Tân Vật Lý và Vũ Trụ Luận
tan vat ly
Nhà
vật lý
học thiên
tài người Đức, Albert Einstein, vào
đầu thế kỷ 20 đã có một nhận xét khá đặc biệt về Phật
giáo: “If there is any religion that would cope with modern scientific needs,
it would
be Buddhism. Buddhism riqires
no revision to keep
it up
to date
with recent
scientific fidings. Buddhism needs no surrender its view to science, because it
embraces science as well as goes beyond science.” Nếu có một
tôn giáo nào đáp ứng những nhu cầu của khoa học hiện đại, thì đó là Phật giáo.
Phật giáo không đòi hỏi phải xét lại mình để cập nhật với
những khám phá gần đây của khoa học.
Phật giáo không cần từ bỏ quan điểm
của mình để đi theo khoa học, vì nó bao gồm khoa học cũng như vượt qua khoa
học.
Việc ông
dành cho
Phật giáo
một vị
trí nổi
bật như vậy
giữa tất cả các
tôn giáo
đang có
mặt trên
thế giới, xuất phát từ
niềm thao thức đi
tìm một đạo lý có giá
trị phổ biến, bao quát
cả đời sống thiên nhiên lẫn tinh thần, để xây
dựng một cuộc sống an lạc đầy ý nghĩa trên hành tinh này,
trong bối
cảnh khoa học đang có những
khám phá mới làm thay đổi các quan điểm cũ mà một thời từng được xem như những
chân lý tuyệt đối.
Trên mặt
vi mô, vật lý học lượng tử đối mặt với những khám phá
mới liên hệ tất yếu đến vai trò của dụng cụ quan sát trong việc
quyết định các tính chất ánh sáng, như
lưỡng tính sóng
– hạt (wave
– partile
duality), tính ngẫu nhiên khách quan của các sự kiện lượng tử (objective
randomness of quantum events – Những sự kiện lượng tử vô thủy), tính phi định
xứ của hạt (nonlocality), tính liên
kết giữa nhiều hạt (multiparticle entanglement) v.v…
Trên mặt
vĩ mô, thiên văn học mở ra cho con người thấy một vũ trụ mới mẻ,
sinh động và
bao la. Vũ trụ không phải
chỉ có một hệ mặt trời, một dải
ngân hà được xếp đặt trong một trật tự cố định, mà
thực tế,
dưới những ống
kính thiên văn
có công suất lớn, và dưới cái
nhìn của thuyết Big Bang, vũ trụ hiện ra kỳ
diệu, bao
la với vô số hệ
mặt trời, vô
số thiên
hà đang trong quá trình hình thành và hủy diệt không ngừng.
Những khám phá mới mẻ này một mặt làm đảo lộn các giá trị cổ
điển trong hệ thống vật lý học Newton và các quan điểm vật lý
khác trước đó.
Mặt khác, lần
đầu tiên trong
lịch sử
khoa học nhân loại, nó xóa tan lằn ranh ngăn cách giữa dụng cụ quan sát
với đối tượng, nghĩa là giữa chủ thể và khách thể. Khách thể không còn là một
sự vật độc lập ngoài chủ thể và ngược lại. Chính điều này làm người ta thấy nội
dung những khám phá khoa học mới mẻ ấy
ảnh hiện thấp thoáng trong giáo lý Phật giáo, một giáo lý đặt cơ sở
trên nguyên lý duyên khởi (pratītyasamutpāda), gồm nhiều điều do chính đức Phật
tuyên thuyết cách đây
trên hai ngàn
rưỡi năm, hay những hệ
tư tưởng được các bộ phái hình
thành về sau.
Người ta có
thể tìm
thấy nội dung tương đồng giữa những khái niệm mới mẻ trong
khoa học
lượng tử với những khái niệm căn bản của Phật giáo, chẳng hạn khái niệm lưỡng tính sóng hạt
với Duy Thức (vijnaptimatra) mà trong
kinh Phạm Võng đức Phật trình bày
một cách
cụ thể: “Tayidam, bikkhave, Tathāgata pajānāti: ime
ditthitthānā ‘ti
tanca
Tathāgato pajānāti tato ca uttaritaram
pajānāti.”
“Này các Tỷ-kheo, Như
Lai biết
điều này: “Rằng những quan điểm này được
nắm bắt như vậy, được chấp trước như vậy,
sẽ hình thành những đường đi như vậy, những định mệnh như vậy.” Như Lai
biết điều ấy, và
Như Lai
còn biết nhiều hơn điều ấy nữa.”
Hay tính ngẫu nhiên khách quan của các sự kiện lượng tử với khái
niệm vô thủy trong Phật giáo: “Purimā koti na panāyati
bhavatanhāya – io pubbe bhavatanhā nāhosi atha pacchā sambhavī’ti,
eancetam vuccati. Atha ca pana pannayati
– īdaccayā bhavatanhā (Anguttara X. 61-62
Āhāra): Không thể biết điểm tối sơ của hữu ái để nói rằng trước điểm đó không
có hữu ái, sau
này nó
mới xuất hiện. Nhưng có
thể biết được rằng do duyên
cái này mà có hữu ái.
Tính phi định xứ với khái niệm vô ngã (nairātmya) hoặc tánh không
(sūnyatā); Tính liên kết giữa nhiều hạt với khái
niệm trùng trùng duyên khởi.
Tính chất quan trọng nhất trong các nội dung tương đồng này là
sự tương quan
giữa dụng cụ quan sát
và đối tượng, giữa chủ
thể và khách thể, mà khoa học mô tả bằng khái niệm “lưỡng tính
sóng hạt”, còn Phật giáo
thì bằng khái niệm “duy
thức”
– Vũ trụ được định hình do Thức Căn, tức nghiệp của chúng sinh.
Tính chất này
mở đường cho
tính nhân
văn trong
khoa học.
Khoa học không những phải có trách nhiệm đạo đức trong cách nghiên cứu của mình, mà còn có
thể khám phá ra những cơ sở khoa học của nền đạo đức ấy cho thế giới.
Phương pháp luận về giải
thoát đặt nền
móng trên tư
tưởng Tánh Không và Duy Thức của
Phật giáo hứa
hẹn gì cho
những nghiên
cứu của khoa học trong phương diện này? Albert Einstein
đã thấy
gì khi ông nói:
“The religion of the
future will
be a
cosmic religion. It would trascend a person
God and avoid dogmas and Theology. Covering both the
natural and
spiritual, it
should be
based on a
religious sense,
arising from
the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism ansers this description.” Tôn giáo
tương lai
sẽ là
một tôn
giáo toàn cầu, vượt lên trên
một đấng thần linh, và
không còn
giáo điều, và thần học.
Bao quát cả tự nhiên và tinh thần, tôn giáo ấy phải đặt nền
móng trên một ý thức đạo lý khởi lên từ cái kinh nghiệm thấy toàn thể mọi vật, tự
nhiên và tinh
thần, là
một thể thống nhất đầy ý nghĩa.
Phật giáo đáp ứng điều kiện này”.
Những vấn đề nêu trên là những đề tài được thảo luận chi tiết
và thẳng thắn giữa các
nhà khoa
học hàng
đầu trong
vật lý
học lượng tử và
vũ trụ học với đức Đạt-lai Lạt-ma cùng
các phụ tá của ngài. Cuộc đối
thoại này giữa các nhà đại diện cho Khoa học
và Phật giáo diễn ra
tại Dharamsala, thủ phủ của
Phật giáo
Tây Tạng và
đã được Arthur Zajonc
ghi lại
trong cuốn “The new
physics and Cosmology, Dialogues with the Dalai
Lama”.
Phật tử Pháp
Hiền có
duyên tiếp xúc với cuốn sách trên, và
đã dịch ra tiếng Việt. Làm việc này, trước hết anh muốn
san sẻ niềm vui hiểu biết của
mình với những ai quan tâm đến Khoa học
cũng như
Phật giáo. Thứ nữa, trong
cương vị
một người Phật tử, bằng niềm tin chân chánh, anh
muốn góp phần vào việc hoằng pháp lợi sanh. Dịch
xong, anh
ngỏ ý
nhờ chúng tôi viết lời tựa
cho dịch phẩm của mình.
Thể theo chỗ
thân tình, chúng tôi
mạo muội viết đôi lời trân trọng giới thiệu dịch phẩm của anh với độc giả.
Mong rằng tâm nguyện của anh sẽ được như ý.
Tayidam, bikkhave, Tathāgata pajānāti: ime
ditthitthānā evam gahitā evam prāmatthā
evam gatikā bhavanti evam abhisamparāyā ‘titanca
Tathāgato pajānāti tato ca uttaritaram pajānāti; tanca pajānanam
na paramasati, aparāmasato cassa paccattann eva nibbuti vidtā / vedānam
samudayan
ca atthangaman ca assādan ca ādīnavan ca nissaranan ca yathābhūtam vidittvā
anupādāvimutto, tathāgato.
Ime khoti, Bikkhave, dhammā gambhirā duddassa, duranubodhā santtā panātā atakkāvacarā nipunā panditavedanīyā,
ye tathāgato sayam abhinnā sacchikatvā, pavedeti yehi tathāgatassa yathābhuccam vanam sammā
vadamānā vadeyyuh.
Này các Tỷ-kheo, Như
Lai biết điều này: “Rằng những quan điểm này được nắm bắt như
vậy,
được chấp
trước như vậy
sẽ
dẫn
đến những đường đi
như vậy,
những định mệnh như vậy.”
Như Lai biết điều ấy, và Như Lai còn biết nhiều hơn điều ấy nữa. Dẫu biết điều ấy, Như Lai không chấp trước nó, và nhờ không
chấp trước, Ngài cảm nhận được sự an tịnh trong nội tâm. Sau
khi biết như thật sự tập khởi, sự diệt trừ, vị ngọt, sự nguy
hiểm và
sự xuất ly các cảm
thọ. Này các Tỷ-kheo, Như Lai giải thoát khỏi sự chấp thủ.
Này các Tỷ-kheo, những pháp này
sâu xa,
khó thấy, khó
hiểu, tịch tịnh, tuyệt diệu, ngoài tầm lý luận và chỉ người có trí mới chứng
nghiệm được.
Thích Nguyên Giác