(Vị Ni trưởng thánh hạnh và gương mẫu)
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Một buổi chiều tắt nắng,
trong một rừng cây sâm si rậm rịt, ngoại thành Vesāli, một vị Ni rất già, rắn
rỏi và xương kính như một cội lão mai mọc giữa triền đá tảng; bà chống cây gậy
trúc, vươn thân đứng thẳng dậy rồi dùng thần lực rảo mắt một vòng như luồng điện
quét. Cả khu rừng như chìm ngập trong giấc thiền đại định. Mấy trăm vị Thánh Ni
đều là đệ tử của bà đang thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả. Tuổi tác ai cũng đã
tuyết sương, đang xô dạt về bên góc trời chiều. Họ đã đi vào đạo lộ siêu thế khi
tóc còn liễu biếc thắm xanh và má còn hồng đào ửng đỏ. Rồi họ sống thong dong
như những đám mây trời, phiêu du từ phương này sang phương khác để tùy duyên hóa
độ chúng sanh. Riêng bà thì cũng không còn việc gì để làm trên cuộc đời này nữa,
mọi gánh nặng đã buông xuống, lâu lắm, khởi từ ngày thực hành theo lời giáo giới
tóm tắt nhưng khái quát của đức Tôn Sư.
Bà,
chính người ấy là Ni trưởng
Mahā Pajāpatī Gotamī, còn nhớ rõ như in lời vàng ngọc thuở nọ của Người Con Trai
Vĩ Đại thoảng giữa rừng cây im mát:
“- Này mẹ! Mục tiêu tối hậu của
phạm hạnh thật khó khăn để đạt được mà cũng thật dễ dàng để đạt được. Nói cách
khác, khó khăn khi nắm bắt được cái cốt lõi, cái tinh tủy; và dễ dàng khi biết
tước dần lớp vỏ ngoài, thớ vỏ trong hoặc nhiều lớp dát cây, bỏ thịt rồi róc
xương. Giáo pháp của Như Lai chỉ để dành cho bậc trí, người có con mắt sáng quắc,
nhìn xuyên thủng nhiều lớp si mê và vô minh. Tuy nhiên, chỉ cần nhận thức một
cách sáng suốt, tỉnh táo rằng: Bất cứ giáo lý nào có khuynh hướng dẫn đến tham
lam, khát vọng; dẫn đến cống cao, ngã mạn; dẫn đến phóng túng, giải đãi; dẫn đến
nhiệt não, rối loạn; dẫn đến vô chừng mực, vô tiết độ; dẫn đến vô ơn, phản phúc;
dẫn đến keo kiệt, bủn xỉn; dẫn đến đắm nhiễm phồn hoa, lấm lem bụi tục; dẫn đến
kiểu cách, khó nuôi; dẫn đến ích kỷ, vị ngã; dẫn đến đau khổ, phiền não... thì
giáo lý ấy không phải là Chánh pháp (Dhamma),
không phải là Giới luật (Vinaya), không phải là lời giáo huấn của Như Lai. Ngược
lại, bất cứ giáo lý nào dẫn đến vô tham, nguội tắt khát vọng; dẫn đến lòng tôn
kính, biết tự trọng; dẫn đến lễ độ, khiêm cung; dẫn đến kiểm thúc, tự chế; dẫn
đến quân bình, ổn định; dẫn đến tri túc, biết đủ; dẫn đến tri ân, biết đền ân;
dẫn đến rộng rãi, xả ly; dẫn đến ưa thích vắng lặng, tiết độ ngũ dục; dẫn đến dị
giản, dễ nuôi; dẫn đến xả kỷ, vị tha; dẫn đến xa rời phiền não, an vui và nhàn
thoát... thì phải hiểu rằng, giáo lý ấy là Chánh pháp, là Giới luật, là lời giáo
huấn của Như Lai!”
Ôi! Chỉ cần lời dạy khái quát kia thôi mà ta đã đắc quả A-la-hán sau đó
ít lâu, lại còn có những thắng trí và cả tri kiến phân tích nữa. Ta đã vô ngại,
tự tại giữa hai bờ!
Ôi! Từ bấy đến nay, bao nhiêu lượng nước đã trôi qua con suối này rồi?
Bao nhiêu mưa nắng đã xối lên cái thân hình mảnh khảnh lau cỏ gầy guộc này rồi?
Quả là ta cũng đã mòn mỏi tuế sương, và ta cũng đã tự gẫm, tự cười, tự chế nhạo
chính mình:
“- Dốc đứng ngạo đường lên
Ta bèn men triền núi
Gậy chống đỡ chân run
Mặc chiếc thân già khọm
Mây khói nhòa trăm tuổi
Thần chết trốn đâu rồi
Lũ ma cũng chê mồi
Đành sống dai hết biết!”
Mấy câu kệ tự phúng, tự trào ấy là của lệnh bà Mahā Pajāpatī, là bảo mẫu
của đấng Thiên Nhân Sư, là Ni trưởng Gotamī đạo cao đức trọng; lúc ấy bà đã một
trăm hai mươi tuổi.
“- Thôi! Ta hãy Niết-bàn đi thôi!
Bà tự nghĩ - Ta phải đi trước đấng Đại
Hùng. Ta phải đi trước hai vị Tối Thượng Thinh Văn, trước Ānanda và Nanda là
phải lẽ. Và ta phải cần thưa bạch với đức Tôn Sư về quyết định nầy!”
Có cái gì lao xao trong gió. Đồng một lúc mấy trăm vị Thánh Ni trong khu
rừng đều đọc được ý nghĩ ấy. Họ đều muốn đi theo Ni trưởng để an nghỉ Niết-bàn
vô dư. Quả địa cầu dày bốn mươi do-tuần chợt rung rinh. Dường như có tiếng trống
u trầm từ cõi trời vang lên, có cái gì như vừa quyến luyến vừa bi lụy. Những
giọt nước mắt đâu đó từ hư không rơi xuống. Chư thiên, thọ thần quanh Ni viện,
quanh khu rừng đều âu sầu, buồn bã. Nếu chư vị Thánh Ni đều cùng Niết-bàn cả thì
khu rừng này sẽ trở nên hoang vu, trống trải. Những năng lượng mát mẻ và an lành
cũng không còn tỏa ra trong không gian tịch lặng này nữa. Có vị đã khóc, đã sụt
sùi.
Ngước lên giữa thinh không, bà nói nho nhỏ:
“- Xin hãy thông cảm cho ta! Hỡi
chư thiên và thọ thần quý mến!
Đây là cái nhìn cuối cùng và lời
nói cuối cùng của ta đó. Đừng nên sầu muộn làm gì. Chúng rỗng không và phù phiếm
thế nào. Tại sao vậy? Tại vì ta từ nơi cái già và chết để đi đến nơi không già,
không chết. Từ nơi ‘yêu thương xa lìa khổ’, ‘gần người mình ghét khổ’, ‘muốn
không được khổ’ để đến nơi chẫm dứt tất cả khổ! Từ nơi lăng xăng tạo tác, luôn
luôn trở thành, luôn luôn bị điều kiện, bị phụ thuộc, bị quy định, bị buộc ràng
của thời gian sinh tử để đi đến nơi bất động hành, bất tử, vô vi hành, ở ngoài
mọi quy luật, mọi điều kiện và mọi phạm trù nhân quả. Như thế thì các vị phải
vui lên cùng ta mới phải chứ!?”
Thế rồi, hôm sau, trời vừa rạng sáng, Ni trưởng Gotamī cùng với hội
chúng Thánh Ni trước khi bái biệt đức Tôn Sư để Niết-bàn, họ ôm bát khất thực
quanh thành Vesāli như thường lệ. Có lẽ chư thiên, thọ thần báo tin cho họ hàng,
thân nhân hay quyến thuộc thế nào đó mà rất đông cận sự nữ đã chận đường và quỳ
lạy, khóc lóc như tế sao:
- Xin chớ lìa bỏ chúng con, hỡi chư Thánh Ni! Hỡi những bậc đã thủ đắc
một gia sản tâm linh vĩ đại! Chúng con sẽ không có người bảo hộ và che chở nữa.
Xin chư Thánh Ni đừng vội Niết-bàn!
Ni trưởng Gotamī cất lời an ủi mà giọng nói thì như bi hài, như chế
nhạo:
- Này! Buồn cười chưa? Thật đã buồn cười chưa? Than khóc như vậy có phù
phiếm và vô duyên không hả?
Ta đi đến nơi vô thương, vô bi, vô sầu, vô khổ mà các người lại lấy
thương, bi, sầu, khổ để cản ngăn là tại làm sao hở? Vậy thì các ngươi từ lâu đã
từng tu tập giáo pháp thấy khổ và diệt khổ đến đâu rồi? Ta là ai nào? Ta chỉ là
người đã thấy rõ sự khổ một cách toàn diện, thấy nguyên nhân khổ một cách toàn
diện, đã diệt khổ một cách toàn diện và thực hiện con đường đi đến nơi diệt khổ
cũng một cách toàn diện. Thế thôi! Đấy không là lợi ích thù thắng đáng hoan hỷ
cho ta hay sao, hả?
Đám đông vẫn không chịu giải tán. Sự khóc lóc ầm ĩ của họ làm náo loạn
cả con đường.
Ni trưởng đành phải thuyết giảng tiếp:
- Từ khi lìa khỏi điện ngọc, cung vàng với những công nương dòng dõi
Sakyā anh hùng với đôi chân trần lê thê rướm máu, xin đi theo đức Chánh Đẳng
Giác, ta đã học hiểu giáo pháp nhiệm mầu, đã thực hành giáo pháp ấy một cách
trọn vẹn. Hiện tại, mọi bổn phận đã làm xong, mọi gánh nặng trên vai đã được đặt
xuống, sự tái sanh trầm luân đã được liễu tri và mọi đau khổ phiền não đã được
bứng tận. Từ đấy, đời sống không gia đình đã cho ta sự khoảng khoát của hư
không, sự tự do của những cánh chim trời. Mục đích phạm hạnh đã được thiết lập
kiên cố, mà ở đấy, chẳng có gì trói buộc ta được nữa, dù cảnh người, cảnh trời,
ma vương, chư thiên vương hay phạm thiên vương. Vậy thì thử hỏi còn gì ở trần
gian ba cõi này có thể làm ta phải dính chân, lưu luyến? Niết-bàn vô dư ở tuổi
trăm hai mươi chẳng lẽ không hợp thời, không phải lúc hay sao?
Thôi! Đừng khóc than, đừng âu sầu, phiền muộn nữa. Đức Tôn Sư, ngôi Mặt
Trời của nhân loại còn kia! Nhị vị thượng thủ, hai ngôi sao sáng của giáo hội
còn đó! Và còn có cả hằng trăm hằng ngàn trưởng lão Tăng Ni trí tuệ như non, đức
hạnh như rừng, tha hồ mà gieo trồng ruộng phước, tha hồ được chở che và được
nương tựa. Suốt mấy mươi năm gióng trống pháp chuyển luân, đức Đại Hùng đã xua
vô minh và si mê đi về với bóng tối, đã đẩy ngoại đạo tà giáo đi đến chỗ diệt
vong. Hiện tại, ngọn cờ chánh pháp đã liệt liệt oanh oanh giương cao che mờ cả
đỉnh Sineru. Vậy thì các người hãy tinh cần đi theo lộ trình thoát khổ, con
đường tuần tự tìm kiếm hạnh phúc an vui cõi người, hạnh phúc an vui cõi trời và
hạnh phúc an vui siêu thế ở ngoài ba cõi phù du sinh diệt. Hãy chuẩn bị, sắm
sanh hành trang, tư lương để lên đường, xem mình đã có đầy đủ bố thí, trì giới,
tham thiền, đã đầy đủ tín, giới, văn, thí, tuệ hay chưa? Đấy mới là điều đáng
làm! Thôi, hãy xua tan phiền muộn đi! Ta và Ni chúng đi đến đức Đạo Sư đây.
Nói thế xong, Ni trưởng dẫn đầu chư Ni Thánh đệ
tử đến Sảnh Đường Năm Nóc Nhọn tại Mahāvana; tại đây, lúc này chư Tăng Ni và hai
hàng cận sự nam nữ rất đông, bà quỳ năm vóc sát đất đảnh lễ đức Thế Tôn rồi nói:
- Thưa đức Đại Giác! Con là mẹ của ngài,
người-mẹ-của-thế-gian-luân-thường-quy-ước.
Và bạch đức Tôn Sư Vô Thượng! Ngài lại là cha của con,
người-cha-ở-ngoài-và-ở-trên-mọi-quy-ước-dung-thường;
và con là đứa con được sanh ra trong giáo pháp vô tỷ. Rồi ngài lại còn ban cho
con niềm vui siêu thế, tức là hạnh phúc vô tạo tác ở ngoài mọi hạn lượng và mọi
hạn định nữa. Từ thuở nhỏ,
cái-thân-thể-xác-vật-chất
của ngài được trưởng dưỡng khôn lớn là bởi con, là do con bế bồng, chăm sóc,
nuôi dưỡng. Cũng tương tợ như vậy, cái-thân-tinh-thần-tâm-linh
của con lại được giáo pháp chăm sóc, nuôi dưỡng là bởi ngài, do ngài mà có. Nhờ
con, ngài uống giọt sữa trắng được tinh lọc từ huyết đỏ để tẩm bổ hình hài sinh
diệt vắn vỏi. Nhờ ngài, con uống được giọt sữa thanh tịnh được tinh lọc từ giáo
pháp để nuôi dưỡng tuệ mạng dài lâu, vô sinh bất tử.
Bạch đức Thiện Thệ! Trong việc chăm sóc, nuôi
dưỡng ngài từ thuở ấu thơ, ngài không có nợ nần gì cả, mà ngược lại, ngài đã ban
cho cha, cho mẹ những niềm vui hy hữu, lạ lùng. Cũng bởi niềm vui lạ lùng, hy
hữu ấy, cầu nguyện cho tất thảy những người mẹ trên trái đất này có được những
đứa con trai ưu tú và kỳ vĩ như thế.
Thưa đức Vô Thượng Điều Ngự Trượng Phu! Tất thảy những người mẹ trên thế
gian, dù là mẹ của một đức vua tối thượng nào chăng nữa cũng phải bị nhấp nhô
chìm nổi trong bể cả của hữu tồn sinh diệt. Và này, hỡi người con trai tối
thượng! Ngài đã ban cho mẹ chiếc bè vô vi, vô hành để vượt qua bể cả hữu tồn
sinh diệt ấy. Nó ở trên mọi tương đối và mọi tuyệt đối, ở ngoài ngôn và lời, ở
ngoài mọi ý niệm và mọi khái niệm.
Thưa đức Thiên Nhơn Sư! Đối với phụ nữ trên thế gian, danh xưng hoàng
thái hậu, “mẹ của đức vua”, dù cao
quý, dù họa hiếm nhưng không phải không dễ dàng có được; nhưng danh xưng
“mẹ của đức Phật” thì triệu triệu, tỷ
tỷ a-tăng-kỳ mới có được một người! Vậy mà con lại là người phụ nữ ấy! Đấy là
diễm phúc vô khả tỷ, vô khả đối, cùng tuyệt, tối hậu vậy. Và nhờ ngài, con đã
vinh hạnh đạt danh xưng tối thượng như thế đó.
Thưa đức Chánh Biến Tri! Mọi ước nguyện, hạnh nguyện, đại nguyện giờ con
đã tựu thành. Mọi hy cầu, sở cầu, pháp cầu dù nhỏ bé hay lớn lao, con đều đã
tròn đủ, phú túc, viên mãn. Bởi vậy, hôm nay, ngài hãy cho con được từ bỏ xác
thân bất tịnh, tế toái và nhiễm ô này để thị tịch Niết-bàn, an nghỉ vắng lặng vô
dư!
Bây giờ, xin ngài hãy duỗi ra hai bàn chân mềm dịu như hoa sen được tô
điểm bằng một ngàn căm bánh xe và một ngàn ngọn cờ chiến thắng. Xin ngài hãy làm
vậy để con được thể hiện sự tôn kính đến ngài với lòng yêu mến trân trọng đối
với người con trai cao quý của mình. Và cũng xin ngài thể hiện biểu tướng rõ
ràng thân thể tợ khối vàng ròng không lẫn tạp chất để cho con được chiêm ngưỡng
lần cuối cùng trước khi đi về miền an tịnh tuyệt đối.
Đức Phật trầm tịnh lắng nghe từ đầu chí cuối lời thưa bạch của
người-mẹ-thế-gian
không bỏ sót một lời một chữ nào. Sau đó, đức Đại Giác trú định kim cương, trở
lại cận hành, thân tỏa hào quang sáu màu chập chờn từng đôi một, với màu sắc
sáng dịu như vầng dương non trẻ hiện ra trong đám mây chiều. Lát sau, Ni trưởng
Gotamī thấy rõ ba hai quý tướng và tám mươi vẻ đẹp của đức Thiện Thệ...
Chẳng còn gì để yêu cầu nữa, Ni trưởng Gotamī đê đầu dưới lòng bàn chân
ngàn căm bánh xe, ngàn ngọn cờ chiến thắng của đấng Đại Hùng trông tợ đóa hoa
sen nở rộ có ánh sáng mặt trời buổi bình minh rọi đến. Bà nói:
- Con xin đảnh lễ đấng Mặt Trời của nhân loại, vị tiêu biểu của dòng dõi
Thái Dương! Đây là lần tử biệt cuối cùng của con, con sẽ không còn gặp lại ngài
một lần nào nữa.
Thưa đấng Cao Cả của thế gian! Hạng nữ nhân như chúng con sinh ra trong
thế gian, được tiếng là mẹ của thế gian, là nhân tố tồn tại của thế gian. Cũng
có thể họ là cái đẹp, là vẻ yêu kiều, dịu dàng, là bàn tay yêu thương, là trái
tim nhân ái, là vầng mặt trăng trong mọi gia đình, là bóng mát cho những đứa con
hư hỏng, là điểm tựa cho con cái nuôi chí hải hồ, là nơi hướng về của mọi kẻ ly
hương, là suối nguồn tinh khiết của tình mẹ bao la. Và cao cả nhất, họ là huyết
sữa nuôi sinh mệnh của nhân loại. Nhiều lắm! Nhiều lắm! Nhưng chính họ cũng là
ái dục tình lụy, là cơn khát nóng của địa ngục, là miếng mồi bốc lửa cháy của
ghen ghét, tật đố, tranh chấp và ly tán. Họ còn là cái gì phức nhiễu, tế toái.
Là nguồn cơn của mọi đau khổ và tội lỗi. Là lắm chuyện và đa sự. Là đóa hoa hồng
có lắm gai độc. Ôi! Cũng nhiều lắm và nhiều lắm của những cánh cửa đi xuống bốn
đường xấu ác! Thế đó. Trước đây con cũng chỉ là một phụ nữ trong thế gian, vậy
thì con đã lỡ lầm dù cố ý hay vô tình, đã có những xấu quấy, sai trái gì đó, vì
lòng bi mẫn, xin đức Tôn Sư hỷ xả cho con!
Kính thưa đức Thế Gian Giải! Trước đây con đã năm lần bảy lửa xin cho nữ
giới xuất gia; nếu bởi việc này mà giáo pháp bị giảm sút tồn tại năm ngàn năm là
lỗi của con, vậy xin ngài cho con được sám hối vì điều ấy nữa.
Và cuối cùng, kính thưa đức Ứng Cúng! Con đã giáo dục, dạy dỗ chư
tỳ-khưu-ni theo với sự cho phép của ngài cùng chư vị đại trưởng lão; tâm con có
chừng, tuệ con có hạn, nếu có sự kém cỏi, bất cập nào đó trên phương diện giáo
hóa ấy cũng xin ngài tha thứ trước khi con đi về miền an tịnh vô cấu, vô lậu...
Đức Phật bây giờ mới mở lời, như tiếng chim Ca-lăng-tần-già cất giọng
với thang âm vi diệu trên đỉnh Tuyết Sơn:
- Này Người-mẹ-thế-gian
vĩ đại! Này vị đại Ni trưởng đức hạnh như tấm gương trong! Bà đã lê bước bằng
bàn chân trần rớm máu từ cõi hữu hạn sinh diệt để đi đến cõi vô cùng vô sinh bất
tử thì có gì đáng nói nữa đâu. Bà đã tự trang bị cho mình những vật trang sức,
trang điểm thù thắng như hổ thẹn tội lỗi, ghê sợ tội lỗi, đức tin, tinh cần,
nhẫn nại, quyết tâm, từ, xả... thì có việc gì mà bảo lầm lỗi hay không lầm lỗi,
tha thứ hay không tha thứ? Bà đã bỏ xa bụi trần và ác uế ở dưới chân núi để bước
lên đỉnh đồi cao vô úy của giải thoát và tự do thì bận rộn làm chi mọi ngôn ngữ
quy ước thế tục kia nữa. Không những bà, không những hội chúng tỳ-khưu-ni mà cả
hội chúng tỳ-khưu Tăng thì cũng vậy. Nếu tất cả đều thanh tịnh không một chút
nhiễm ô thì ai cũng đang đi ra khỏi thế gian này, ví như vầng trăng ra đi lúc
rạng đông sau khi nhìn thấy sự biến mất dần dần của các vì thiên thể.
Bà và hội chúng Ni chúng hãy ra đi như vậy. Hãy an nhiên tự tại như vậy
mà đi vào Niết-bàn vắng lặng toàn diện, không có dư y!
Đức Phật nói xong, như ánh sáng lấp lánh vừa rời khỏi tòa kim cương thì
Ni trưởng Gotamī và Ni chúng đồng hướng vai phải nhiễu quanh kim thân Phật ba
vòng, trông giống như những vì sao vệ tinh theo gót mặt trăng di chuyển xung
quanh núi chúa Sineru. Sau đó, họ đồng quỳ xuống đê đầu sát bàn chân đức Chiến
Thắng Cao Cả một lượt nữa, đứng lên chiêm ngưỡng ngài một lượt nữa.
Tôn giả Ānanda chỉ mới là vị Thánh Nhập Lưu, còn nhiều phiền não, thấy
bà Gotamī chào bái biệt đức Phật để Niết-bàn, chưa làm chủ được cảm xúc trước
cảnh sinh ly tử biệt, ông than dài:
- Ôi! Người đi thật sao? Rồi đức Tôn Sư đến một lúc nào đó cũng tịch
diệt Niết-bàn như vậy ư? Ôi! Rồi tất cả ngọn lửa sự sống đều phải cạn ráo chất
đốt, và cái thân xác bốn đại, ai ai cũng chỉ còn là cát bụi hoặc tàn tro thê
thảm như thế hay sao?
Tôn giả Nanda là bậc Thánh vô lậu, đứng kế bên liền mở lời an ủi:
- Phải! Cái thân xác bị tạo tác, được kết hợp của tất cả chúng sanh
không có cái gì chắc thật trong đó cả. Nó không có cốt, không có tinh, không có
lõi tương tợ như thân cây chuối, na ná như củ hành. Bóc tách cho đến tận cùng
chỉ thấy trống rỗng mà thôi. Nó là hư vô, chẳng có gì ở đấy cả. Do xảo thuật, do
ảo ảnh của thợ nghiệp mà nó hiện hữu. Nó tụ rồi tan, nó có rồi không, nó sinh
rồi diệt cũng là lẽ thường thôi, này tôn huynh! Mẹ của tôi, dù là bà mẹ vĩ đại,
bà mẹ của bậc Chiến Thắng đại hùng cũng không ở ngoài các định luật hữu vi bất
toàn và trống không ấy.
Ni trưởng Gotamī cũng thấy cần phải nói với tôn giả Ānanda vài lời:
- Đúng như con trai ta đã nói, hỡi vị tỳ-khưu đa văn bác học mà dung
lượng sở tri còn thâm sâu và mênh mông hơn biển cả. Và đối với sự cẩn thận,
nhiệt tâm, tinh cần hầu hạ đức Đạo Sư cũng cao cả như núi chúa, trong giáo hội
không thể có người thứ hai được. Vậy đó! Thế thì ngay giây phút này, những học
hiểu vô lượng ấy, những công phu bất khả tư nghị ấy, con cất giữ nó ở đâu mà
không mang ra sử dụng, này con trai, này vị tôn giả khả kính?
Ta đi vào Niết-bàn tịch diệt là điều đáng mừng, đáng vui mới phải chứ?
Ta và Ni chúng, cả bây giờ và mai sau, được xuất gia trong giáo pháp tối thượng
này là nhờ vào ba lần cầu khẩn của con mà được, bởi tình cảm tốt đẹp của con mà
có! Công ơn ấy lớn lao như trời biển. Có cây lá rừng đại ngàn Mahāvana ghi chép.
Có mây lang thang nghìn năm trên bầu trời Vesāli ghi nhớ.
Này hỡi bậc hộ trì giáo pháp! Hãy tỉnh táo lại! Hãy hé lộ trí tuệ vô lậu
mà nhìn vào cõi bất tử không đến, không đi thử xem nào! Giờ khắc này, ta nhìn
vào tôn giả bằng tia mắt cuối cùng rồi đây, và sát-na này đã đi vào vĩnh cửu!
Đức Phật thấy sự trao đổi ấy là vừa đủ nên mở lời:
- Này bà mẹ vĩ đại! Này vị Ni trưởng đạo hạnh! Thời điểm cuối đã đến
rồi. Tất cả các “hữu”
đã được bứng tận. Tất thảy mọi phiền não đã bị nhổ tiệt. Mọi trói buộc đã bị cắt
đứt như con voi cái đã được cởi trói. Không còn một mảy may lậu hoặc vi tế nào
còn tồn tại. Mẹ là người đã thành tựu tam minh, có bốn tuệ phân tích, tám giải
thoát và sáu thắng trí. Bây giờ, trước khi an nghỉ Niết-bàn, mẹ hãy thị hiện một
chút năng lực thần thông cho chư tỳ-khưu Tăng Ni, hai hàng cận sự cũng như thọ
thần, chư thiên khắp núi rừng Mahāvana này cùng chiêm ngưỡng.
Được sự cho phép của đức Phật, Ni trưởng đảnh lễ ngài rồi tức khắc bay
lên không trung còn nhanh hơn con chim ưng vàng vỗ cánh. Đầu tiên bà biến hóa
một thân thành nhiều thân rồi nhập thành một. Hiện ra rồi biến mất. Đi xuyên qua
tường, qua núi. Ẩn trong đất. Đi trên nước như đi trên đất bằng. Ngồi kiết già
giữa hư không. Đến cõi phạm thiên. Làm cho trời đất mù mịt khói. Sáu mặt trời
mọc lên. Những tràng hoa rực lửa như vào thời hoại kiếp. Nắm trong tay những
ngọn núi và những tảng đá khổng lồ trông như mấy hạt cải. Ngón tay che khuất mặt
trời, mặt trăng. Bàn tay nắm một ngàn mặt trời, một ngàn mặt trăng. Biến hóa
thành đức Chuyển Luân Vương. Biến hóa thành hằng hà sa số tỳ-khưu-ni... rồi nhập
lại, hòa thành một.
Cả khu rừng người, vô số phi nhơn, chư thiên đồng chiêm ngưỡng đại thần
lực biến hóa của Ni trưởng, đăm đăm như không nháy mắt...
Lại biết là đúng thời nữa, đức Phật chợt tuyên dương:
- Ni trưởng Gotamī không những là người mẹ vĩ đại của Như Lai, không
những là vị Thánh Ni nhiều thần thông lực, mà còn là bầu sữa mẹ cho Ni giới,
chăm sóc Ni giới với tấm lòng bao dung, quảng đại, có kinh nghiệm đệ nhất trong
việc lãnh đạo Ni chúng!
Rồi ngài lại nói tiếp:
- Này người mẹ vĩ đại! Hãy kể lại lộ trình lâu xa cùng những nhân những
duyên tu tập của mình cho đại chúng cùng nghe.
- Thưa vâng!
Rồi bà kể:
- Vào thời đức Chánh Đẳng Giác Padumuttara, tôi được sanh ra tại Haṃsavatī
trong một gia đình quan cận thần, được thọ hưởng sung mãn tài sản cùng những
tiện nghi tối ưu trong đời sống.
Một lần nọ, tôi và nhóm thị nữ cùng tùy tùng đông đảo đến chiêm bái,
cúng dường, nghe pháp đức Phật Padumuttara. Nhân duyên tình cờ, là hôm ấy, đức
Đại Hùng đang cho thiết lập giáo hội Ni giới, và vị đứng đầu, lãnh đạo Ni giới
là tỳ-khưu-ni Mātucchā. Thấy vị thế của người nữ được bình đẳng xuất gia tu tập
như thế tôi đã rất hoan hỷ, bèn phát tâm cúng dường y áo, vật thực, thuốc trị
bệnh đến đức Phật cùng chư Tăng Ni trong suốt bảy ngày rất thịnh mãn, rất chu
đáo.
Đến ngày thứ bảy, tôi và thị nữ cùng tùy tùng nằm dài xuống đất, đảnh lễ
bàn chân bụi của đức Vô Thượng; và phát nguyện rằng, mai hậu sẽ có duyên báo,
quả báo giống y như tỳ-khưu-ni Mātucchā, xin bậc Đại Chiến Thắng chứng minh.
Đức Phật mỉm nụ hoa sen, cất tiếng:
- Con đã cúng dường hỹ mãn bảy ngày đến Như Lai và hội chúng với tín tâm
rất tròn đầy và trong sạch. Vậy thì con sẽ được như ý sở cầu!
Hãy nghe Như Lai nói đây.
Vào một trăm ngàn đại kiếp về sau, có vị Thế Tôn xuất thân dòng dõi
Okkāka, đức đại sĩ Gotama sẽ có mặt ở thế gian, khai sáng một giáo pháp chánh
thống y như chư Phật ngàn xưa. Lúc ấy, con, là Mahā Pajāpatī Gotamī, chính là bà
mẹ thứ hai chăm sóc, nuôi dưỡng vị ấy thuở còn ấu thơ. Và con cũng chính là
người nữ đầu tiên thừa tự giáo pháp ấy, đạt vị thế hạng nhất trong số những
tỳ-khưu-ni kỳ cựu.
Khi dấu ấn bất tử đã được đức Ứng Cúng khắc lên trán như thế, tâm tôi,
sau đó dường như chỉ nghĩ đến giáo pháp. Tôi, các thị nữ và tùy tùng đã cúng
dường, hộ độ đức Phật và giáo hội cho đến hết cuộc đời còn lại. Mệnh chung, tôi
được hóa sanh cõi trời Đao Lợi, được thọ hưởng hỷ mãn thiên sắc, thiên hương,
thiên vị, kể cả tuổi thọ, sắc đẹp, an lạc và danh tiếng đều vượt trội chư thiên
nữ cùng cảnh giới nên Đế Thích thiên chủ chọn tôi làm thiên hậu.
Do một nghiệp xấu ác từ quá khứ trả quả, hưởng hết phước ở cõi trời, tôi
sanh xuống cõi người, rơi vào một gia đình lao động chân tay thuộc quốc độ của
đức vua nước Kāsi. Tại một ngôi làng nô lệ có năm trăm gia đình, người ta bầu
một vị lãnh đạo, như là làm thôn trưởng, và tôi là phu nhân của vị ấy.
Hôm kia, có năm trăm vị Độc Giác Phật đi từ Nandamūlaka tới Isipatana để
khất thực. Tất thảy chúng tôi cùng quyến thuộc đều vui mừng mời thỉnh luôn hội
chúng ấy an cư mùa mưa, năm trăm gia đình làm năm trăm cốc lá rồi hộ độ tứ sự
suốt bốn tháng, dâng cúng đầy đủ mỗi vị ba y, ai ai cũng hoan hỷ. Sau kiếp ấy,
tôi được tái sanh trong một gia đình thợ dệt cũng tại thành phố Bārāṇasī, lớn lên, nhân
duyên lại được gặp năm trăm vị Độc Giác Phật (con bà Padumavatī)
nên lại được dịp cúng dường vật thực.
Từ bỏ cõi người, do nghiệp lành tốt ấy, tôi được chu du tái sanh nhiều
cõi người và trời. Rồi kiếp cuối cùng hiện nay là thành phố Devadaha, nước
Koliya. Cha của tôi là Añjana thuộc dòng Sakyā, mẹ của tôi là hoàng
hậu Sulakkhaṇā;
và sau đó tôi được làm hoàng phi của đức vua Suddhodana, thành phố Kapilavatthu.
Những người còn lại, tùy tùng và quyến thuộc kiếp trước thì được sanh trong
hoàng tộc Sakyā hoặc phu nhân, thân quyến của họ. Tôi là người ưu việt nhất, do
lời nguyện dưới chân đức Phật Padumuttara nên được làm bảo mẫu của đấng Chiến
Thắng. Người con trai tuấn tú được tôi chăm sóc và nuôi dưỡng ấy ra đi và trở
thành đức Chánh Đẳng Giác, bậc Hướng Đạo vô song. Tôi và năm trăm công nương
dòng Sakyā đều đã xuất gia và đều đã chạm tay vào cánh cửa an lạc của Niết-bàn.
Cả chồng và con của họ từ nhiều kiếp trước cũng đạt được phẩm vị A-la-hán tối
thượng đều nhau cả thảy.
Sau câu chuyện kể của Ni trưởng Gotamī, tất thảy Thánh Ni cũng sử dụng
thần thông, bay lên không trung và tuần tự thể hiện một số năng lực; và cuối
cùng lại phủ phục bên chân đức Đại Giác, xin phép được Niết-bàn giống như Ni
trưởng của họ.
Ni trưởng và hội chúng Thánh Ni sau đó trở về Ni viện, bỏ ngoài tai mọi
sự than khóc sầu muộn của những cận sự nữ, họ yên lặng tìm chỗ tịch diệt
Niết-bàn. Lúc ấy, trái đất rung động. Tiếng trống trời vang lên và mưa hoa rơi
xuống. Thọ thần, chư thiên, long vương, a-tu-la và cả cõi phạm thiên đều rúng
động, bồi hồi...
Đức Phật hay biết rõ việc ấy nên ngài nói với Ānanda và Nanda:
- Hãy thông báo rộng rãi đến hai hội chúng Tăng Ni, hai hàng cận sự nam
nữ trong kinh thành Vesāli và vùng phụ cận về sự Niết-bàn của mẹ và các công
nương Thánh Ni.
Thế rồi, lễ hỏa táng thi hài của Ni trưởng Gotamī và hội chúng Thánh Ni
diễn ra vô cùng huy hoàng và trân trọng. Những viên xá-lợi đã được thu nhặt và
những bảo tháp thờ cũng được dựng lên để ngàn sau chư thiên và nhân loại chiêm
bái, cung kính, cúng dường.
Những tinh cầu thưa thớt và lạnh giá.
Những ngôi sao
sáng đã rụng giữa trời cao.