Bối cảnh
Hôn nhân
là một hiện tượng của loài người được thực hiện phổ biến, từ những nền văn minh
xa xưa, bất kể địa lý, tôn giáo, chủng tộc và giai tầng xã hội. Hôn nhân trong tiếng Latin là marītātus, có
nghĩa là “kết hôn, cưới và bán gả”. Ngày nay hôn nhân được định nghĩa là:
1. Một sự thoả thuận chính thức, thường được chấp nhận về mặt pháp luật, giữa
một người nam với một người nữ để giúp họ trở thành vợ chồng; 2. Một nghi lễ mà
ở đó đôi trai gái nên vợ chồng. Hôn nhân ở nghĩa đầu là muốn
nói ở trong bài viết này, và không phải là nghĩa thứ hai.
Có nhiều loại hôn nhân mà chúng bị ảnh hưởng bởi các quan điểm
tôn giáo, xã hội và triết học. Nói chung, có ba
loại hôn nhân, đó là chế độ đa thê, hôn nhân một vợ một chồng và kết hôn nhóm. Hôn nhân một vợ một chồng là phong tục kết hôn chỉ với một người ở
một lần. Đây là việc thực hành phổ biến trong xã hội và
tất nhiên loại kết hôn này có thể nhìn thấy khắp nơi. Nhưng, kết hôn nhóm là hoàn toàn hiếm thấy.
Kết hôn nhóm gồm nhiều hơn một thành viên của mỗi giới tính.
Họ sống chung chồng chung vợ với nhau, và có trách nhiệm trong việc
trông coi tài sản và chăm sóc con cái. Tuy nhiên, hai loại kết hôn này không phải là mục đích của bài viết
này. Mục đích chính của bài viết này là thảo luận và xem xét loại kết hôn
thứ ba: chế độ đa thê.
Thuật
ngữ đa thê (polygamy) được định nghĩa theo hai cách: 1.
Tập tục có nhiều hơn một vợ tại cùng một thời điểm; 2. Một sự kết hôn mà ở đó
người nam hay nữ có nhiều hơn một vợ hay chồng. Định nghĩa thứ
hai đưa đến những thuật ngữ hôn nhân khác được gọi là tình trạng nhiều vợ (polygyny)
và đa phu (polyandry). Đa thê có thể tìm thầy ở nhiều nơi xuyên suốt thời
gian cho dù vào thời cổ xưa hay thời hiện đại, nhưng đa phu thì hoàn toàn hiếm
và khó tìm thấy. Có thể do vì những vấn đề giới tính mà ở đó trong nhiều xã hội
phụ nữ có ít sự tự do, bao gồm tự do chọn lựa và để có nhiều chồng. Theo ghi
chép lịch sử sớm nhất, chế độ đa phu đã được thực hành ở Sparta của Hy Lạp cổ
đại; và ở xã hội Hindu, như được mô tả trong sử thi Mahābhārata, ở đó Draupadi
đã có năm chồng cùng một lúc. Bất chấp hai định nghĩa đa thê
được đề cập ở trên, ở sự phân tích này, định nghĩa đa thê là một sự kết hôn mà ở
đó một người chồng có nhiều hơn một vợ. Định nghĩa này được dựa trên nghĩa từ nguyên xuất phát từ tiếng Pháp
cổ polygamic và từ văn viết Latin (được sử dụng từ thế kỷ 3-7) là polygamia mà
nó có nghĩa là “có nhiều vợ.”
Mặc dù
đa thê được nhiều người Indonesia thực hiện, thật khó để đưa ra bằng chứng thống
kê là có bao nhiêu đàn ông Indonesia đang thực hiện chế độ đa thê. Đó là bởi vì nhiều kết hôn đa thê thường không được đăng ký với
chính quyền. Cũng như vậy, không rõ là có bao nhiêu nam
Phật tử Indonesia đang thực hiện chế độ đa thê. Mặc dù không rõ ràng về
tỷ lệ phần trăm, việc thực hành đa thê đang xảy ra trong giới Phật tử và sự thực
hành này mang lại sự bất lợi cho nữ Phật tử, chẳng hạn như gây nên bao lực gia
đình và bỏ bê lợi ích gia đình. Nhưng trước khi thảo luận thêm
về vấn đề này, chúng ta nên thảo luận về việc thực hành chế độ đa thê.
Thực
hành đa thê ở Indonesia: Từ Cổ đại đến Hiện đại
Đa thê
không phải là bản chất con người. Nó được thực hiện bởi nhiều lý do, chẳng hạn
như quan điểm xã hội xem phụ nữ như là nguồn sinh sản, lao
động và tài sản. Có lẽ, bởi vì lý do này, đa thê đã được thực
hành từ thời cổ xưa trong nhiều xã hội bao gồm cả Indonesia.
Những gia đình vua chúa của các vương quốc Hindu, Phật giáo và Hồi giáo ở
Indonesia cũng không ngoại lệ. Việc thực hành đa thê mà nó có thể truy nguyên chỉ là việc thực hành
của những gia đình vua chúa bởi vì câu chuyện đời sống của họ được ghi lại trong
các sách sử.
Chế độ đa thê do các gia đình vua chúa thực hiện là thường vì những lý do chính
trị, chẳng hạn như mục đích liên kết sức mạnh của các vương quốc. Ví dụ, để liên
kết sức mạnh của Kalingga và vương quốc Galuh, đã có một sự kết hôn giữa hoàng
thái tử Mandiminyak của Galuh và công chúa Parwati của Kalingga vào thế kỷ 6 Tây
lịch. Như được ghi chép trong sử, Mandiminyak không chỉ kết
hôn với Parwati mà cũng kết hôn với một phụ nữ khác có tên là Pahaci Rahabu.
Đa thê vì mục đích củng cố liên kết chính trị của hai vương quốc được tiêu biểu
bằng chế độ đa thê của Brawijaya, vua của vương quốc Majapahit trong suốt thế kỷ
14 (TL). Bên cạnh những người vợ địa phương khác, ông
còn có một người vợ từ vương quốc Campa có tên là Putri Dwarawati.
Putri Dwarawati là món quà mà Tướng Yan Lu của Triều Ming của vương quốc Campa
hiến tặng để củng cố mối liên hệ giữa Majapahit và Campa.
Vào
khoảng thế kỷ 15, khi Hồi giáo trở thành tôn giáo phổ biến ở Indonesia, đa thê
cũng được các vị vua của các vương quốc Hồi giáo thực hiện. Vị vua nổi
tiếng có tên là Sultan Agung của vương quốc Hồi giáo Mataram có hai vị chánh
phi. Một người tên là Ratu Kulon, con gái của vị thủ lĩnh Cirebon và một
người có tên là Ratu Wetan, con gái của vị thủ lĩnh Batang.
Việc kết hôn của ông với hai cô công chúa là để củng cố lòng trung thành của dân
chúng hai vùng Cirebon và Batang đối với vương quốc. Từ việc kết hôn với
Ratu Kulon, đã cho ra đời vị hoàng tử có tên là Pangeran Alit; và Ratu Wetan đã
hạ sinh một vị hoàng tử khác có tên là Raden Mas Sayidin. Sau khi Sultan Agung
băng hà, Raden Mas Sayidin đã giết Pangeran Alit và tự phong là vua của Mataram
Islam với tước hiệu Amangkurat I.
Amangkurat I cũng thực hiện chế độ đa thê và lý do dường như chỉ vì mục đích dục
lạc.
Ví dụ, ông đã giết chết Dalang Panjang Mas, một người làm trò
múa rối lâu năm trong hoàng cung để chiếm đoạt vợ của người này là Ratu Mas
Malang. Amangkurat I đã đánh nhau với chính con trai
của mình là Raden Rahmat bởi vì vị này đã đem lòng yêu thương Rara Oyi mà
Amangkurat I xem như là vợ. Cuối cùng Amangkurat I đã
ra lệnh con trai mình giết chết Rara Oyi, để không ai trong họ có thể kết hôn
với cô này.
Từ những
vấn đề ở trên, có thể thấy rằng đa thê đã tồn tại ở Indonesia từ thiên niên kỷ
thứ nhất. Thực
sự, không chỉ những gia đình vua chúa mới thực hiện đa thê mà quần chúng cũng
làm điều này. Việc thực hiện đa thê này tiếp tục từ thế hệ này sang thế
hệ khác; thêm nữa, nó nhận được sự che chở tư tưởng từ nhiều triết học địa
phương mà chúng đặt phụ nữ vào một vị trí thấp hơn đàn ông.
Người Indonesia, đặc biệt là những người Java, tin vào quan niệm rằng phụ nữ là
người trợ giúp của đàn ông bởi vì đàn ông là người lãnh đạo của gia đình.
Do đó, về mặt tinh thần cũng như về phương diện tài chính, phụ nữ có quan niệm
là luôn phụ thuộc vào đàn ông. Thái độ không độc lập này của
phụ nữ đưa đến việc chấp nhận bất cứ những gì mà chồng của họ làm, bao gồm cả
việc đa thê. Bên cận đó, luật hôn nhân do chính phủ ban định mà nó cho phép việc
thực hiện đa thê ở một số trường hợp cũng đã trở thành yếu tố khác cho việc tiếp
tục chế độ đa thê.
Nhôn
nhân được chính phủ Indonesia quy định ở Đạo luật I/1974. Nguyên tắc chung của hôn nhân là mối quan hệ tâm - vật lý giữa một người
nữ và nam như là chồng và vợ vì mục đích hình thành nên một gia đình hoà hợp và
hạnh phúc. Dựa trên điều luật này, rõ ràng rằng nguyên tắc hôn nhân
chung
do chính phủ quy định là chế độ một vợ một chồng và đó là những gì được đề cập ở
cột số 3 đoạn một. Tuy nhiên, có khả năng cho một người đàn ông có nhiều vợ bởi
vì phân đoạn tiếp theo của cột 3 này nói rằng “đàn ông
được phép kết hôn nhiều hơn một phụ nữ nếu được sự đồng ý giữa các bên liên
quan”. Cột tiếp theo nói rằng kết hôn với nhiều hơn một
phụ nữ là được phép nếu người vợ không thể thực hiện được bổn phận của mình (về
phương diện vật lý và tinh thần), bị mắc bệnh không thể chữa trị hay không thể
mang thai. Do đó, nếu một người vợ rơi vào một trong ba điều kiện được đề cập ở
trên, một người chồng có thể kết hôn với một người phụ nữ khác làm vợ mới của
mình. Với những quy định ở trên, một người đàn ông đã lập gia đình, nếu vợ của
ông đồng ý và ông chỉ ra được rằng ông có thể cung cấp những nhu cầu vật chất,
tâm và vật lý đến nhiều hơn một người vợ, ông sẽ được phép thực hiện đa thê. Luật hôn nhân cũng nói rằng nếu ở trong trường hợp một người chồng
mất liên lạc với vợ sau hai năm, ông ta có thể kết hôn với người phụ nữ khác mà
không cần sự đồng ý từ người vợ vắng mặt. Tuy nhiên, ở quy định kết hôn
này, không đề cập rõ ràng về giới hạn được có bao nhiêu vợ. Do sự ảnh hưởng của
giáo lý Hồi giáo, người ta nghĩ rằng một người đàn ông có thể có bốn vợ cùng một
lúc.
Những gì
có thể nhìn thấy từ điều luật ở trên là một sự thiên vị giới tính. Theo
những luật lệ này, trong đời sống hôn nhân phụ nữ chỉ được xem như là người sinh
con, và do đó, nếu họ không thực hiện được bổn phận này, họ phải chấp nhận đa
thê. Bởi vì lý do này, một số phụ nữ Indonesia và những nhà hoạt động nhân quyền
đang yêu cầu chính phủ sửa đổi luật hôn nhân bằng cách huỷ bỏ việc cho phép thực
hiện đa thê bất kể lý do có thể là gì. Tuy nhiên, bởi vì sự ảnh hưởng của quan điểm Hồi giáo là tôn giáo
chiếm đa số, chính phủ vẫn chưa thực hiện được đòi hỏi này bởi vì Hồi giáo cho
phép đa thê.
Mặc dù
giáo lý Hồi giáo cho phép tín đồ kết hôn nhiều hơn một vợ, nhiều người Hồi, như
là những công dân quan trọng và giáo lý của họ có những ảnh hưởng trực tiếp đến
việc cho phép thực hiện đa thê, cũng đang đấu tranh về điều này. Dựa trên giáo
lý được trình bày trong Surah An-Nisa, một số người Hồi cho rằng có tối đa bốn
vợ với cam kết đối xử công bằng với tất cả các bà vợ, về vật lý cũng như tâm lý,
là được phép. Những người ủng hộ đa thê nói rằng đó là cách
tốt nhất làm giảm tình trạng ngoại tình và để giúp phụ nữ có đời sống tốt hơn.
Họ cũng nói rằng theo
thống kê, nữ giới đông hơn nam giới và rõ ràng họ gặp khó khăn trong việc tìm
chồng. Ủng hộ chế độ đa thê, một người đàn ông có nhiều vợ tên là Puspo
Wardoyo, chủ nhà hàng “Wong Solo” ở Trung Java đang xúc tiến “giải thưởng đa
thê”. Giải thưởng này được trao cho một người đàn ông
thực hiện đa thê thành công. Tuy nhiên, sau khi đọc Hadiths, một số người Hồi đã có quan điểm
khác, nói rằng không thể thực hành đa thê. Ở trong Hadiths, kể lại câu
chuyện khi Ali bin Thalib, người đã kết hôn với con gái của nhà Tiên tri Muhamad
là Fatimah, xin phép nhà Tiên tri được kết hôn với một phụ nữ khác và nhà Tiên
tri không cho phép làm điều đó bởi vì nó sẽ làm tổn hại Fatimah.
Điều này là bằng chứng rằng không nên thực hiện đa thê. Giải thích tại sao nhà tiên tri Muhamad có chín vợ, nhóm này nói
rằng nhà Tiên tri thực hiện đa thê bởi vì tình huống xã hội tại thời điểm đó,
khi có nhiều goá phụ cần sự giúp đỡ của ngài. Do đó, việc có nhiều vợ của
ngài là vì tình thương đối với các goá phụ. Phản bác chế độ đa
thê, nhóm này kết luận rằng chế độ đa thê gây áp lực tâm lý lên nữ giới.
Mặc dù một người đàn ông có những hiểu biết tôn giáo sâu rộng và có
thu nhập kinh tế tốt, cuối cùng vẫn có những vấn đề với các bà vợ vì
những lý do tâm lý. A.A. Gymnastiar, một nhà thuyết giáo Hồi giáo nỗi tiếng đã
phải ly dị vợ cả của mình là một ví dụ thực tế về điều này.
Kết hôn
và đa thê: Một quan điểm Phật giáo
Về đời
sống hôn nhân, là những công dân Indonesia, các Phật tử cũng tuân thủ luật hôn
nhân do chính phủ quy định. Nam Phật tử có thể kết hôn
nhiều hơn một vợ và do đó, nữ Phật tử luôn ở trong tình trạng có thể chịu cảnh
chồng chung bất cứ lúc nào. Thường, những nam Phật tử thực hành chế độ đa thê kết hôn với người
vợ thứ hai dựa trên phong tục Hồi giáo. Vì vậy, những gì họ đã làm là
thay đổi tình trạng tôn giáo của họ ở trên thẻ căn cước, và sau đó thực hiện
việc hôn nhân lần hai hay lần ba theo
thể thức Hồi giáo. Đó là bởi vì trong Hồi giáo có “nikah siri” (cách kết hôn
không chính thức của người Hồi), một sự kết hôn hợp pháp theo luật Hồi giáo mà không cần phải đăng ký với chính quyền.
Loại kết hôn này chỉ cần một vài người làm chứng, sự cho phép của chính quyền
làng, sự chấp thuận của ba mẹ và sự cho phép của tu sĩ Hồi giáo.
Chính quyền luôn im lặng nhìn loại kết hôn này khi nó được cho phép trong tôn
giáo đa số. Nhưng nikah siri gây tranh cãi gần đây bởi
vì những đứa trẻ của loại hôn nhân này sẽ khó có được giấy khai sinh và những bà
vợ không được đảm bảo về lợi ích kinh tế của họ.
Trong
Tam tạng không có những luật lệ cụ thể ngăn cấm đa thê. Và, như có
thể nhìn thấy từ những bản kinh Phật, có nhiều đệ tử của đức Phật thực hiện đa
thê, chẳng hạn như vua Pasenadi của Kosala và vua Bimbisāra.
Chánh phi của vua Bimbisāra là Kosaladevī, và những người vợ khác của ông là
Khemā, kỷ nữ Padumavatī và Ambapāli. Dựa vào những sự
việc này, câu hỏi được đặt ra là “có phải đức Phật đồng ý chế độ đa thê?
Nếu đức Phật không đồng ý, tại sao Ngài không dạy họ sống đời sống hôn nhân một
vợ một chồng?”
Những
câu hỏi này phải được trả lời từ bối cảnh lịch sử xã hội.
Trước hết cần nên lưu ý rằng, những vị vua này đã có nhiều vợ trước khi gặp đức
Phật. Vua Bimbisāra, người kém đức Phật năm tuổi, hẳn đã kết hôn trước khi ẩn sĩ
Gotama đạt giác ngộ. Do đó, đức Phật không thể bảo họ một cách đột ngột rằng có
nhiều vợ là không tốt và do đó họ nên li dị các bà vợ và chỉ sống với một người
duy nhất. Thứ hai, phải ghi nhớ rằng Phật giáo là tôn giáo xem hôn nhân là
chuyện thế tục; do đó hôn nhân không được quy định một cách rõ ràng trong Tam
tạng. Không giống như Hồi giáo và các tôn giáo Araham mà chúng dạy rằng hôn nhân
là một bổn phận, theo quan điểm Phật giáo, hôn nhân là một chọn lựa cá nhân.
Hôn nhân không bị cấm nhưng cũng không được khuyến khích. Các Phật tử có
tự do chọn lựa là nên kết hôn hay không bởi vì không kết hôn không phải là một
tội lỗi.
Những gì
là bản chất thật của hôn nhân từ cái nhìn Phật giáo? Kinh Agaññā (Trường Bộ) đưa ra một vài gợi ý
cho vấn đề này.
Những gì có thể nhìn thấy từ bản kinh này là rằng, hôn nhân bị
tác động mạnh bởi dục vọng. Tuy nhiên, nó không có
nghĩa rằng Phật giáo hoàn toàn xem hôn nhân như chỉ là việc hợp pháp hoá mối
quan hệ vợ chồng.
Trong
kinh Mahāvacchagotta (Trung Bộ), đức Phật dạy rằng người cư sĩ cũng có thể chứng
đạt Niết-bàn. Đây là nguyên tắc quan trọng
nên được hiểu bởi vì giác ngộ không chỉ dành riêng cho giới tăng lữ mà những
người tại gia cũng có thể đạt được. Như có thể nhìn thấy trong
các bản kinh Phật, có nhiều cư sĩ đã chứng đắc quả vị chẳng hạn như Anāgāmī Ugga
và Anāgāmī Matthaka Alavaka. Visākhā và Aṇathapiṇḍika, hai vị đại thí chủ của
đức Phật, đã chứng được Dự lưu là một ví dụ khác.
Các cư
sĩ đạt lấy những giai đoạn thanh tịnh bằng cách nào? Đó là bằng cách cân bằng việc
phát triển đời sống thế tục và đời sống tâm linh. Việc thực
hành Bát Chánh Đạo, tức là tu tập giới, phát triển định tâm và trí tuệ phải là
con đường sống. Ba điều này nên được thực hành đồng
thời.
Để bắt đầu tu tập giới, đức Phật đã khuyên người cư sĩ thọ trì
các giới hoặc là năm giới trong đời sống hằng ngày hoặc là tám giới vào các ngày
Trai. Vào ngày Trai, các cư sĩ được khuyên là nên thực
hành đời sống “tịnh hạnh”. Nếu trong trường hợp người
ta thấy khó khăn trong việc thực hành đời sống “tịnh hạnh”, họ không nên có quan
hệ với chồng vợ của người khác. Ý nghĩa của việc thực
hành đời sống “tịnh hạnh” là gì? Mục đích của việc tu tập này là để rèn
luyện người cư sĩ giảm bớt sự say đắm nhục dục (kamacchanda) mà nó là một trong
năm điều chướng ngại. Đó là bởi, mỗi khi kamacchanga hiện
diện, định sẽ không đạt được và tuệ sẽ không có mặt. Do đó, người ta bị
cuốn vào trong vòng luân hồi và xa rời Niết-bàn. Dựa trên lời dạy này, những gì
có thể được tóm tắt là, đời sống đa thê sẽ có nhiều rủi ro và có những khó khăn
trong việc tu tập đời sống “tịnh hạnh” và giảm thiểu sự chấp thủ vào những thú
vui nhục dục. Không chỉ gia tăng nguy cơ là bị xiềng chặt trong nhục dục, đa thê
cũng tạo thêm sự ràng buộc gia đình, điều tạo nên chướng ngại cho việc thực hành
thiền định. Minh hoạ rõ nhất là sự giải thích trong kinh Piyajātika mà ở đó
những người thân yêu trong gia đình là đầu mối của lo âu và sẽ mang đến sự thất
vọng và ta thán nếu sự chia cách xảy ra. Do đó, có thể nói rằng đa thê
tạo khả năng thêm cho việc kéo dài đời sống luân hồi.
Xem xét
những sự việc ở trên, nữ Phật tử nên giải quyết vấn đề đa thê như thế nào trong
việc duy trì đời sống gia đình của mình? Trước hết và quan trọng nhất, phụ nữ phải tự
trao cho mình khả năng quản lý gia đình như có thể nhìn thấy trong kinh
Sigalovāda. Thứ nữa, là bằng việc xây dựng sự truyền
thông tốt với người chồng để cả hai có niềm tin (saddha), có đạo đức (sīla), sự
rộng lượng (cāga) và trí tuệ (paññā).
Do đó, phụ nữ như là phần không thể thiếu của gia đình nên mang môi trường tôn
giáo đến với gia đình để làm cho gia đình gần gũi với
Pháp (dhamma); bằng việc khuyến khích tất cả các thành viên gia đình thực hành
giới, đào luyện tâm để phát triển trí tuệ. Visākhā là tấm gương tốt nhất về
người nữ Phật tử tại gia đã thành công trong việc đưa gia đình mình đến với con
đường Phật Pháp. Đó là tại sao, không thấy nhắc đến trong kinh điển việc chồng của bà
là Paññāvadhana thực hiện đa thê. Bằng việc thấu hiểu Phật Pháp rõ ràng,
một gia đình sẽ có hạnh phúc thật sự khi chồng và vợ không nghĩ đến việc kết hôn
với người đàn ông hay phụ nữ khác, và biết cách hỗ trợ lẫn nhau để thoát khỏi
vòng luân hồi sanh tử./.
Kustiani
- Nguyên Hiệp dịch
Nguồn:
“Buddhist Women and Polygamy Issue in Indonesia”, trong Teaching Dhamma in
New Lands, Ayutthaya: Mahachulalongkornrajavidyalaya University 2012, trang
28-34.