Giáo lý của đức Phật có trình bày
về Ba sự thật. Ba sự thật ấy còn được gọi là ba con dấu, trong kinh gọi là Tam
pháp ấn, the three dharma seals. Chúng là ba đặc tính có mặt
trong mọi kinh nghiệm của cuộc sống: vô thường, khổ và vô ngã. Khi ta hiểu sâu
sắc được Ba sự thật ấy, chúng sẽ mang lại cho ta một sự tự tại và an lạc ngay
trong cuộc sống này.
Thật ra thì Ba sự thật ấy cũng rất là hiển nhiên. Có
một vị giáo thọ Tây phương kể lại rằng mỗi khi bà mang ra dạy, các thiền sinh
thường nói: “Chỉ có vậy thôi sao? Ai mà lại không biết chuyện đó!” Thật ra đó
là những sự thật rất bình thường và hiển nhiên, nhưng ta cần hiểu cho thật thẩm
thấu, để những tuệ giác ấy có thể giúp ta bớt sợ hãi hơn và có tâm từ ái hơn
trong cuộc sống này.
Điều dễ gây nên nhiều hiểu lầm, mà cũng có năng
lượng mang lại sự giải thoát lớn cho chúng ta, là giáo lý về vô ngã, anatta. Thật
ra đó cũng chỉ là một hình thái khác của luật vô thường mà thôi. Tôi nghĩ, vô
thường là khi ta nói về khía cạnh thời gian, và vô ngã là khi ta nhìn về phương
diện không gian, vật lý. Chúng chỉ có nghĩa là tất cả luôn biến đổi, không có
gì là có một thực thể cá biệt và độc lập được hết.
Và vì mọi vật đều luôn luôn thay đổi, nên “cái Tôi”
là một động từ chứ không phải danh từ. Chúng là những kinh nghiệm biến đổi liên
tục, là những sự việc đang xảy ra, mà chúng tự góp nhặt và kết nối nhau lại
thành một câu truyện. Trong kinh đức Phật dùng chữ duyên khởi để diễn tả rằng
mọi việc nhờ nương nhau mà có. Và vì tất cả mọi hiện tượng đều có liên quan mật
thiết với nhau, nên không có một cái gì có thể đứng riêng rẽ, độc lập, một mình
được hết.
Bà Sylvia Boorstein, một giáo thọ người Hoa kỳ và
cũng là một nhà Tâm lý học, psychologist, có chia sẻ một bài viết về sự nghịch
lý và tuệ giác của giáo lý vô ngã trong cuộc sống. Xin gửi đến các bạn.
--- oOo ---
Cái bệnh này là của ai đây?
“Nếu như không có một cái tôi, thì cái bệnh viêm khớp xương,
arthritis, này là của ai đây?” Đó là một trong những câu hỏi mà tôi thường nghe
những người mới bắt đầu học Phật hay truyền cho nhau, và tôi cũng thường nhận
được qua email. Câu hỏi ấy hơi có ý châm biếm về lý vô ngã, anatta. Nhưng
tôi nghĩ sự châm biếm ấy thật ra không phải nhắm vào giáo pháp của Phật, mà nó
là một sự chế giễu về sự rối rắm trong ngôn ngữ của chúng ta. Mà vấn đề ngôn từ
lẫn lộn ấy cũng là việc dễ hiểu thôi.
Cách
đây hai mươi lăm năm, khi tôi bắt đầu thực tập thiền quán, tôi nhớ ngồi nghe vị
thầy mình giảng về Tam pháp ấn, the three characteristics of experience,
vô thường, khổ và vô ngã, là những tuệ giác mà người tu học cần phải có, để
chuyển hóa những tham, sân, si của mình.
Giáo lý về vô thường, anicca,
thì có vẽ dễ hiểu đối với tôi. Tôi thấy rõ được rằng mọi việc luôn biến đổi,
thời gian đang trôi qua, và một hạnh phúc hay nỗi đau nào rồi cũng đều sẽ phai
nhạt theo thời gian. Khổ đau, dukkha, cũng hợp lý đối với tôi nữa. Tôi
hiểu được, dầu chỉ bằng khái niệm, về nỗi khổ gây ra do sự dính mắc.
Nhưng tôi không hiểu
được thế nào là vô ngã, thế nào là không có một cái tôi. “Như vậy thì ai ở
trong này đây đang tiếp xúc với sự sống đang xảy ra chung quanh, nếu không phải
là chính tôi? Thân này là của tôi, tư tưởng này của tôi và chuyện đời này là
của tôi!” Tôi còn nhớ là lúc ấy tôi tin chắc là mình đúng, vị thầy hoàn toàn
sai, nhưng vì tôi rất thích giáo pháp của đức Phật nên tạm gác thắc mắc ấy sang
một bên.
Thêm vào với cái cảm
nhận rằng, “Có một người nào đó bên trong đang làm chủ những việc xảy ra,” thì
tôi còn là một nhà tâm lý học, psychologist. Tôi đã tin, và vẫn tin rằng, cái
cảm nhận về một cái tôi khác biệt với chung quanh – “Đây là tôi. Đây là những
tài năng của tôi. Tôi sử dụng chúng khôn khéo trong một cuộc sống liên hệ với
những người khác. Tôi có thể tự lo cho mình được” – là một phần rất quan trọng
cho việc phát triển một xúc cảm tốt lành.
Cái tôi của ngôn ngữ không phải
là vấn đề
“Tôi là tôi, tôi khác với bạn,” thật ra cái biết đó cũng rất
là chủ yếu trong sự hình thành một ý thức về đạo đức. Mỗi khi tụng giới, chúng
ta đọc, “Ý thức được những khổ đau do sự giết hại gây ra, con xin nguyện thực
tập bảo vệ sinh mạng của con người, của các loài động vật, thực vật và môi
trường của sự sống,” nó đòi hỏi chúng ta một sự hiểu biết về sự sống của những
loài khác với ta, chúng cũng biết kinh nghiệm những khổ đau như chính ta vậy.
Khi ta có thể nói rằng,
“Tôi là bạn của người ấy,” hoặc là “Tôi sẽ đi làm ngày mai,” hay “Tôi sống ở địa
chỉ này,” là một điều rất hữu ích và cần thiết trong cuộc sống. Và những “cái
tôi” đó không phải là vấn đề. Chúng chỉ là một thứ dụng cụ, đồ trang bị, để
giúp chúng ta quản lý cuộc sống mình. Chúng chỉ là một phương tiện ngôn ngữ
dùng để diễn đạt tình trạng, hoàn cảnh, chứ đó không phải là một thực thể riêng
biệt và bất biến nào hết.
Ý niệm về một cái tôi độc lập
mới là vấn đề
Còn “cái tôi” có vấn đề là một “cái tôi” hay kể lễ những câu
truyện, rồi tự cô lập và giam mình vào khổ đau.
Đây là một ví dụ. Trong
thời gian hai vợ chồng tôi học thiền với một vị thầy. Có một người bạn làm tôi
nổi giận, và tôi nói với chồng mình, “Em tức giận chị ấy vô cùng, không ngờ là
chị ta đã nói như vậy về em.” Anh ta đáp, “Nhưng ‘cái tôi’ đang giận đó nó đang
ở đâu?” Câu trả lời của anh lại càng làm tôi tức giận thêm, tôi đáp, “Anh và
tôi đều biết là không có một ‘cái tôi’ nào hết. Nhưng cái giận có thật! Khổ
đau có thật!”
Giá như nếu lúc đó tôi
bình tĩnh hơn một chút, tôi đã có thể nhận diện được một “cái tôi” đông cứng và
biệt lập, mà tự chính mình đã dựng lên theo với câu truyện “không ngờ là chị ta
đã nói như vậy về tôi.” Và chính một cái tôi kéo dài ra ấy mới là nguyên nhân
của khổ đau. Nó dựng lên một “cái tôi” bị nói xấu và rồi “cái tôi” ấy bị khổ
đau.
Bạn biết không, một “cái
tôi” nào có sự mong cầu, bất cứ một loại mong cầu nào, là một “cái tôi” khổ đau. Khổ
đau khởi lên theo với một sự bất an nào đó.
Nhưng đó cũng không phải
là một điều gì sai trật hay trái luật tâm linh gì hết: chúng chỉ là những dấu
hiệu báo cho ta biết rằng, có việc gì đó đang cần đến sự chú ý của mình. Và
chúng sẽ biến mất đi khi tâm và thân ta được thoải mái, dễ chịu. Và cũng như
mọi hiện tượng khác trong cuộc sống, chúng cũng vô thường và vô ngã, không có
một “cái tôi” nào hết, chúng khởi lên và qua đi hoàn toàn tùy thuộc vào điều
kiện.
Vô ngã nhưng sự sống vẫn nhiệm
mầu
Vài năm trước trong một buổi nói chuyện của đức Đạt Lai Lạt
Ma, có một anh thanh niên trẻ than với Ngài, “Con không thể nào tập thiền được. Lúc
nào con cũng nghĩ rằng mình đã làm quá nhiều lỗi lầm, con không thể nào xứng
đáng có được hạnh phúc.” Đức Đạt lai Lạt ma cúi xuống gần anh và nói với một
giọng vừa sửa chữa lại vừa cứng rắn. “Anh lầm rồi!” Ngài nói. “Mỗi chúng sinh
đều là một biểu hiện kỳ diệu của thiên nhiên. Và có được thân người này lại còn
càng là quý giá biết bao nhiêu, vì ta có thêm khả năng để phát triển tình thương
và tuệ giác.”
Bạn thấy không, không có một cái tôi nào hết, vô ngã, nhưng
sự sống này vẫn rất nhiệm mầu.
Nguyễn Duy Nhiên