☸
THÍCH NHUẬN
CHÂU dịch
LGT: Đây là phần 4 trong cuốn Nietzsche và
đạo Phật (Nietzsche and Buddhism ) do ROBERT G. MORRISON biên soạn. Đây là Luận án
Tiến sĩ của ông, đã được Oxford University Press ấn hành năm 1997. Phần 1 đã được trích đang trong Tập san
Nghiên Cứu Phật Học số 6 (Pl 2552)
☸
Tôi nghĩ là làm
một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của
‘thuyết hư vô thụ
động,’ rằng đạo Phật truyền dạy một mục tiêu chung cuộc của con người hoàn toàn
tịch diệt khi nhập niết-bàn (parinirvāṇa). Nhưng Nietzsche đã đi đến kết luận nầy bằng
cách nào? Nietzsche có sai lạc mục tiêu chăng?
Nguồn tư liệu
duy nhất về việc thâm nhập đạo Phật của Nietzsche là tác phẩm Buddha của Oldenberg, tác phẩm Selected Essays (vol. ii), của Müller, tác phẩm Die Religion des Buddha (2 vols.) của Koeppen, bản dịch tóm tắt Kinh Tập (Sutta-nipāta) bằng
Anh ngữ của Coomaraswam, và những gì Nietzsche đã đọc trong những
tác phẩm của Schopenhauer. Mistry kể
rằng Nietzsche ‘có thể đã... rút ra được những kiến thức đạo Phật từ người bạn
của ông là Ernst Windisch, là nhà nghiên cứu Phật học, về sự nghiên
cứu tiếng Sanskrit, ông nhắc đến trong thư tín của ông gửi cho người bạn mình là
Deussen, và người bạn khác là Rohde.’ Tuy nhiên,
không có mối liên hệ trực tiếp với đạo Phật hay tư tưởng Ấn Độ được tìm thấy
trong các thư tín nầy. Điều nầy khiến ngạc nhiên vì, nêu lên sự quan tâm của
Nietzsche dành cho đạo Phật trong các bài viết của ông, người ta đều mong đợi
tìm thấy một vài đề cập đến tư tưởng của ông trong lĩnh vực nầy từ thư tín của
ông gửi cho người bạn thân trọn đời của mình là Deussen, vốn là nhà nghiên cứu
tiếng Sanskrit. ‘Nietzsche... chưa từng một lần bận tâm đến việc tìm kiếm tư
liệu, hoặc thảo luận những đề tài [liên quan đến đạo Phật hay tư tưởng Ấn Độ]
với ông ta.’ Thế nên những
gì chúng ta còn, tất cả các tác phẩm trên là nguồn tư liệu rõ ràng duy nhất về
sự hiểu biết của Nietzsche về đạo Phật.
Trong các tác
phẩm về đạo Phật, Koeppen là
tác giả đầu tiên Nietzsche đọc được. Đối với Koeppen,
niết-bàn ‘là... sự huỷ diệt toàn thể cao tột và đầu tiên
nhất của linh hồn, huỷ diệt trong hư vô, hoàn toàn hoại diệt... Niết-bàn là Hư vô
thần thánh: Đạo Phật là phúc âm của hư vô.’ Ở đây có nguồn
tư liệu về quan điểm của Nietzsche rằng niết-bàn là ‘khát vọng hư vô–desire
for nothingness,’ rằng niết-bàn
hàm ý hư vô toàn vẹn của sinh thể ngay lúc chết. Nhưng các tác phẩm sau nầy của Müller và
Oldenberg thì sao?
Müller dường như có một thay đổi trong tâm rằng
niết-bàn có
thuộc về Hư vô luận hay không? Chẳng hạn, trong tiểu luận của ông ta, ‘Buddhism’
ông phát biểu về đạo Phật...
Trí huệ chân thực bao hàm tri giác về cái
không của hiện tượng, và trong mong muốn trở thành cái không, tắt ngấm, nhập vào
trong cảnh giới niết-bàn. Giải thoát là đạt được bằng sự tịch diệt hoàn toàn ấy, chứ không phải
bằng sự miệt mài của đạo Bà-la-môn, hay bằng sự phục hồi trạng thái chân
thực của linh hồn.
Nhưng Müller bị
kinh ngạc bởi mâu thuẫn hiển nhiên giữa đạo Phật như là một triết học và đạo
Phật như sự lưu truyền đã được hình thành trên thế gian.
Làm sao mà một tôn giáo chủ trương đoạn
diệt mọi hiện tượng, mọi tư tưởng, của mọi cá thể và tính cách, như là đối tượng
cao nhất của mọi nỗ lực, mà đáng lẽ ra phải lưu giữ lại tâm thức của hằng triệu
sinh linh? Và làm sao mà trong cùng một lúc, nhờ tuân thủ bổn phận đạo đức, hoà
ái, hy sinh chính mình, lẽ ra phải ứng dụng một ảnh hưởng rõ ràng có lợi lạc,
không chỉ trong địa phương Ấn Độ, mà còn trong những tầng lớp hạ
tiện nhất của vùng Trung Á, là điều khó hiểu mà chưa có ai có thể giải thích
được.
Nietzsche đã cố
gắng lý giải song đề hiển nhiên nầy bằng cách phân biệt rõ giữa ‘Đạo Phật như là
tôn giáo và đạo Phật như là triết học. Điều trước nhắm vào hằng triệu người,
điều sau dành cho số ít tư tưởng gia riêng biệt.’
Trong một tiểu
luận khác, ‘The Meaning of Nirvāṇa’, Müller bắt
đầu có nghi ngờ không biết đạo Phật có phải là Hư vô luận hay không, và tiếp cận
một nét đặc biệt khác. Müller nghĩ rằng, có lẽ, trong mối tương quan với kinh
tạng Pāli, chỉ có tạng A-tỳ-đạt-ma (Luận tạng), mà ông ta gọi là ‘Tạng siêu hình–Basket
of Metaphysics’–là thực sự thuộc hư vô luận,
cũng như văn hệ Bát-nhã thuộc về các
trường phái tư tưởng Phật giáo Đại thừa sau nầy giảng dạy giáo lý tánh không
(śūnyatā). Müller nhận định:
Do vậy, căn cứ duy nhất mà chúng ta có thể
đứng vững, nếu chúng ta muốn bảo vệ người sáng lập đạo Phật chống lại gánh nặng
của Đoạn diệt luận (Nihilism) hay Vô thần luận (Atheism), là điểm nầy, rằng, như một số trường
phái đạo Phật thừa nhận, ‘Luận tạng–Basket of Metaphysics’ đúng hơn là các tác phẩm của môn đệ ngài, chứ không phải là của
chính Đức Phật.’
Rồi ông tiếp tục
tự hỏi rằng niết-bàn được tuyên thuyết bởi Đức Phật, là khác biệt
với tín điều của những người chủ trương thuyết tịch diệt trong Luận tạng (Abhidhamma), thực tế là ‘vô ngã–self-ness– trong ý
nghĩa siêu hình học của ngôn từ–là sự trở lại vào nơi mà chẳng có
gì ngoài chính mình,’ có nghĩa là cái vừa được đề cập ở trên ‘trạng thái chân
thực của linh hồn.’ Sau cùng, trong tiểu luận kế tiếp, Müller khẳng
định rằng lời dạy của Đức Phật trong tạng thứ nhất (Kinh) và tạng thứ hai
(Luật)... là hoàn toàn khác hẳn với... Hư vô luận siêu hình (metaphysical
Nihilism)’ khi chúng ta khảo sát giáo pháp của
ngài qua Kinh Pháp cú (Dhammapada), ‘chúng ta nhận ra trong đó ý niệm
niết-bàn, hoàn toàn không thể tương ưng với Đoạn diệt luận trong tạng thứ ba (Luận tạng–A-tỳ-đạt-ma) trong
Kinh tạng đạo Phật.’ Do vậy, Müller
đi đến phân biệt giữa những giáo lý nguyên thuỷ có trong Kinh (sutta),
những giáo lý mà ông hiểu rằng nếu không phản ánh những gì Đức Phật thực sự
giảng dạy, là gần gũi với Đức Phật như chúng ta có thể xác định, và Luận tạng
(Abhidhamma), cùng tư tưởng Bát-nhã (prajñā) của Phật giáo Đại thừa sau nầy của chủ
trương thuyết tánh không (śūnyatā), cả hai điều ông ta đều xem là hoàn toàn
thuộc về Hư vô luận. Giáo lý nguyên thuỷ trong Kinh tạng là không phải như vậy,
mà hàm ý rằng bất luận điều gì Đức Phật tuyên thuyết trong đó đều không phải là
hư vô đoạn diệt luận (annihilation).
Cùng với Koeppen, miêu tả về miền bắc Ấn Độ vào thời Đức
Phật là đang ở trong trạng thái bất ổn tinh thần, không nghi ngờ gì về tình hình
Ấn Độ đã ảnh hưởng lên quan điểm của Nietzsche. Nhưng Oldenberg, khi đề cập đến cảnh giới niết-bàn, lại không nghĩ rằng nó hàm ý luôn cả
tịch diệt.
Trong đời sống tôn giáo, tinh thần chung
phổ biến trong các trường phái đạo Phật thời trước, tư tưởng hư vô đoạn diệt không có ảnh hưởng.
Nếu có người nào mô tả đạo Phật như là một
tôn giáo chủ trương hư vô, và nỗ lực phát triển từ đó như là một
phôi mầm, thì người ấy, thực tế, đã kế tục toàn bộ sự thiếu sót về dòng chảy
ngầm chính của Đức Phật và các trường phái nguyên thuỷ của các đệ tử.
Sau khi thảo
luận về hai đoạn văn trong Kinh Phật tự thuyết (Udāna) mà tôi đã
trích dẫn ở trên, cuối cùng
Oldenberg kết
luận bằng lối diễn đạt đầy chất thơ:
Đối với đạo Phật, từ ngữ ‘có sự không tạo
tác’[akata] chỉ biểu thị rằng chính người
tạo tác có thể tự tại đối với tai hoạ của cái được tạo tác–có một con đường từ
thế giới được tạo tác vào trong bóng đêm vô tận. Có phải đó là con đường dẫn vào
một hiện hữu mới? Có phải nó dẫn vào cái Không? Tín điều đạo Phật an trú thăng
bằng mong manh giữa hai điều ấy. Niềm khát khao của con tim thèm muốn bất diệt
không phải là không có gì, và thế nên tư tưởng không phải là một cái gì, để có
thể chấp chặc một cách cứng ngắc. Xa hơn ý niệm vô cùng, ý niệm bất diệt không
thể nào tự rút ra từ niềm tin hơn là nó có ở đây, nơi mà, như sự rung động nhẹ
nhàng trên đỉnh trào của cái Không, nó tìm cách lẩn tránh tầm nhìn.
Nêu ra những
quan điểm có trong cả hai tiểu luận sau nầy của Müller và trong tác
phẩm của Oldenberg về
niết-bàn, kỳ lạ là
Nietzsche đã không có một quan tâm nào đến hai kết luận của hai người nầy về
nhập niết-bàn
(parinirvāṇa), dù thực tế là
cả Müller và Oldenberg đều là những học giả nổi bật trong lĩnh vực nghiên cứu
Phật học từ tiếng Pāli, và các tác phẩm của họ đều đại biểu cho các học giả gần
đây nhất về tiếng Pāli. Tại sao Nietzsche không có sự để ý đến họ, chúng ta chỉ
có thể ước đoán. Có lẽ các giới nghiên cứu tiếng Sanskrit và Pāli mà Nietzsche
nói chuyện với họ ở Đại học Basle đã đoan chắc
với Nietzsche rằng cả Müller và Oldenberg đều sai lầm. Nhưng, đưa ra nguồn tư liệu của chúng ta, đây
là điều không thể nào xác định được. Dù ‘người thầy thông thái’ của Nietzsche là
Schopenhauer, người đã có
những tác phẩm chắc chắn là mối liên hệ đầu tiên của Nietzsche với đạo Phật, đã
không dịch parinirvāṇa là hư vô, đoạn diệt. Quan điểm của Schopenhauer có
phần nào giống như của Oldenberg.
Nếu niết-bàn được định nghĩa là không gì cả, điều ấy chỉ có
nghĩa là luân hồi (saṃsāra) không chứa một phần tử nhỏ nhiệm nào để
có thể khiến định nghĩa hay cấu trúc Niết-bàn.
Niết-bàn, đối
với Schopenhauer, là ‘phủ nhận ý
chí’ và luân hồi (saṃsāra) là ‘sự khẳng định ý chí.’ Trong tác phẩm
sau nầy, Parerga and Paralipomena, ông viết rằng:
Sự
từ khước ý chí-sinh tồn–denial of the will-to-live
dù sao cũng không phải là khẳng định tính hư vô trong thực thể, mà chỉ là hành vi không ý chí (act
of not-willing); là cái cho đến nay đã có ý chí mà không
còn ý hướng tính nữa. Vì khi chúng ta biết cái nầy đang hiện hữu, thực thể nầy,
ý hướng tính, như là vật tự thân (thing-in-itself) chỉ có trong và thông qua hành xử của ý
chí; chúng ta không thể nói hay hiểu nó là cái gì hay nó làm gì ngay sau khi nó
đã từ bỏ hành vi ý chí nầy, sự phủ nhận nầy là một bước băng qua để đi vào cái
không.
Từ những điều
Schopenhauer đã phát biểu ở các tác phẩm khác, để thực chứng
niết-bàn là
sẽ phải tương đương như trở về lại với trạng thái ‘hiện hữu tiên thiên,’ vốn chẳng quá
xa xôi với điều mà cả Müller và
Oldenberg đều gợi ý. Do vậy, đưa ra cội nguồn tư liệu về
cách hiểu của Nietzsche, rõ ràng tuy Nietzsche đã đến với quan niệm rằng đạo
Phật là một dạng chủ thuyết hư vô thụ
động, điều ấy vẫn không kháng cự nổi với Hư vô luận, đó không phải là do
Nietzsche bị ảnh hưởng của Schopenhauer.
Để kết luận phần
đầu, tôi sẽ tìm xem ảnh hưởng nào khác với Nietzsche mà tôi nghĩ rằng có thể hé
mở cội nguồn chân thực mà Nietzsche xem đạo Phật như là một dạng hư vô thụ
động: những quan niệm và ý tưởng về văn hóa và tôn giáo mà Nietzsche thấm nhuần
có chút chấp nhận không phê phán từ những điều Nietzsche đọc được qua Nhân chủng
học (anthropology).
Như nhận xét của
Thatcher, Nietzsche ‘như những nhà cách mạng tư
tưởng khác trong thời mình... tìm kiếm tri thức mới của con người bằng cách vén
mở những cội nguồn bí ẩn của đời sống con người, văn hoá các nền văn minh.’
Đúng như Darwin phát hiện ra
nguồn gốc loài vật của con người, những nhà nhân chủng học như Tylor và
Lubbock đã khám phá–hoặc tư tưởng họ đã bộc lộ–nguồn
gốc tự nhiên của một diện mạo nào đó của nền văn minh đương thời, đặc biệt là
nguồn gốc tự nhiên của đức tin tôn giáo của chúng ta. Một ý tưởng cốt yếu rằng
Nietzsche dã vay mượn từ họ, và sử dụng trong tác phẩm của riêng mình, rằng
nguồn gốc của mọi đức tin trong thế giới khác hơn là thế giới tự nhiên phát xuất
từ thực tế rằng trong giấc mơ cuộc đời, chúng ta dường như gặp phải một thế giới
khác. Như Lubbock viết:
Lúc ngủ, dường như tinh thần rời bỏ thể
xác; và vì trong giấc mơ, chúng ta viếng thăm những xứ khác và thậm chí những
thế giới khác, cuộc sống, như đang có, là một cuộc riêng biệt và khác lạ, hai
hiện tượng được xem là giả tạo khi cái nầy bổ sung cho cái kia. Vì thế người
hoang dã xem các sự kiện trong giấc mơ của mình là thực như những gì lúc họ
tỉnh, và do vậy họ tự nhiên cảm thấy rằng mình có một tinh thần có thể từ bỏ thể
xác... Khi họ mơ về những người bạn đã xa của mình, hoặc người thân, những người
hoang dã tin tưởng chắc chắn rằng chính họ đang được viếng thăm bởi tinh thần
của mình, và do vậy tin rằng, quả thực nó không ở trong bất tử của linh hồn, mà
ở trong sự tồn sinh của thể xác.
Nietzsche, rõ ràng với đoạn văn nầy trong đầu, viết rằng:
Hiểu lầm về giấc mơ.
Người thuộc thế hệ văn hoá dã man thời nguyên thuỷ tin rằng trong giấc mơ, họ
trở nên biết được một thế giới thực thứ hai: đây là nguồn gốc của mọi hiện tượng
siêu hình. Không có giấc mơ, con người không có dịp phân chia thế giới thành
hai. Sự mổ xẻ thành linh hồn và thể xác còn liên hệ với ý niệm cổ xưa về giấc
mơ, cũng như sự thừa nhận cuộc sống linh hồn, thế nên nguồn gốc của mọi đức tin
tinh thần, và có lẽ cũng là đức tin vào thần thánh. ‘Người chết vẫn sống,
vì họ xuất hiện để sống trong giấc mơ’: đó là kết luận mà người đời xưa rút ra
được, suốt cả thiên niên kỷ. (HAH 5)
Nietzsche, lập trên những ý tưởng mà ông đã tìm
thấy trong Lubbock và
những người khác, nghĩ rằng bây giờ ông đã hiểu được nguồn gốc tự nhiên của
khung sườn hai-thế-giới, tính nhị nguyên của linh hồn thể xác và niềm tin vào sự
tồn sinh sau khi chết, cũng như niềm tin vào tinh thần và ngay cả nguồn gốc siêu
hình–tất cả đều có một phả hệ (genealogy) có
nguồn gốc chính là thế giới của giấc mơ, với thực tế là tổ tiên thời nguyên thuỷ
của chúng ta tưởng rằng họ gặp một thế giới khác trong giấc mơ của mình, điều mà
Nietzsche cho là ‘sự thất bại của trí năng.’ Nietzsche dường
như không quan tâm đến nguồn gốc khả dĩ nào khác, vì, ‘Không có giấc mơ, con
người không có dịp phân chia thế giới thành hai.’ Sớm hay muộn,
sơ đồ hai-thế giới nầy, như đã được truyền từ thời nguyên thuỷ qua hằng thế
hệ–nguồn gốc của nó đã bị lãng quên–trở nên quá thích nghi, trở thành hầu như là
một phạm trù tiên thiên có sẵn trong mỗi suy nghĩ chúng ta, rằng nó cho biết mọi
tư tưởng và suy đoán mang tính tôn giáo và triết học.
Nietzsche còn
thấy được sự tương tục của sơ đồ nầy trong lĩnh vực khoa học đương thời với tình
hình theo đuổi ‘thế giới chân thật’ vượt ra ngoài thế giới của các giác quan. Do
vậy, điều mà chúng ta được biểu hiện là ‘lịch sử của một sai lầm.’ Nhưng ‘sai lầm’ nầy không luôn luôn bất lợi
cho sự phát triển của con người, như trong trường hợp người Hy lạp, vốn có ý niệm thần Olympian là một ‘hình
ảnh trung thực của nguyên mẫu thành công nhất trong tầng lớp của họ... một sự lý
tưởng hoá, không phải là một phản đề của bản chất riêng họ.’ Trong các vị
thần Hy Lạp, chất loài vật trong con người hình như được tôn sùng và
không xâu xé chính nó, không thịnh nộ chống lại chính nó.
Người Hy Lạp còn
trách mắng các thần của họ, đúng hơn là chính vì các tai hoạ do chính họ. Nhưng, từ Plato, đến Ki-tô giáo và
siêu hình học và
vào trong thế giới khoa học hiện đại, sơ đồ hai-thế giới đã bị chấp giữ như là
phương tiện để thoát khỏi và kết tội thế giới tự nhiên. Đối với những người mà
đời sống là quá nhiều gánh nặng, những khổ vì cuộc sống và thậm chí muốn trả thù
chính mình bằng sự sống, ‘thế giới khác’ là cái để thoát ra, trở nên bào chữa
cho sự trở lại của chính mình với thế giới tự nhiên và kết án nó là xấu ác và vô
dụng. Theo đó, nêu ra phả hệ ‘được phát hiện’ nầy về đồ hình hai-thế giới từ sự
hiểu biết về khoa nhân chủng học của ông, khi Nietzsche gặp được các bản dịch
của Müller và
Oldenberg về
parinirvāṇa như là hàm ý một ‘cõi giới vĩnh cữu’ mà người
chứng niết-bàn thể
nghiệm lúc chết, và nêu ra rằng các học giả khác đã đánh giá đạo Phật là thuộc
về Hư vô luận, Nietzsche có lẽ đã nghi ngờ cao độ về đề cập đến một vài cảnh
giới siêu việt thế giới tự nhiên và hầu như có khả năng đánh giá rằng đây là một
cách dịch của phái suy đồi–décadents, giải thích ước
nguyện và đánh giá của riêng họ vào giáo lý đạo Phật.
Khi chúng ta
thêm điều nầy vào bản miêu tả, đặc biệt là trong tác phẩm của Oldenberg, về những biến dạng văn hoá đã diễn ra
trước thời Đức Phật, mô tả một thời đại lớn dậy một cách yếu ớt những suy luận
siêu hình học, nơi mà thuyết
bất khả tri (agnosticism) lan tràn trong các triết gia, nơi mà niềm tin
tôn giáo và đạo đức xưa cũ dần dần bị xói mòn và trong đó, Nietzsche thấy một
lịch sử tính song song với thời đại ông ta, chúng ta có một lý do tại sao
Nietzsche đã từ chối quan điểm của Müller và
Oldenberg liên quan đến parinirvāṇa . Đức Phật đã đến tầng bậc nầy như là một người
vô thần (atheist), đã bác bỏ sự thành lập một truyền thống tôn giáo, đó là đạo
Bà-la-môn (Brāhmanism). Ngài giảng dạy một tín ngưỡng ‘tự giác, không có sự
chống trái nào giữa các vị thần thánh hoặc chúng sinh các cõi giới. Giáo lý của
ngài rất tôn trọng ‘quy luật tự nhiên’ và do vậy, được Nietzsche xem là một ‘nhà
sinh học thâm diệu.’ Và do vì Nietzsche hiểu Đức Phật là khám phá ‘những điều
kiện tất yếu trong đó duy nhất [đạo đức] có thể phát triển,’ và ông đã khám phá
những điều kiện nầy ‘không còn ai muốn (đạo Phật) nữa,’ điều mà tôi
hiểu là hàm ý rằng Đức Phật từ chối khung hình hai-thế giới, chúng ta có thể
hiểu tại sao Nietzsche đứng về phía những người đã dịch parinirvāṇa là
những người theo Hư vô luận (annihilationist): đã đưa ra rằng không có thế giới
nào khác hơn thế giới thuật ngữ và niết-bàn là
một trạng thái mà con người có thể đạt đến ngay trong thế giới nầy, vì
parinirvāṇa
đưa đến chấm dứt luân hồi (saṃsāra), và luân hồi là chỉ trong thế giới nầy.
Đạo Phật do vậy, ắt phải là Hư vô luận. Tuy nhiên, như tôi đã thảo luận ở trên,
tôi nghĩ rằng Nietzsche đã sai lầm.