìn ra ngòai của số, thấy
một con ngựa trắng như tuyết.
“
Ồ, cảm ơn cha! Đây là món quà tuyệt với.” Thọat đầu, con ngựa sợ hãi vì
thầy giáo Sằn Ðề Ðề Bà đã dạy cho Tất Đạt Đa làm thể nào để cho ăn và thuần
dưỡng. “ Con sẽ gọi con ngựa này tên là Kan Tha Ka.” Không lâu, Kan Tha
Ka đã bằng lòng cho Tất Đạt Đa chạy và chơi với nó.
Tất Đạt Đa học chăm chỉ hơn lúc nào hết để dành thời gian sau khi học tập, cưỡi
ngựa với thầy giáo. Họ lặng lẽ cưỡi ngựa băng qua những khu rừng và đuổi theo
những con thú vào tận rừng sâu. Họ thường bắt gặp những con thú bị đói hoặc bị
thương.
Thầy giáo Tỳ Xa Mật Đa La dạy cho Tất Đạt Đa làm thế nào để chăm sóc chúng. Thái
tử học cưỡi con Kan Tha Ka rất giỏi. Họ băng qua những con sông và chạy nhanh
như gió.
Huấn luyện như là một chiến binh
Nhà vua trầm ngâm nói với Tỳ Xa Mật Đa
La, “ Con trai ta có trái tim quá nhân hậu. Ta muốn thái tử trở thành một
chiến binh can đảm để có thể bảo vệ ngai vàng. Từ bây giờ, thầy hãy dạy cho thái
tử cách chiến đấu.”
Thái tử học bắn cung và đánh xe ngựa. Thái tử cũng học làm thế nào sử dụng gươm
và gậy và làm thế nào để vật ngã đối phương. Tất cả những bài huấn luyện này làm
cho thái tử mạnh mẽ. Thái tử luôn đam mê thể thao và không bao giờ khoe khoan
sức mạnh của mình với các em của mình. Các bạn học của thái tử chơi những trò
đánh nhau nhưng Tất Đạt Đa không bao giờ tham gia. Họ chế giễu thái tử là hèn
nhát và thưa với nhà vua,” Tất Đạt Đa không phải là một chiến binh giỏi.”
Thái tử học cách cưỡi những con voi được dùng trong chiến tranh. Thái tử đối xử
với chúng tốt bụng, không giống như các thái tử khác, luôn thô lỗ với chúng.
Một ngày kia, thầy giáo Sằn Ðề Ðề Bà tâu với vua,” Thần đã dạy tất cả những
điều mà thái tử cần biết để trở thành một vị vua trong tương lai. Thái tử can
đảm, mạnh mẽ và lịch thiệp. Thái tử thông minh và đối xử với mọi người công
bằng. Khi đi học, thái tử coi trọng các bạn trong lớp và không bao giờ thất lễ
với thầy giáo của mình.
Ba cung điện
Lòng tốt và lòng thương người của Tất
Đạt Đa làm nhà vua bối rối, luôn nghĩ đến lời tiên đoán của A Tư Đà. Nhà vua
quyết định bằng mọi cách không để thái tử nhìn thấy những hình ảnh không vui, có
thể làm thái tử từ bỏ những hoa lệ của cung đình vào ngày nào đó. Nhà vua làm
mọi thứ để thái tử hạnh phúc, nhà vua nói với Hòang hậu Ba Xà Đề,“ Ta sẽ xây
ba cung điện cho thái tử. Cái thứ nhất được làm bằng gỗ thơm, nó sẽ ấm cúng vào
mùa đông. Cái thứ hai sẽ được xây bằng đá cẩm thạch, được dùng vào mùa hè. Cái
thứ ba sẽ được xây bằng gạch, dùng cho mùa mưa.
Để cuộc sống thoải mái, nhà vua ra lệnh làm một công viên đẹp có hồ nước
dễ thương, có thiên nga và cá bơi tung tăng và hoa sen nở rộ. Nhà vua bảo người
hầu “ Dọn sạch tất cả những bông hoa già và những chiếc là rụng trong vườn.”
Nhà vua không muốn thái tử nhìn thấy bất kỳ điều không hài lòng nào.
Tất cả người hầu trong cung điện đều trẻ, khỏe và đẹp. Những người phục vụ giải
trí trong cung điện được lệnh ca hát và nhảy múa suốt ngày. Họ không được
biểu lộ sự mệt mỏi hoặc buồn rầu. Không một người nào nói chuyện về bệnh tật và
đau ốm.
Vua ra lệnh xây các bức tường quanh cung điện. Lệnh cho lính canh, “ Tất Đạt
Đa không được ròi khỏi cung điện mà không có lệnh của ta.”
3. Youth and education of the prince
Going to school
Siddhartha was now eight years old. He
was happy because this was his first day of school. He got up early and scrubbed
his face very clean and neatly combed his hair. He heard footsteps down the
hall. He stood up on his toes so he would look taller and smiled from ear to
ear. He was ready to meet his teacher. The wisest teacher in the kingdom had
been chosen and Siddhartha was eager to learn many things. He had his long
writing stick and slate ready.
A gentle man with sparkling eyes entered the room. He spoke in a kind
voice, “My name is Visvamitra. I shall teach you about the sun, moon and
stars in the heavens. We shall gather rocks and learn the signs for rain. You
will learn to copy the calls of animals and learn how they live. I shall teach
you to write verses about the seasons and much more. You will also learn
good manners.”
Meeting Kanthaka
One day the king came into the
classroom, “Siddhartha, I have a surprise for you. Look out the window.”
Siddhartha clapped his hands with joy, for there, poking its head through the
window, was a snow-white horse.
“Oh, thank you! What a wonderful present!” At first the horse was afraid
so Visvamitra taught Siddhartha how to feed it and stroke its head. “I shall
call you Kanthaka.” Soon Kanthaka was encouraging Siddhartha to run and play
with him.
Siddhartha studied harder than ever now so that he would have time after his
lessons to ride with his teacher. They would ride quietly through the
forests and follow animal tracks high into the foothills. Often they would come
across animals that were hungry or hurt.
Visvamitra taught Siddhartha how to take care of them. He learnt to ride
Kanthaka very well. They leapt across wide rivers and raced like the wind.
Training as a warrior
The king shook his head and said to
Visvamitra, “My son is too kind-hearted. I want him to become a fearless
warrior so he can defend the kingdom. It is time for him to learn to fight.”
The prince learnt to shoot arrows and
drive chariots. He was taught how to use swords and clubs and how to
wrestle. All this training made him strong. He was always a good sport and never
boasted of his strength as the other young princes did. His playmates played
fighting games, but Siddhartha never joined them. They jeered at him for being a
coward and told the king, “Siddhartha is not a good fighter.”
Elephants were used in war at that time so the prince learnt the art of riding
them. He treated them kindly, unlike other princes who were cruel to them.
One day Visvamitra spoke to the king, “I
have taught Siddhartha all that he needs to know to become a future king. He is
brave and strong, yet gentle. He is wise and treats everyone fairly. As a
student, he has been considerate towards his classmates and has never failed to
pay due respect to his teacher.”
The three palaces
Siddhartha’s kind and thoughtful nature
greatly disturbed the king, who often thought about the prediction of Asita.
He decided to make absolutely certain that his son did not see any sign of
unhappiness that would one day make him give up his royal pleasures. The king
did everything he could to make his son happy. He told Queen Pajapati, “I
shall have three royal palaces built for the prince. The first will be built
from perfumed wood. It will be warm in the winter season. The second will be
built of cool marble, to be used dur-ing summer The third will be of brick, for
the rainy season.”
To make life even more pleasant, the king created beautiful parks with lovely
pools where swans and fish swam and lotus flowers bloomed. He told the servants,
“Clear away all the old flowers and dead leaves in the garden.”
He did not want the Prince to see anything ugly.
All the servants in the palaces were young, healthy and beautiful. Royal
entertainers had been ordered to sing and dance all day. They were never to
appear tired or unhappy. No one was allowed to talk about pain or
suffering.
The king ordered walls to be built around the palaces. He instructed the
guards, “Siddhartha is not to leave without my consent!”
4. Bốn hình ảnh
Vào lúc 16 tuổi, Thái tử tất Đạt Đa lập gia đinh với công chúa trẻ đẹp có tên là
Da Du Ða La. Công chúa yêu thương và chăm sóc cho thái tử. Thái tử tiếp tục sống
cuộc sống vương gia gần 13 năm sau khi lập gia đình. Thái tử đã được bảo bọc để
không biết được những khó khăn trong cuộc sống ở ngòai cung thành. Thái tử hoàn
tòan hài lòng với cuộc sống tráng lệ của ngài. Sống trong thế giới không có gì
ngoài hạnh phúc và tiếng cười. Tuy nhiên, một ngày kia, thái tử muốn khám phá
những gì đang diễn ra bên ngoài cung điện.
Khi nghe tin như vậy, nhà vua ra lệnh cho mọi người trong thành phố,“ Tất cả
nhà cửa dọc hai bên đường phải dọn dẹp và trang hoàng. Mọi người đốt trầm thơm
và mặc áo quần màu sắc rực rỡ. Tất cả người xin ăn, người già và người ốm phải ở
trong nhà cho đến khi thái tử trở về cung điện”
Người già
Người đánh xe trung thành của thái tử
tên là Chan Na (Xa Nặc), đưa thái tử đi ra ngòai cung điện từ cổng
phía Nam. Khi đám đông thành kính nhìn thấy thái tử yêu mến của họ, họ rải hoa
và tung hô ngưỡng mộ. Tất Đạt Đa đã vui mừng thấy họ được hạnh phúc
Ngay lúc đó, một người già xuất hiện bên đường. Thái tử ngạc nhiên khi nhìn thấy
một người già. Thái tử hỏi người đánh xe của mình,”Loại người gì mà tóc trắng
và lưng gù vậy?” Mắt của ông ta lim dim, cơ thể của ông ta run lẩy bẩy.
Ông ta bước đi bằng cách lê những bước chân khó nhọc theo cái gậy. “Thân hình
của ông ta bị thay đổi hay ông ta luôn có hình dạng như vậy? Hãy nói cho
ta nghe, Chan Na.”
Chan Na tránh trả lời sự thật,” Đây không phải là việc của thái tử. Xin đừng
bận tâm về chuyện đó.”
Thái tử vẫn khăng khăng hỏi Chan Na.” Chỉ có mỗi ông ấy? hay tất cả chúng ta
đều như vậy?”
Lúc này, Chan Na chân thành trả lời,” Thưa ngài, chúng ta đều như vậy.”
Một khi thái tử còn trẻ, tóc sẽ đen và răng trắng. Thời gian trôi đi, thân thể
sẽ già nua. Nó xảy ra với mọi người.
Nghe những lời này, thái tử giật bắn người. Tóc thái tử dựng ngược lên. Thái tử
run vì sợ hãi, như con thú hoảng sợ khi thấy sấm chớp. Thái tử lắc đầu,“ Làm
sao con người có thể vui sướng khi tuổi già hủy hoại tất cả?’ Thái tử nói
với người đánh xe,“ Nhanh quay trở lại cung điện, Biết rằng tuổi già sẽ gọi
đến ta, làm sao ta có thể vui với núi rừng được”. Vâng lệnh thái tử, Chan Na
đánh xe nhanh như gió trở về cung điện.
Bệnh tật
Tất Đạt Đa không thể quên hình ảnh người
già. Thái tử suy nghĩ suốt ngày đêm và không thể tìm ra đựoc sự thanh thản trong
tâm hồn. Thái tử nói suy nghĩ của mình với Da Du Đa La,” khi nhìn người già,
tất cả những điều tốt đẹp trong thành phố dường như biến mất. Những nét đẹp và
nụ cười trong cung điện không thực sự tồn tại với ta. Ta muốn đi thăm thành phố
lần nữa để xem nó thực sự như thế nào. Để thấy người bình thường sống như thế
nào.
Nhà vua không thê chịu nổi khi nhìn thấy con mình không vui, nhà vua đồng ý cho
thái tử ra ngoài thành một lần nữa. Tất Đạt Đa và Chan Na đóng giả thành một
thương nhân đánh xe đi vào thành phố theo hướng Đông. Lần đầu tiên thái tử thấy
người bình thường sống thế nào trong vương quốc của thái tử cai trị. Thái tử
thanh thản quan sát những người thợ rèn và những người làm đố sành sứ đang làm
việc. Thái tử nói chuyện với với các thương nhân giàu có trong cửa hàng nguy nga
của họ. Thái tử nói chuyện với những người thợ làm bánh mỳ. Đột nhiên, thái tử
thấy nhìn thấy một người bị bệnh đang nằm dưới đất rên la và cúi gập người vì
đau. Thái tử đến bên ông ta và nâng đầu người đàn ông bị đau vào lòng, “
Chan Na, chuyện gì đã xảy ra với người đàn ông này?”
“Thưa ngài, đừng chạm vào ông ta! Ông ta bị bệnh truyền nhiễm. Hãy đặt ông ta
nằm xuống nếu không thái tử sẽ bị nhiễm bệnh.”
“Chỉ có người đàn ông này bị bệnh hay tất cả mọi người đều bị bệnh như vậy, Chan
Na?” Vợ ta và cha ta cũng sẽ bị bệnh?”
Chan Na trả lời “ Thưa Ngài, đó là điều tất nhiên xảy ra với mọi người ” Mọi
người trong thế gian đôi lần bị ốm. Bệnh tật xãy ra bất kỳ lúc nào trong cuộc
đời.”
Nghe điều này, thái tử cảm thấy đau xót trong tim,“ Bệnh tật có thể đến
lúc nào. Như vậy chưa có ai có thể có hạnh phúc và vui sướng.” Rồi thái tử
vào xe ngựa, ra lệnh Chan Na quanh trở về nhà.
Cái chết
Tất Đạt Đa trở về cung điện với cảm giác
nặng trĩu của sự thất vọng trong lòng. Khi thấy con trai buồn bã như vậy, nhà
vua cho thái tử đi thăm công viên ở bên ngoài cung điện ở hướng Bắc. Trong lúc
này, Tất Đạt Đa nhìn thấy một xác chết. Từ trước đến nay, Tất Đạt Đa không bao
giờ nhìn thấy người chết, thái tử hỏi Chan Na,” Có gì bất thường với người
này?”
Thưa ngài, ông ấy đã chết. Ông ấy không còn cảm nhận điều gì nữa.”
Tất Đạt Đa hỏi,” Ta cũng như vậy? Con trai của nhà vua, sẽ chết như người đàn
ông này?”
Chan Na trả lời “
Vâng, mọi sinh vật đều phải chết. Không một người nào có thể tránh cái chết.”
Tất Đạt Đa vô cùng sửng sốt, thở dài,” Tất cả mọi người biết rằng họ sẽ chết,
họ chưa bao giờ có cuộc sống bình yên.” Thái tử ra lệnh người đánh xe trở về
nhà. Đây không phải là lần đi chơi thoải mái. Cuộc sống có thể chấm dứt bất
kỳ lúc nào. Làm sao ta có thể vui sướng cho bản thân ta.
Tại cung điện, Tất Đạt Đa suy ngẫm về những điều đã thấy.” Thật khủng khiếp
để biết rằng mọi người sẽ chết vào ngày nào đó và không một người nào có thể
tránh khỏi.”
Vị đạo sĩ
Bấy giờ, Tất Đạt Đa đã biết con người
bên ngoài cung điện sống thế nào. Những người ăn xin nằm dọc đường, xin thức ăn.
Trẻ em mặc những cái áo rách bươm đang rên la trên đường phố. Người già,
người bị bệnh và người nghèo đang chờ cái chết hiu quạnh. Trong khi, người giàu
sống trong những ngôi nhà đẹp mà không chăm sóc cuộc sống người nghèo.
Tất Đạt Đa tự hỏi,“ Những người này có hy vọng gì khi sống? Thậm chí
người giàu cũng đau khổ vì tuổi già, bệnh tật và cái chết. Mọi người sinh ra
trong thế giới này đều phải đau khổ như vậy. Đau khổ của họ bắt đầu ngay từ lúc
mới sinh. Ta phải tìm ra con đường để giúp họ.”
Trong chuyến đi thăm bên ngoài cung điện cuối cùng, thái tử và Chan Na cưỡi ngựa
đi qua cổng phía Tây. Họ đi ngang qua vị đạo sĩ mặc áo choàng rách rưới.
Nhìn thấy sự tỉnh lặng và thanh bình của đạo sĩ, thái tử hỏi,” Người này là
ai?”.
Chan Na giải thích với thái tử,” Ông ta là một đạo sĩ đang hành đạo. Ông ta
bỏ nhà cửa và nông trại và sự giàu có, Ông ta theo cuộc sống đơn giản và thanh
bình cho bản thân ông ta. Ông ta hy vọng sẽ tìm ra chân lý và vượt qua những đau
khổ trong thế giới này.
Tất Đạt Đa, mỉm cười. “ Ta sẽ trở thành tu sĩ như ông ta”
Đột nhiên, họ nhận được tin từ cung điện "Công chúa vừa sinh hạ con trai cho
thái tử!” Tất Đạt Đa rất hạnh phúc khi nghe công chúa sinh hạ con trai,
nhưng giờ đây, thái tử sẽ khó khăn hơn để thực hiện ước mơ trở thành đạo sĩ. Tên
của người con trai la Ra Hu La.
4. The four sights
At the age of sixteen, Prince Siddhartha married a beautiful young princess
called Yasodhara. She loved and cared for him. He continued to live a princely
life for nearly thirteen years after his marriage. He was protected from all the
problems of life outside the palace gates. He had all the comforts that a prince
of his day could desire. They lived in a world where there was nothing but
happiness and laughter. One day, however, he wished to discover the world
outside his palace.
When the king knew about this, he gave an order to the people in the city, “Have
the houses along the road to the city cleaned and decorated. Make the roads
sweet with incense and have the people dressed in colourful clothing. Make
certain that all the beggars, the old and the sick stay indoors until the prince
has left.”
Old age
The prince’s faithful charioteer,
Channa, drove him out through the South Gate. When the faithful crowds saw their
beloved prince, they threw flowers on the road and bowed in admiration.
Siddhartha was delighted to see them so happy.
At that moment, an old man appeared at
the side of the road. The prince was surprised to see an old man. He asked his
charioteer, “What kind of person is this with white hair and bent back? His
eyes are dim, his body wobbles. He leans on a cane and walks feebly. Has his
body changed or has he always been like this? Tell me, Channa.”
Channa dared not answer truthfully, “This has nothing to do with you. Please
don’t trouble yourself about it.”
The prince kept questioning Channa. “Is he the only one to whom this has
happened? Or are we all to become like this?”
Then Channa spoke the truth, “It is so, my Lord. Once he was young and strong
with black hair and fine teeth. As time goes by, our bodies will age too. It
happens to everybody.”
Hearing these words, the prince shivered. His hair stood on end. He trembled
with fear, as does a shocked animal fleeing from a bolt of lightning. He shook
his head, “How can people find delight in the pleasures of the world when old
age brings it all to ruin?” The prince told the charioteer, “Quickly turn
the chariot around and go back. Knowing that old age will call for me, how can I
enjoy these gardens and groves?” Obeying his command, Channa drove as fast
as the wind and quickly returned to the palace.
Sickness
Siddhartha could not forget the sight of
the old man. He thought about him day and night and could find no peace in his
heart. He spoke his thoughts only to Yasodhara, “When I saw the old man, all
the wonderful things of the city seemed to fade away. The beauty and laughter in
the palace is no longer real to me. I want to visit the city again to see life
as it really is, to see how the common people go about their daily lives.”
The king could not bear to see his son unhappy so he gave his consent for
another visit. Siddhartha and Channa disguised themselves as noblemen and drove
out through the East Gate into the city. For the first time, the prince saw how
people lived in his kingdom. He walked happily among the blacksmiths and potters
at their work. He talked to the rich merchants in their splendid shops and to
the bakers selling bread. Suddenly, the prince saw a sick man who was lying on
the ground, moaning and grabbing his stomach. The prince ran to him and rested
the sick man’s head on his lap. “Channa, what’s wrong with this man?”
“Lord, do not touch this man! He is sick with the plague. Put him down or you
will catch it yourself.”
“Is this the only man that is sick? Are others sick like this, Channa? Will my
wife and father also fall ill?”
“Yes, my Lord. This is how things are in the world,” said Channa. “Everyone in
the world gets sick sometimes. It can happen anytime.”
Hearing this, the prince felt great pity in his heart, “The thief of sickness
can come at any time. Yet everyone seems so happy and delighted.” Then he
got into the chariot and had Channa turn around to go home.
Death
Siddhartha returned to the palace with a
heavy feeling of despair in his heart. When the king saw his son in such misery,
he sent him to visit a park outside the North Gate. This time Siddhartha
saw a dead body. Since Siddhartha had never seen a dead person, he asked Channa,
“What is wrong with that man?”
“O Lord, he is dead. He does not feel anything.”
Siddhartha asked, “Will I, the son of the king, die like this man?”
“Yes, every living thing must die. No one can avoid death.”
Siddhartha was shocked. He sighed, “People all know that they will die, yet
they go through life as if nothing will ever happen to them.” He ordered the
charioteer to turn back home. “This is no time for a pleasure ride. Life can end
at any time. How can I just think of enjoying myself ?”
At the palace, Siddhartha mulled over what he had seen. “It is frightening to
know that everyone will die one day and no one can avoid it.”
The holy man
Siddhartha now knew how the people
outside the palace lived. Beggars lined the streets, begging for food. Hungry
children dressed in rags roamed the streets. The old, sick and poor people
waited for a lonely death. At the same time, the rich lived in fine houses
without caring about how the poor lived.
Siddhartha asked himself, “What hope is there for these people? Even the rich
will suffer from old age, sickness and death. Everyone born into this world will
suffer. Their suffering begins right at birth. I must find a way to help them.”
On their last visit outside the palace, the prince and Channa rode their horses
out through the West Gate. They passed by a holy man in ragged robes. Seeing how
quiet and peaceful he was, the prince asked, “Who is that?”
Channa explained to him, “He is a wandering holy man. He has left his home
and left behind fame and riches. He leads a simple life and is at peace with
himself. He hopes to find the truth and overcome the suffering that troubles the
world.”
Siddhartha smiled. “I shall become like him.”
Suddenly, a messenger from the palace caught up with them and shouted, “ son
has been born to the prince!”A Siddhartha was happy about his son, but now
it would be harder for him to fulfill his wish to become a wandering holy man.
He named his son Rahula.
5. Xuất gia
Rời cung điện
Vua nói với Tất Đạt Đa,” Ta đã già và
không còn sức để cai trị triều đình nữa. Đây là lúc con phải thay ta.
Tất Đạt Đa nói, “ Thưa cha, con rất vui để làm việc đó, nếu vua cha có thể
hứa cho con ba điều. Đó là con sẽ không bao giờ già, không bao giờ bị ốm và
không bao giờ chết. nếu cha không làm được những điều này thì hãy cho con làm
theo ý con.”
Nhà vua biết rằng không thể thực hiện những điều hứa như vậy. Nhưng nhà vua
không thể cam lòng, nên đã ra lệnh cho lính “ Hãy canh cổng ngày đêm và không
để thái tử bỏ trốn.” Điều này vẫn không làm cho thái tử từ bỏ ý định tìm kiếm
chân lý cho mình.
Một ngày kia, Tất Đạt Đa lặng lẽ vào phòng công chúa và Ra Hu La đang ngủ. Thái
tử muốn nhìn thấy vợ và con mình lần cuối. Thái tử không đánh thức họ dạy,
vì sợ rằng Da Du Đa La sẽ cố thuyết phục thái tử ở lại. Thái tử rời phòng ngủ
với tâm trạng buồn bã. Thái tử quyết định rời cung điện. Điều đó, không có nghĩa
rằng thái tử không yêu thương vợ con mình, mà là tình yêu của thái tử ở trong
thế giới lớn hơn.
Mãi đến khuya, Tất Đạt Đa và Cha Na cưỡi trên con Kan Tha Ka lặng lẽ trốn khỏi
cung điện. Lúc này, lính canh cung điện đang say ngủ. Kan Tha Ka nhảy qua cổng
thành, mang theo thái tử và Chan Na trên lưng. Ra khỏi cung điện, Tất Đạt Đa
dừng lại nhìn lần cuối cùng điện, nơi thái tử trải qua những năm tháng hạnh
phúc. Lúc này ánh trăng tỏa sáng mọi nơi. Quyết định xuất gia của Thái tử đã
được thực hiện.
Người đạo sĩ hành đạo
Suốt đêm, họ đi về phía Nam. Lúc bình
minh, họ đã đến bên bờ sông. Sau khi Kan Tha Ka nhảy qua sông, Tất Đạt Đa nói,”
Chúng ta đã an tòan ở đây. Chúng ta hãy dừng và nghĩ ngơi. Tất Đạt Đa lấy
gươm và cắt lọn tóc của mình và cởi bỏ áo quần hòang tộc, cải trang thành
người đi săn thú. Thái tử cầm lọn tóc của mình và vật trang sức hoàng gia đưa
cho Chan Na và nói “ Hãy trở về cung điện với Kan Tha Ka và đưa những
thứ này cho nhà vua. Nói với nhà vua rằng, ta làm đang làm những điều đem lại
lợi ích cho mọi người.” Lúc bấy giờ, Tất Đạt Đa 29 tuổi. Kể từ đó Tất Đạt Đa
được biết với cái tên nhà hiền triết, Gau Ta Ma. (Cồ Ðàm)
Khi nhà vua nghe tin con trai của mình trở thành một hiền triết, nhà vua sai các
lính canh, “ Đi tìm và mang thái tử về cho ta”. Gau Ta Ma đã đi từ
nơi này đến nơi khác vì vậy lính canh phải tốn nhiều công sức đi tìm. Khi thấy
thái tử, họ cầu xin, “ Xin thái tử hãy trở về cung điện”
Gau Ta Ma từ chối và nói “ Sau khi ta tìm thấy chân lý và cách thức chấm dứt
khổ đau của con người ta, sẽ trở về nhà.” Không thể lay chuyển được ý
chí của thái tử, năm người lính tự nguyện đi theo làm bạn tu hành cùng thái tử.
5. Renunciation
Leaving the palace
The king said to Siddhartha, “I am
growing old and am no longer able to rule the kingdom alone. It is time
for you to rule.” Siddhartha said, “I shall gladly do so if you can
promise me three things — that I would never become old, that I would never get
sick, and that I would never die. If you cannot fulfill these wishes, then let
me go.” The king knew that he could not make such promises.
Still he could not bear to part with his son. “Guard the gates day and night
so the prince cannot escape,” he ordered the guards. But this did not make
the prince change his mind about seeking the truth.
One night, Siddhartha quietly entered the chamber where Yasodhara and Rahula
were sleeping. He wanted to have one last look at his wife and son. He did not
wake them up for fear that Yasodhara would try to persuade him to stay. With
great sadness, he left the room. His decision to leave the palace did not mean
that he did not love his wife and son; it meant that his love for the beings in
the world was greater. In the still of night, Siddhartha and Channa quietly
slipped away from the palace, riding Kanthaka. The palace guards had fallen
asleep. Kanthaka jumped over the city wall, carrying Siddhartha and Channa on
his back. Once out of the city, Siddhartha stopped for a last look at
Kapilavatthu, the place he had spent so many happy years, now bathed in
moonlight. His decision had been made.
A wandering holy man
All night, they travelled south. At
dawn, they came to the banks of a river. Kanthaka crossed it in one leap. Once
across, Siddhartha said, “We’re safe here. Let us stop and rest.”
Siddhartha took his sword and cut off his princely locks. Then he exchanged his
royal clothes for the garment of a hunter who was passing by. He handed his hair
and royal ornaments to Channa saying, “Return to the palace with Kanthaka and
give these to the king. Tell him that what I am doing is for the benefit of all
beings.” Siddhartha was twenty-nine years old. From then on he was known as
the sage, Gautama.
When the king heard the news of his son becoming a sage, he said to his guards,
“Go and bring the prince back.” Gautama had been wandering from one place
to another, so it took the guards a while to find him. When they saw him, they
begged, “Please return to the palace.”
Gautama refused. “Only after I have realized the truth and found the way to
help end suffering of the world shall I return.” Five of the men remained
with him.
6. Câu hỏi
Tìm thầy học đạo
Gau Ta Ma đi dọc theo bờ sông Hằng để tìm thầy học
đạo. Lúc bấy giờ Alara Kama và Uddaka được coi là người thầy thông thái nhất
trong thiền định, vì vậy Gau Ta Ma đi đến học đạo ở họ. Lần đầu tiên ngài theo
học thầy Uddaka rồi sau đó học với thầy Alara. Gau Ta Ma sớm học
được những điều thầy dạy, nhưng Gau Ta Ma không được học về cách chấm dứt khổ
đau. Gau Ta Ma tự nhũ , “ Tự ta phải tìm ra chân lý. ”
Sáu năm khổ hạnh
Cùng với năm người bạn, Gau Ta Ma
đi vào khu rừng gần ngôi làng U Ru Ve La. Nơi đây có một vài đạo sĩ tu
theo lối sống khổ hạnh và hành xác với những bài tập nặng nề. Họ tin rằng
nếu trải qua sự hành xác đối với cơ thể, họ sẽ hiểu được chân lý. Một vài người
ngủ trên giường có gai. Một vài người thực hành kiểu đứng lộn ngược. Tất cả đạo
sĩ đều ăn rất ít, vì vậy họ chỉ còn có da bọc xương. Gau Ta Ma tìm thấy một địa
điểm yên lặng gần bờ sông, ngài thực tập những phương pháp khổ hạnh nhất. Ngài
ngủ trên giường gai. Ngài ăn một ít gạo và ít hạt vừng mỗi ngày. Có lúc,
ngài không ăn uống gì. Thân thể ngài không được chăm sóc, chỉ còn lớp da bọc
xương trên thân thể. Những con chim làm tổ trên mái tóc rối, phủ đầy bụi của
ngài. Gau Ta Ma ngồi tĩnh lặng hoàn tòan thậm chí không bận tâm xua đưổi côn
trùng đang bay quanh ngài.
6. The quest
Searching for teachers
Gautama wandered along the Ganges River
looking for spiritual teachers. Alara Kalama and Uddaka were considered to be
the best teachers in meditation at that time so Gautama went to study with them.
First he studied under Uddaka, then under Alara Kalama. Very soon he had learnt
all they had to teach, but he had not learnt to end suffering. He said to
himself, “I must find the truth on my own.”
Six years of hardship
With his five companions, Gautama went
to a forest near the village of Uruvela. Here, several holy men were living in
extreme poverty and tormenting themselves with severe exercises. They believed
that if they put their bodies through torment they would understand the truth.
Some slept on beds of nails. Some stood on their heads. They all ate so little
they were just skin and bones. Gautama found a quiet spot on the banks of a
nearby river. There he practised the most severe hardship. He slept on a bed of
thorns. He ate only one grain of wheat and one sesame seed a day. At times, he
would eat nothing at all. His body wasted away until there was only a layer of
thin skin covering his bones. Birds made nests in his matted hair and
layers of dust covered his dried-up body. Gautama sat completely still, not even
brushing away insects.
7. Giác ngộ
Tiếng sáo
Một đêm khuya, một nhóm thiếu nữ trên
đường về nhà đi ngang nơi Gua Ta Ma đang ngồi thiền định. Họ vừa hát, vừa đánh
đàn luýt ( một dụng cụ âm nhạc ). Gua Ta Ma nghĩ, “ Khi sợi dây đàn chùng
xuống, âm thanh không vang xa được. Khi sợi dây đàn kéo căng quá nó sẽ bị đứt.
Khi dây đàn không quá căng hoặc không quá chùng, âm thanh nó sẽ rất hay. Cuộc
sống quá sung sướng, nó giống như sợi dây đàn quá chùng. Ta phải làm cho dây đàn
của ta căng lên. Dây đàn quá căng đồng nghĩa, ta đã tự khổ hạnh cuộc sống của
ta. Ta đang lên dây đàn quá căng. Ta không thể tìm ra chân lý trong cuộc sống
nhung lụa hoặc bản thân ta quá gầy yếu. Vì vậy, ngài quyết định từ bỏ cuộc
sống khổ hạnh quá mức.
Su Ja Ta
Ngay sau đó, khi đang tắm ở dòng sông, Gau Ta Ma đã
quá yếu đến nổi bị ngất xỉu và té ngã. Một cô gái trẻ tên là Su Ja Ta, sống gần
bờ sông, nhìn thấy ngài và mang cho ngài một hũ gạo và sữa,“ Ngài hãy ăn cái
này” Cô ấy nói,“ Nó sẽ làm cho ngài khỏe mạnh,”
Gau Ta Ma cười,“ Nếu cô không dâng thữc ăn cho ta, ta có thể đã chết mà không
tìm ra con đường chân lý của hạnh phúc. Sau bữa ăn, ngài lập tức cảm thấy
khỏe mạnh hơn và tiếp tục thiền định
Khi năm người bạn của ngài thấy ngài ăn, họ không bằng lòng, lánh xa ngài và
nói. “ Gau Ta Ma đã trở về lại cuộc sống tầm thường.”
Gau Ta Ma nhớ lại lúc thiền định dưới cây táo đỏ khi ngài còn nhỏ. “ Ta sẽ
thiền định như ta đã làm trước đây. Dĩ nhiên, điều đó là cách để ta giác ngộ .”
Từ đó ngài bắt đầu ăn hàng ngày, thân thế ngài khỏe mạnh trở lại.
Cuộc chiến đầu gian khổ
Để hiểu chân lý của cuộc sống, Gau Ta Ma
tìm kiếm nơi tu hành. Ngài tìm một cây cao to, gần một khu rừng. Một người cắt
cỏ đi ngang qua và cho ngài một búi cỏ lớn. Ngài làm một đệm để ngồi dưới chân
cây Bồ Đề. Ngài đi quanh cây Bồ Đề ba lần và ngồi quay mặt về hướng Đông.
Gau Ta Ma khấn nguyện,“ Nếu ta không tìm ra con đường chấm dứt khổ đau, thì
dù xương thịt ta có tan nát, thân thể ta chỉ còn da bọc xương, ta vẫn không rời
khỏi chỗ này. Ngài ngồi dưới cây Bồ Đề trong 49 ngày. Ngài thiền định
để khám phá nguồn gốc sự khổ đau của con người.
Lúc này, có ác ma với tên gọi là Ma Ra, cố làm ngài hoảng sợ để từ bỏ ý định tìm
chân lý của ngài. Đầu tiên, Ma Ra làm mưa, gió và sấm chớp từ ngày này qua ngày
khác, nhưng Gau Ta Ma không lay chuyển.
Tiếp đó, Ma Ra cố gắng lung lay Gau Ta
Ma bằng những dục vọng ích kỷ. Ma Ra sai những người con gái xinh đẹp ra
nhảy múa trước Tất Đạt Đa. Chúng hy vọng, Tất Đạt Đa sẽ gợi nhớ lại những tiện
nghi trong cung điện và lôi kéo ngài trở về cuộc sống xa hoa trước đây. Gau Ta
Ma vẫn không lay chuyển ý chí.
Khi không thực hiện được ý đồ của mình, Ma Ra đã sai đội quân ma quỷ dữ tợn đến
phá phách ngài. Những hình ảnh ghê sợ của quỷ dữ làm Tất Đạt Đa kinh sợ, nhưng
ngài vẫn không nao núng tinh thần. Lúc vũ khí của những con quỹ dữ tợn chạm vào
người Tất Đạt Đa, chúng trở nên mềm mại và cong xuống đất. Quỷ ném những vòng
lửa và những cục than vào thân thể ngài đang ngồi bất động, nhưng tất cả bị lệch
hướng bởi hào quang tỏa ra từ ngài. Ma Ra thúc giục ma quỷ tấn công nhưng lòng
từ bi của Đức Phật đã che chở ngài trước mọi sự tấn công của ma quỷ.
Chiến thắng cuối cùng.
Trong quá trình thiền định, ngài thấy rõ bản chất của
chúng sinh. Nguyên nhân của mọi khổ đau là do sự tham lam, ích kỷ và ngu dốt.
Nếu mọi người từ bỏ điều này, họ sẽ trở nên hạnh phúc.
Khi Ma Ra đến thăm Gau Ta Ma lần cuối,
với ý định làm nao núng ngài. Ma Ra hỏi Gau Ta Ma,“ Ngài có thể chứng minh
rằng ngài sẽ tìm được giác ngộ. Ai sẽ chứng kiến chân lý cho ngài.
Bình thản, Gau Ta Ma ngồi xuống, tay phải chạm tay vào đất và nói “ Ta
có đất trời làm chứng!” Mặt đất rung chuyển khi Gau Ta Ma nói. Ma Ra sợ hãi
bỏ đi.
Trăng tháng Năm sáng vằng vặc, Gau Ta Ma tập trung vào thìền định. Vào lúc sao
Mai bắt đầu xuất hiện ở phía Đông, ngài đã thực sự giác ngộ, trở thành Đức Phật,
Ngài không còn là thái tử Tất Đạt Đa hay một nhà hiền triểt Gau Ta Ma nữa. Ngài
nhìn thấy tất cả chúng sinh đều đau khổ vì tham, sân, si. Thân thể ngài tỏa sáng
hào quang chói chọi. Lúc này, trên thiên giới trút xuống những cơn mưa hoa thơm
lừng và trái đất rung chuyển.
Bây giờ Ngài 35 tuổi. Từ đó, ngài trở thành Đức Phật, một vị giác ngộ hoàn toàn.
Ngài nhận thức chúng sinh đều có thể giác ngộ như vậy. Ngài tuyên bố “ Thật
là tuyệt vời, tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật.”
Dưới cây Bồ đề
Đức Phật vẫn thiền định dưới gốc cây cho
đến khi ngài đã giải thoát hết mọi điều. Rồi ngài đứng dậy, cúi chào cây Bồ Đề,
đã che chở cho ngài. Từ đó, cây Bồ Đề còn được gọi là cây giác ngộ.
7. Enlightenment
The song of the lute
One evening, a group of young girls on
their way home passed by Gautama who was sitting in meditation. They were
playing the lute, a musical instrument, and singing. He thought, “When the
string of the lute is loose, its sound won’t carry. When the string is too
tight, it breaks. When the strings are neither too loose nor too tight, the
music is beautiful. A loose string means a life of pleasure. A tight string
means a life of self torture. I’m pulling my strings too tightly. I cannot find
the Way of Truth living a life of luxury or with my body so weak.” Thus, he
decide to give up self-torture.
Sujata
Soon after, while bathing in the river,
Gautama was so weak that he fainted and fell. Sujata, a young village girl who
lived by the river, saw him and brought him a bowl of rice and milk. “Eat
this,” she said. “It will give you strength.”
Gautama smiled, “If you had not given me food, I would have died without
finding the true way to happiness.” After the meal, he immediately felt
stronger and continued his meditation.
When his five companions saw him eat, they were disgusted and said, “Gautama
has gone back to an easy life.” With that, they left him.
Gautama remembered meditating under the rose-apple tree when he was a child. “I
shall meditate as I did before. Perhaps that is the way to become enlightened.”
From then on he began to eat daily. Once again, his golden skin glowed with
health.
The long struggle
Still seeking a way to understand the
truth of life, Gautama set out for Buddhagaya (near Gaya in modern Bihar). Near
a grove, he found a huge tree. A young grass cutter walked by and offered him a
bundle of grass. He made a seat of the grass at the foot of the Bodhi tree. Then
he walked around the tree three times and sat down facing east.
Silently Gautama vowed, “Even if my flesh and blood were to dry up, leaving
only skin and bones, I will not leave this place until I find a way to end all
sorrow.” He sat under the Bodhi tree for forty-nine days. He was determined
to discover the source of all pain and suffering in the world. Mara, the
evil one, tried to scare him into giving up his quest. First Mara sent rain,
hail and wind that lasted for days. Gautama was not moved.
Next, Mara tried to lure Gautama into having selfish thoughts. He sent visions
of his very beautiful daughters who danced and sang before Siddhartha. They were
hop-ing to remind him of the pleasures of palace life and entice him to return.
Gautama was not moved.
When this did not work, Mara sent his fierce demon armies. The sight of them
turned Siddhartha’s blood and cracked his bones. Still he did not move. As the
demons’ weapons got close to Siddhartha, they turned into soft pet-als that
floated to the ground. The demons threw bolts of lightning and flaming rocks at
his silent figure, but they were deflected by a shield of light. Mara urged his
armies on, but the Buddha’s goodness protected him from all their attacks.
Victory at last
During this struggle that happened in
his mind, Gautama was able to see things as they truly were. Now he had finally
found the answer to suffering: “The cause of suffering is greed, selfishness
and stupidity. If people get rid of these, they will be happy.”
Mara visited Gautama one last time, still trying to confuse him. He asked
Gautama, “How can you prove that you are worthy to become an enlightened one?
What art your virtuous deeds? Who is your witness?”
Calmly the seated Gautama touched the earth with his right hand. The Earth
thundered, “I am his witness!” Defeated, Mara fled.
During a full-moon night in May, Gautama went into deep meditation. As the
morning star appeared in the eastern sky, he became an enlightened one, a
Buddha. He was no longer Siddhartha Gautama the prince. He looked the
same, yet one could see about him the signs of a Perfect One. His body glowed
with golden light and emitted the colours of the rainbow. The heavens rained
down perfumed blossoms and the earth trembled.
He was thirty-five years old. From now on he would be known as the Buddha, the
Enlightened One. He realized that all beings could do what he had done. He
exclaimed, “How wonderful! All beings can become Buddhas.”
Under the Bodhi Tree
The Buddha remained in deep meditation
below the tree because he was free at last. Then he stood up and gazed at the
tree in gratitude, to thank it for having given him shelter. From then on the
tree was known as the Bodhi tree, the tree of Enlightenment.
8. Lãnh đạo tinh thần
Năm người bạn đồng tu đầu tiên
Đức Phật đi tìm năm người bạn đồng tu đã
xa lánh ngài trước đây. Ngài tìm thấy họ ở vườn Lộc Uyển gần Be Na Res. Lúc này,
họ nghĩ Đức Phật đã từ bỏ ý định tìm kiếm giác ngộ khi ngài nhận thực phẩm do Su
Ja Ta cúng dường. Bởi vậy, khi thấy ngài đến gần họ. Họ nói, “ Đấy, Gua Ta Ma
đến đấy. Chúng ta không nên nói chuyện với ông ta.”
Tuy nhiên, khi Đức Phật đến gần, một luồng hào quang chiếu sáng quanh ngài. Vẻ
uy nghi của Ngài gây ấn tượng đến nỗi năm vị đạo sĩ quên rằng họ đã thống nhất
với nhau không chào đón ngài. Các đạo sĩ hồ hởi khi gặp ngài. Người đem chậu,
người khác xối nước để rửa chân cho ngài. Rồi Đức Phật nói với họ,“ Ta đã đạt
được sự giác ngộ và ta đến để nói với các ngài chân lý ta đã nhận ra. Đừng gọi
ta là Gua Ta Ma nữa. Ta bây giờ đã là Phật. Họ cảm thấy xấu hổ khi đã xa
lánh ngài trước đây và cầu xin ngài tha thứ. Rồi họ lắng nghe Đức Phật giảng bài
giảng đầu tiên. Ngài dạy, “ Tất cả nỗi khổ đau, sợ hãi và căm thù đều xuất
phát từ lòng tham lam. Người không tham lam sẽ không lo sợ. Tham lam làm họ sợ
hãi!”
Họ bắt đầu hiểu lời dạy của ngài .
Sau khi hiểu rõ những lời dạy của Đức Phật, họ xin Đức Phật truyền giới. Đức
Phật đồng ý truyền giới và nói rằng,” Hãy là tỳ kheo, đi theo lối sống tu
hành để chấm dứt khổ đau.” Họ cạo đầu và mặc áo choàng màu vàng sẫm. Như
vậy, Tăng đoàn được thành lập.
Sáu mươi vị tỳ kheo đầu tiên
Sự mở mang tăng đoàn bắt đầu với lễ
truyền giới cho Da Xá ( yasa), con trai của một người buôn gạo sống ở Va Ra Na
Si. Ông ấy có cuộc sống vương giả, nhưng cảm thấy chán nản và tẻ nhạt trong cuộc
sống. Sau khi nghe Đức Phật giảng Tứ diệu đế ( Bốn chân lý cao quý ), Da Xá
đã giác ngộ như được đánh thức sau một giấc ngủ mê. Ông nhận ra rằng cuộc sống
toàn khổ đau; sắc đẹp và sự sung sướng không tồn tại mãi mãi. Da Xá quyết định ở
lại bên Đức Phật và trở thành đệ tử của ngài. Ông ấy xin Đức Phật, “ Thưa Đức
Phật, con có thể được truyền giới.
Đức Phật trả lời, “ Hãy là tỳ kheo, đi theo lối sống tu hành. ”
Năm mươi tư người bạn của Da Xá theo gương ngài và tìm đến diện kiến Đức Phật.
Họ quá ấn tượng về lời dạy của Ngài và xin Ngài cho họ được làm tỳ kheo. Bây giờ
tăng đoàn đã lên 60 người.
Khi 60 đệ tử đầu tiên trở thành các vị a la hán, vượt qua tham, sân, si và ngu
dốt. Đức Phật quyết định đến lúc các đệ tử đi ra ngoài và truyền giảng lời dạy
của Ngài cho chúng sinh. Ngài nói với các đệ tử,“ Hãy tiếp tục gieo rắc lòng
từ bi cho chúng sinh, vì sự an lạc, thịnh vượng và hạnh phúc của chúng sinh. Các
đệ tử hay chia nhau đi khắp mọi nơi. Hãy truyền bá chân lý cho chúng sinh.”
Sáu mươi đệ tử đã được hướng dẫn đi 60 địa điểm khác nhau để truyền bá lời dạy
của Đức Phật. Họ mang hình ảnh và lời dạy của Đức Phật, đến những người có
nguyện vọng gia nhập Tăng đoàn. Trong giai đoạn này, các đệ tử được truyền giới
bởi chính Đức Phật. Nhận thấy việc truyển giới như vậy gây ra bất tiện cho các
đệ tử, ngài quyết định đưa ra một giới luật, cho phép các tỳ kheo được truyền
giới cho những người mới đến hoặc những tập sự. Giới luật này được các tu sĩ Đạo
Phật gìn giữ cho đến ngày hôm nay.
Ca Diếp ( Kassapa )
Khi điều kiện đường xá thuận tiện cho
việc đi lại, Đức Phật đã đến Thành Vương Xá ( Rajagaha ). Trên đường
đi, ngài ngồi cùng xe với ba vị đạo sĩ, là anh em ruột. Họ sống trong một cái
chòi ngày ven rừng và thực tập nghi lễ tôn giáo thờ thần lửa cổ xưa. Người thủ
lĩnh của họ là Ca Diếp, người có hàng ngàn đệ tử. Những người này để tóc dài và
búi tóc lại.
Lúc họ cầu nguyện thần lửa, Đức Phật nói với họ, “ Ngọn lửa thực sự trong
cuộc sống là sự tham lam, thù hận và ngu dốt. Nếu như ngài muốn thanh thản, ngài
phải tiêu diệt ngọn lửa này. Nghe lời dạy của Đức Phật, ba anh em Ca Diếp và
hàng ngàn đệ tử của họ giác ngộ. Họ đã cắt tóc và trở thành tỳ kheo.
Sariputta và Moggallana ( Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên)
Mục Kiền Liên là một đứa trẻ đằm tính và
thích chơi một mình, mãi đến khi Mục Kiền Liên gặp Xá Lợi Phất, người rất hiếu
động. Xá Lợi Phất không bao giờ e ngại khi nói chuyện với mọi người. Mặt dù tính
cách khác nhau, nhưng họ là hai người bạn tốt, luôn tìm những sở thích chung để
chơi cùng nhau. Họ chơi đùa, chạy trong bãi cỏ và đi bộ trong rừng.
Mục Kiền Liên thường cùng với Xá Lợi Phất đến quảng trường trong thị trấn nghe
những vị truyền giáo nói chuyện về ý thức. Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất nguyện
rằng khi lớn lên họ sẽ tìm chân lý. Người nào tìm ra chân lý đầu tiên sẽ chia
sẻ với người còn lại
Một ngày kia, khi Xá Lợi Phất đã thực sự trưởng thành, ông ấy bắt gặp A Xà Chí (
Assaji ) một trong năm đệ tử đầu tiên của Đức Phật đang đi vào thị trấn. A Xà
Chí uy nghi, tôn quý và khuôn mặt tỏa sáng sự hạnh phúc. Xá Lợi Phất cầu xin A
Xà Chí,“ Ai là thầy của ngài? Xin ngài dẫn tôi và bạn tôi đến gặp ông ấy.
Sau khi biết Đức Phật là vị thầy của A Xà Chí, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cùng
nhau tìm gặp. Sau khi nghe lời dạy của Đức Phật, họ quyết định trở thành tỳ
kheo.
Từ lúc đó, hàng ngàn người đã gia nhập vào Tăng đoàn và theo cuộc sống tu hành.
Họ trở lại giảng dạy cho hàng triệu người khác về cách sống trí tuệ và hạnh
phúc.
8. Chief monks
The first five monks
The Buddha then went searching for the
five companions who had abandoned him. He found them in the Deer Park near
Benares. They thought the Buddha had given up the quest for Enlightenment when
he accepted Sujata’s offering of food. Therefore, when they saw him coming
towards them now, they said, “Here comes Gautama. Let’s not talk to him.”
However, as the Buddha came near, a radi-ant light shone around him. His
presence was so impressive that the five holy men forgot what they had agreed
upon. All of them got up to meet him. One took his bowl while another
prepared a seat for him. A basin of water was fetched for him to wash his feet.
Then the Buddha told them, “I have attained enlightenment and have come to
tell you what I have found. Don’t call me Gautama anymore. I am now the Buddha.”
They felt sorry that they left him and begged his forgiveness. Then they
listened to the Buddha speak his first teachings. He said, “ All suffering
and pain, fear All and hatred come from greed. One who has no greed has no
worries. What has he to fear?” As he spoke, they began to understand.
After they had fully understood the teachings, they asked the Buddha to ordain
them. The Buddha agreed and ordained them by saying, “Come monks! Lead a
religious life to make a complete end to suffering.” They shaved their heads
and put on dark yellow robes. Thus, the Sangha was formed.
The first sixty monks
The expansion of the Sangha began with
the ordination of Yasa, the son of a rice merchant who lived in Varanasi. He led
a life of luxury, but found it boring and meaningless. After hearing the
Four Noble Truths from the Buddha, it was like being awakened from a dream. He
realized that life is about suffering and that beauty and enjoyment do not last.
Yasa decided to stay with the Buddha and become his disciple. He asked, “O Lord,
may I be ordained?”
In reply the Buddha said, “Come monk. Lead the holy life.”
Fifty-four of Yasa’s friends followed his example and they sought out the
Buddha. They too were impressed by his teachings and asked to be accepted as
monks. The Sangha then numbered sixty members in all.
When the first sixty disciples had become Arhats, that is, people who have
overcome desire, ill will and ignorance, the Buddha decided that it was time for
them to go out and spread his teachings to the world. He said to them, “Go
forth to teach out of compassion for the world, for the benefit, welfare and
happiness of people. Let not two of you go the same way. Spread the truth to all
people.”
The sixty disciples were instructed to go to sixty dif-ferent places to spread
his teachings. They brought to the Buddha many people who wished to be admitted
into the Sangha. During that period, everyone had to be ordained by the Buddha
himself. Thinking that such an arrangement would be inconvenient for his
disciples, he made a rule that allowed all monks to ordain new comers or
novices. This rule is still followed by Buddhist monks today.
Kassapa
When road conditions were suitable for
travel, the Buddha went to Rajagaha. On the way, he stayed with three holy men
who were brothers. They lived in huts at the edge of a grove and practised the
ancient religion of fire worship-ping. Their leader, Kassapa, had one thousand
followers. They wore their hair in matted locks.
Since they worshipped fire, the Buddha spoke to them about fire. “The real
fires in life are greed, hatred and stupidity. If you want peace, you must put
out these fires.” The three Kassapa brothers and their one thousand
disciples cut off their tousled locks and became monks.
Sariputta and Moggallana
Moggallana was a quiet child and liked
to play alone until he met Sariputta, who was quite the opposite. Sariputta was
never shy and talked to everyone. In spite of their dif-ferences, they were good
friends and always found things they liked to do together. They played games,
ran in the meadows, and took long walks in the woods.
Moggallana often joined Sariputta in the town square where they listened to many
religious teachers talk about their ideas. They vowed, “When we grow up, we
will search for the truth. Whoever finds it first will share it with the
other.”
One day when Sariputta was already a grown man, he happened to see Assaji, one
of the first five monks, walk-ing in the city. Assaji was calm and dignified,
and his face glowed with happiness. Sariputta asked him, “Who is your
teacher? Will you take me and my friend to him?” He ran to get his friend,
Moggallana, and together they went to hear the Buddha teach. They also decided
to become monks.
Since then, thousands of people have joined the Sangha and led a holy life. They
in turn have taught mil-lions of people how to live wisely and happily.
9. Lãnh đạo tỳ kheo ni
Ba Xà Đề ( Ba Xà Đề ) trở thành tỳ kheo ni
Mười lăm năm sau khi Đức Phật giác ngộ,
Đức Phật cùng các đệ tử của Ngài trở về Ca Tỳ La Vệ khi nghe tin rằng cha của
ngài bị ốm nặng. Sau khi cha ngài qua đời, Hoàng hậu Ba Xà Bà Đề nói với Đức
Phật, “ Công chúa Da Du Đà La, các người hầu và ta đã mong ước trở thành
người tu hành.”
Đây là lần đầu tiên Đức Phật từ chối thu nhận đệ tử và ngài giải thích, “
Cuộc sống tu hành rất khắc nghiệt với phụ nữ. Vì vậy, không nhất thiết phải từ
bỏ nhà cửa và gia đình. Lời dạy của Đức Phật có thể học ở mọi nơi. Sau đó,
Đức Phật đi Vệ Xá ( Vesali ).
Tuy nhiên, Ba Xà Bà Đề đã không nản chí vì lời từ chối của Đức Phật. Bà ta cắt
tóc, mặc áo choàng vàng, cùng với công chúa Da Du Đà La và những người phụ nữ
dòng họ Thích Ca đi bộ đến Vệ Xá. Hành trình dài làm chân họ bị sưng lên đau
đớn. Khi đến được nơi Đức Phật đang thuyết pháp, mọi người ai cũng mệt mỏi và áo
quần đầy bụi bẩn. Trong nước mắt, Ba Xà Bà Đề nói với A Nan Đà, người đi
theo hầu hạ Đức Phật,“ Xin ngài thưa với Đức Phật, cho chúng ta trở
thành tỳ kheo ni.”
A Nan Đà người thấy rõ quyểt tâm của họ xin quy y. A Nan Đà thưa Đức Phật,“
Thưa ngài, những người phụ nữ có thể theo cuộc sống tu hành và có thể đắc quả Bồ
Tát khi họ là tỳ kheo ni.”
Đức Phật trả lời,“ A Nan Đà, phụ nữ có thể theo cuộc sống tu hành. Hãy báo
với Ba Xà Đề và những người phụ nữ trong đoàn ta chấp nhận truyền giới cho họ.”
Như vậy, Ba Xà Đề , Da Du Đà La và những người đi theo đoàn trở thành tỳ kheo
ni. Từ đó, tăng đoàn tỳ kheo ni đã được thành lập.
Vi Đề Hy trở thành Ka Se Ma
Vi Đề Hy hoàng hậu của vua Tần Bà Sa La
ở Ma Ga Đà Ha, một người xinh đẹp và cũng ưa thích cái đẹp. Vua Tần Bà Sa
La thường giục hoàng hậu, “ Hãy di với ta đến gặp Đức Phật.” Hoàng
hậu nói,” Thiếp thích những âm thanh trong cung điện hơn.” Nhà vua đáp,“
Nếu vậy, ta sẽ mang vẻ đẹp của núi rừng về cho hoàng hậu.” Và vua đã làm
đúng như vậy. Vua làm thơ về vẻ đẹp và sự tỉnh lặng của núi rừng, nơi Đức Phật
đang ở. Thơ của nhà vua được đọc cho hoàng hậu giải trí.
Những bài thơ đánh thức trái tim của hoàng hậu và hoàng hậu trở nên vui thích.
Một ngày kia hoàng hậu xin vua Tần Bà Sa La đưa hoàng hậu vào rừng để chiêm
ngưỡng vẻ đẹp núi rừng. Lúc đó, Đức Phật ngồi dưới cây hoa. Người hầu Đức
Phật đẹp hơn cả hoàng hậu đang quạt cho ngài“ Ta chưa bao giờ thấy một người
nào đẹp như vậy!” Hoàng hậu thốt lên khi đến gần để quan sát.
Lúc Vi Đề Hy đang ngắm nhìn, người hầu xinh đẹp bắt đầu trở thành người
phụ nữ già nua, da nhăn nheo và tóc bạc. Bà ta già đi và càng lúc càng yếu đi
mãi đến khi bà ta lăn xuống đất và chết. Mặc dù chỉ nhìn thấy, Vi Đề Hy
không giấu nỗi sợ hãi của mình. Đức Phật, thuơng xót cho Vi Đề Hy và nói,”
Sắc đẹp không kéo dài mãi. Ưa chuộng sắc đẹp như con nhện giăng tơ quanh người
nó. Con nhện sẽ không có lối thoát. Không có sự ràng buộc nào là tự do thật sự.
Vi Đề Hy hiểu lời dạy của Đức Phật và từ bỏ đam mê sắc đẹp của mình. Bà ta đi
theo Đức Phật và trở thành nữ tu sĩ với tên gọi là Ka Se Ma.
9. Chief nuns
Pajapati became a nun
In the fifth year after his
Enlightenment, the Buddha returned to Kapilavattu with his disciples when he
heard that his father was seriously ill. After his father passed away, Queen
Pajapati told the Buddha, “Yasodhara, my ladies-in-waiting and I wish to
become nuns.”
At first the Buddha refused and explained, “The life we lead is far too harsh
for women. The Buddha’s teachings can be followed anywhere. It is not necessary
to leave the comfort of your home and family.” After that, the Buddha went
to Vesali.
However, Pajapati was not discouraged by the Buddha’s comment. She cut her hair,
put on a yellow robe and accompanied by Yasodhara and other Sakyan women, walked
to Vesali. The long journey caused their feet to swell. Looking weary and
with their clothes covered in dust, they finally arrived at the monastery where
the Buddha was preaching. In tears, Pajapati spoke to Ananda, a personal
attendant of the Buddha, “Please ask the Buddha to let us become nuns.”
It was Ananda who saw their determination to join the Order. He asked the
Buddha, “Can women lead a holy life and become Arhats if they become nuns?”
The Buddha answered, “Yes Ananda, they can even in this very life. Tell
Pajapati and the others that I will accept them into the Order.” This was
how Pajapati, Yasodhara, and their companions became the first nuns. Thus, the
Order of Nuns was formed.
Vaidehi became Ksema
Vaidehi, the queen of King Bimbisara of
Magadha, was a beauty, and she admired beautiful things. The king often urged
her, “Come with me to meet the Buddha.” The queen would say, “I prefer
the beautiful surroundings of the palace.”
“In that case, I will bring the beauty of the forest to you,” replied the
king. And he did just that. He had poets compose poems about the loveliness and
peacefulness of the forest where the Buddha was staying. The poems were sung at
the palace to entertain the queen. The poems touched her heart and she became
enchanted by them. One day she asked King Bimbisara to take her to the forest to
see its beauty. There, sitting under a flowering tree, was the Buddha. A maiden
even more beautiful than the queen was fanning him. “I have never seen anyone
so beautiful!” exclaimed the queen as she moved nearer to get a closer
look.
As Vaidehi was gazing at her, the beautiful maiden began to turn into an ugly
old woman with wrinkled skin and grey hair. She grew older and older, weaker and
weaker until she sank to the ground and died. Although this was only a vision,
Vaidehi hid her face in horror. The Buddha pitied her and said, “Beauty does
not last. Those attached to beauty are like a spider entangled in its own web —
the spider has no way out. Not being attached is true freedom.”
Vaidehi understood, and gave up her desire for beauty. She followed the
Buddha and became a nun by the name of Ksema.
10. Những cư sĩ kiệt xuất.
Cha của Da Xá đang đi tìm Da Xá sau khi ông ấy bỏ nhà đi và gia nhập Tăng đoàn.
Cuối cùng, ông ấy tìm đến Da Xá đang tu hành và được nghe Đức Phật giảng
dạy về Pháp. Ông ấy lắng nghe với sự yêu thích và trở thành người cư sĩ đầu tiên
quy y về Tam Bảo noi theo Phật, Pháp, Tăng.
Theo lời mời của cha Da Xá, Đức Phật và Da Xá đi đến dùng cơm tại nhà của cha
mình. Sau bữa ăn, Đức Phật giảng Pháp cho mẹ của Da Xá nghe. Bà ta quá ấn tượng,
đã nguyện đi theo Tam Bảo và trở thành cư sĩ nữ đầu tiên.
Cấp cô độc
Ở Sa Va Thi, có một người thương nhân
giàu có tên là Su Dat Ta sinh sống. Nổi tiểng khắp nơi, ông ta thường phân phát
thức ăn, áo quần cho người cô đơn, người già, người nghèo. Vì vậy, ông ta nổi
tiếng như là một Cấp Cô Độc, có nghĩa là “ bố thí đến những người không được
che chở.”
Khi Cấp Cô Độc đang buôn bán ở Ra Ja, ông ấy nghe câu chuyện về Đức Phật. Vì
muốn được diện kiến Đức Phật, Cấp Cô Độc dậy sớm và ra đi từ lúc nữa đêm. Trên
đường đi, ông ấy đã đi ngang qua một nghĩa trang nhưng ông ta vẫn tiếp tục hành
trình dù rất sợ hãi.
Lúc trời rạng sáng, ông ấu đến khu vườn nơi Đức Phật đang ở. Ông ta quá đỗi vui
mừng lễ sát đất trước Đức Phật và nói,” Con mong muốn Đức Phật có cuộc sống
thanh thản.”
Đức Phật trả lời, “ Đúng rồi, ta luôn luôn thanh thản trong cuộc sống. Không
mưu cầu danh lợi, ta đã đạt đến trạng thái niết bàn. Khi vất bỏ những ràng buộc,
ta vất bỏ hết khổ đau. Trong ý thức, ta rất bình thản.
Sau khi nghe lời dạy của Đức Phật. Cấp Cô Độc tiếp nhận Tam Bảo và trở thành cư
sĩ. Ông ta đã mời Đức Phật đến thăm nhà và dùng cơm tại nhà ông ta ở Sa Va Thi.
Đức Phật nhận lời mời.
Sau khi trở về Sa Va Thi, Cấp Cô Độc đã đi tìm kiếm nơi thích hợp để Đức Phật tu
hành. Ông ta chọn một khu rừng của Thái tử Kỳ Đà ( Jeta) cai quản, nơi rất lý
tưởng để xây dựng tu viện. Tuy nhiên, Thái tử Kỳ Đà không muốn bán khu rừng cho
dù với giá rất cao hàng trăm ngàn lượng vàng. Khi Cấp Cô Độc, vẫn khăng khăng
muốn mua khu rừng của thái tử, thái tử đã quyết định ngăn cản Cấp Cô Độc. Thái
tử đưa ra điều kiện mua bán mà thái tử nghĩ Cấp Cô Độc sẽ không có khả năng để
đáp ứng. Thái tử Kỳ Đà tuyên bố rằng thái tử sẽ bán khu rừng với số vàng cần để
trải kín hết diện tích của khu rừng.
Ngay sau khi Thái tử ra điều kiện, Cấp Cô Độc lập tức sai ngươi hầu mang vàng ra
trải xuống khu rừng. Ngoại trừ diện tích bị chiếm bởi cây cối, toàn bộ khu rừng
đã được phủ vàng ngay sau đó. Thái tử Kỳ Đà sửng sốt bởi Cấp Cô Độc đã quyết tâm
đáp ứng điều kiện của mình. Khi thái tử biết rằng khu rừng đã được mua cho Đức
Phật, ông ấy nói với Cấp Cô Độc, "Đất là của ông nhưng cây cối là của ta. Ta
sẽ biếu tặng những cây trong rừng như là phần cúng dường của ta cho Đức
Phật.”
Để nhớ ơn của thái tử, khu rừng đã được biết như là rừng Kì Thọ, ở đó Cấp Cô Độc
xây một tu viện cho Đức Phật và các đệ tử của ngài tu hành. Sau này được biết
như là tu viện Cấp Cô Độc.
Vi Sa Kha
Vi Sa Kha được Đức Phật đánh giá là
người cống hiến lớn cho Tăng đoàn. Khi Vi Sa Kha lên bảy tuổi, Đức Phật tình cờ
viếng thăm nơi bà ta sinh ra, Từ đó, Vi Sa Kha luôn hoan hỉ nghe theo lời dạy
của Đức Phật.
Khi lớn lên, bâ ấy kết hôn với một người đàn ông giàu có ở Sa Vat Thi. Bà ấy
cúng dường hàng ngày cho các tỳ kheo và tỳ kheo ni khi họ đi ngang qua nhà. Vào
buổi sáng và buổi chiều, bà đến thăm tu viện để chăm lo những nhu cầu thiêt yếu
của tỳ kheo và tỳ kheo ni, cũng như lắng nghe những bài thuyết pháp của Đức
Phật.
Một ngày kia, bà ấy tình cờ mang theo một cái mũ đắt tiền khi đến thăm tu viện.
Để tỏ lòng ngưỡng mộ Đức Phật, bà ta đã tháo nó ra trước khi đến diện kiến Đức
Phật và trao nó cho người hầu giữ. Người hầu lơ đễnh đánh rơi cái mũ. An Na Đà
tìm thấy và Đức Phật yêu cầu An Na Đà giữ nó giúp cho bà ấy. Khi Vi Sa Kha
biết điều đó, bà ta quyết định không nhận lại chiếc mũ nữa mà bán nó để làm quỹ
cho Tăng đoàn. Đức Phật yêu cầu bà ta xây dựng một tu viện phía đông từ số
tiền có được do bán chiếc mũ của Sa Vat Thi. Tu viện bà xây dựng trở nên nổi
tiếng.
Vi Sa Kha nổi tiếng trong số các cư sĩ nữ và là cư sĩ được mọi người kinh
trọng.
10. Outstanding Lay Followers
Yasa’s father had