Hai hiện tượng bất thường cần phải báo động rộng rãi

hai hien tuong

 

 

 

Trong thời gian gần đây có hai hiện tượng được đài báo và nhiêu tạp chí truyền thông... Một là “hiện tượng thơ Thiền non thiêng Yên Tử” của ông Hoàng Quang Thuận, và hai là hiện tượng “đạo sư” Duy Tuệ lập nhiều câu lạc bộ, nhóm, hội “ Thiền Minh Triết Trần Nhân Tông” trong và ngoài nước.

Hiện tượng nào cũng như sóng nổi ầm ào... và đúng sai, phải trái, chân ngụy - mọi người cũng đang bàn cãi, tranh luận...

Nhận thấy cả hai hiện tượng đều liên hệ đến vua Trần Nhân Tông, sơ tổ Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Cả hai đều mượn danh nghĩa ngài. Một người làm thơ về Yên Tử, rồi cổ súy, ca ngợi trở thành “Thơ thiền non thiêng Yên Tử” để dự giải Nobel văn học! Một người lấy luôn tên hội của mình là “Thiền Minh Triết Trần Nhân Tông” để rao giảng “xuyên quốc gia” có nhiều tổ chức “nâng” và “đỡ”.

Nhận thấy đây là mối nguy hại cho Phật giáo nói chung và non thiêng Yên Tử, Hương Vân đầu đà nói riêng - nên tôi, là một tu sĩ, do có nghiên cứu thơ Thiền, và Thiền của đại sĩ nên tôi muốn đóng góp một tiếng nói chính quy từ cửa Thiền, cửa Phật không phân biệt Bắc Nam cùng mọi tông hệ trên toàn thế giới - hầu cùng chư vị thức giả, trí giả suy ngẫm để biết đâu là cái thực và đâu là cái giả, đâu là cái chánh, đâu là cái tà.

Dĩ nhiên, hai bài viết của tôi phải bám tựa vững chắc trên mảnh đất Phật học và Thiền học mang tinh yếu, cốt lõi nền tảng chung của giáo pháp.

Trân trọng.

 


 

 

      Bài thứ nhất:

 

Hiện tượng “thơ thiền” của Hoàng Quang Thuận

Hoa Tàn, Mưa Tạnh,

Non Yên Lặng...

 

Hiện tượng thiên tài thơ, siêu việt thơ, thần thánh thơ... của GSTS Hoàng Quang Thuận - Viện trưởng Viện Công nghệ Viễn thông Việt Nam - qua hai tập “Thi vân Yên Tử”“Ngọa Vân Yên Tử” mà hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức hội thảo với những bài tụng ca vi vút tận trời xanh, xem như “dòng thơ Thiền non thiêng Yên Tử” và người ta đã gởi đi dự giải Nobel văn học, người ta đã tặng cho đất Phật Yên Tử cuốn sách độc bản với kích thước 125cm x 80cm x 16cm nặng 120 ký đạt kỷ lục châu Á; lại nghe tin hành lang là người còn dự định cho khắc chạm “thơ Thiền này” khắp núi non Yên Tử nữa!

Hiện tượng ấy như là một cái gì cần phải “chau mày suy nghĩ” đối với nền văn học nước nhà, nhất là văn học Phật giáo. Người ta muốn quảng cáo như thế nào, đạt được kỳ vọng gì là quyền của người ta, nhưng ca tụng thái quá hai tập thơ ấy như là “thơ Thiền non thiêng Yên Tử” là một cái gì thiếu nghiêm túc, thiếu cẩn trọng cần phải được báo động:

- Thơ của Hoàng Quang Thuận có phải là “thơ thiền”  hay không?

- Một người Phật tử hay là một người mộ Phật, cảm xúc về Yên Tử có thể làm được “thơ thiền” chăng?

- Thơ “nhập đồng” hay là kiểu mượn bút viện cớ là của tiền nhân có phải là tinh thần Phật giáo không?

- Làm thơ mà “đạo văn” của người khác - dù bạn bè đã gắng gượng đính chính chỉ là “mượn văn” - cái tâm ấy có thể sáng tác ra “thơ thiền” được chăng?

Hỏi, dường như đã có câu trả lời. Một người Phật tử bình thường cũng cảm nhận, cũng ý thức được đấy là chuyện “không thể”. Thế nhưng, tại sao, thiên hạ chẳng thấy đó là chuyện “không thể”, lại làm một trò đùa hơi quá đáng để “tụng ca, tán thán ca” bằng một bè hợp xướng, một giàn đồng ca ”tươi vui xôm trò” như thế?

Cái hiện tượng thơ Thiền ấy tạo nên một cao trào “rôm rả” mà ta có thể tóm lược như sau:

- Hai tập thơ đã được in và tái bản bốn lần bằng tiếng Việt và cùng ba thứ chữ Việt-Pháp-Anh với số lượng in lên đến 25.000 bản. Và người ta đã làm đầy đủ hồ sơ hai tập thơ và dịch ra tiếng Anh gửi tham dự giải Nobel văn học.

- Có một vị giáo sư mê say ngồi dịch nó mặc dù tuổi cao sức yếu vì không thể cưỡng lại “chất Thiền” ở trong đó.

- Có một ngài nguyên Tổng giám đốc đài nghe nhìn, đọc thơ của ông Thuận đã cảm hứng thốt lên bằng một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt tuy không đúng niêm luật, lại tán thơm: Tôi tưởng theo anh thăm Yên Tử/ Nào ngờ lạc bước chốn thi vân/ Hoàng Quang cửa Phật soi câu chữ/ Thuận dòng rửa sạch chốn bụi trần”.

- Đến nay hiện đã có hàng chục tờ báo ở trung ương và địa phương, từ báo Nhân Dân, Hà Nội mới, Sài Gòn Giải phóng đến các báo Hạ Long, Quảng Ninh, Thể thao - Văn hóa... đều đã có bài đăng tải về “hiện tượng thơ Hoàng Quang Thuận. Thậm chí có người “cho lên mây xanh” nhưng dựa trên nền thực trạng bát nháo thơ Việt hôm nay: “Giữa thời buổi thơ in ra nhan nhản, chủ yếu xoay quanh đề tài tình yêu hoặc co vào suy tưởng chiêm nghiệm cá nhân, đôi khi rối mù tắc tị… thì  Thi vân Yên Tử” Ngọa Vân Yên Tử như một áng mây lành, thoát tục, trong trẻo đến lạ lùng dắt người đọc vào chốn Bồng Lai, rũ bỏ bụi trần trở về với bản ngã thiện tâm trong mỗi con người...”

- Tập thơ đã có tiếng vang thật là “quốc tế”, có lẽ do không tiếc công quảng cáo, tiếp thị, “ưu thế quan hệ” và cả cái gì đó khó hiểu nữa - đến đổi Tổng Thống Pháp đã khen ngợi, Tổng Thống Mỹ gởi lời cảm ơn và hoàng cung Thụy Điển đánh giá là cao siêu và sâu sắc!

- Trước sự động viên cổ vũ của “giàn đồng ca”, ông Thuận đã tự mình - hay ai đó xúi giục - gửi hai tập thơ ấy đi tham dự giải Nobel văn học; và có người còn đẩy “giá trị thơ thiền” ấy đi quá xa, rằng là: “Được giải hay không chẳng quan trọng bằng việc hai tập thơ đã là sách gối đầu giường của nhiều bạn đọc hôm nay và mai sau, đặc biệt đối với những ai yêu thích dòng thơ Thiềnvới những trải nghiệm tâm linh cực kỳ thú vị”.

Còn nữa, chúng ta còn có duyên may mắn ngàn năm một thuở được nghe khúc hòa tấu vang vọng lên tận non thiêng Yên Tử, nó động đến, làm giật mình những hồn thơ cổ xưa, cổ kính của sơ tổ Trúc Lâm, tam tổ Huyền Quang và cả Nguyễn Trãi, Nguyễn Trung Ngạn nữa...

Để có thêm tư liệu dẫn chứng, tôi xin nhắc đến bài “Thi vân Yên Tử - tác phẩm và dư luận” của GD&TĐ Online đã đúc kết đại lược là: Sau hội thảo “Hoàng Quang Thuận với Non thiêng Yên Tử” do Tạp chí Nhà văn - Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ngày 8/8/2012, có rất đông người yêu thơ phản hồi bày tỏ tình cảm quan tâm, trân trọng những vần thơ đẹp lạ, rất thanh khiết mà dung dị mang đậm chất Thiền. Đại diện cho Hội Nhà văn, ông Hữu Thỉnh nói rằng: “Thơ anh - Hoàng Quang Thuận - là một bức tranh tôn giáo trầm mặc mà sống động, thanh khiết mà run rẩy!”

Những ai quan tâm đến nội dung buổi hội thảo mà GD&TĐ đề cập để biết cái “thanh khiết mà run rẩy” của Hữu Thỉnh muốn nói là cái gì - thì có thể đọc bài của ông:  Một hồn thơ sau những bức tranh tôn giáo”. Tiếp theo, những ai muốn nghe những “vần thơ đẹp lạ, rất thanh khiết mà dung dị mang đậm chất Thiền” ấy ra sao thì cứ nhờ chú Google dẫn đường để xem thêm một số bài khác:

- Lạc đạo tùy duyên cùng Thi Vân Yên Tử (Đỗ Ngọc Yên). Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử (Hữu Việt). Cảm hứng thiền trong thơ Hoàng Quang Thuận (Ngô Hương Giang). Dấu tích vua Phật Trần Nhân Tông ở Yên Tử trong lòng thi nhân (Đặng Hiến). Vẻ đẹp cõi Phật trong Thi Vân Yên Tử của Hoàng Quang Thuận (Nguyễn Toàn Thắng). Cảm thức tâm linh trong thơ Hoàng Quang Thuận (Dương Kỳ Anh). Thiền vị trong Thi vân  Yên Tử  của Hoàng Quang Thuận (Trần Thị Thanh). Về Yên Tử đọc thơ Hoàng Quang Thuận (Đăng Lan). Cảnh vật trong cảm thức thiền tông (Phạm Quang Trung). Không gian “Thiền” trong Thi vân Yên Tử (TS. Hà Ngọc Hòa). Yên Tử qua thơ Hoàng Quang Thuận (Thu Phong). Chữ tâm trong Thi Vân Yên Tử (Mộc Lan). GS. Hoàng Quang Thuận: "Tiền nhân mượn bút tôi viết thơ " (Dương Tử Thành). Có một nhà thơ danh sơn Yên Tử (Trần Nhuận Minh). Thi vân Yên Tử của Hoàng Quang Thuận - Một chân dung thơ -  Phật tính hiền truyền (Hoàng Trung Hiếu). Tình yêu đất nước và chất thiền Thi Vân Yên Tử (Thế Trung). Thi vân Yên Tử của tác giả Hoàng Quang Thuận như một hiện tượng văn học (PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn).

Tuy nhiên, có điều đáng mừng là không phải ai cũng chạy theo phong trào ca tụng ấy, quả thật đã có những người đã tỏ vẻ hoài nghi thiên tài thơ thiền ấy, họ đã biết đặt những vấn đề:

- Thi vân Yên Tử “nhập đồng” hay “đạo” thơ? (SGGP Online). Trong đó nhà văn Võ Thị Xuân Hòa: “Hội Nhà văn Việt Nam sẽ làm rõ nghi án ‘đạo’ thơ”. Còn nhà phê bình Nguyễn Hòa: “Liệu nó có đúng là thơ không và có đúng với những gì mà ông Thuận nói là thơ của tiền nhân không, vì theo đánh giá của tôi, đó chỉ là văn bản thơ hạng xoàng!”

- “Thi vân Yên Tử” của Hoàng Quang Thuận có phải là thơ nhập đồng? của luật sư Nguyễn Minh Tâm. Trong đó, người viết đã rất trung thực phân tích và chứng minh rõ, thơ ấy không phải là thơ nhập đồng, cũng không phải tiền nhân mượn bút - mà chính Hoàng Quang Thuận đã lấy ý từ quyển sách “Chùa Yên Tử, lịch sử - truyền thuyết, di tích và danh thắng” của tác giả Trần Trương để “biên soạn lại thành thơ”.

- “Hiện tượng thơ nhập đồng” hay là trò sao chép, lừa đảo? của Mai An đăng ở báo Dân Việt, trong đó tác giả nói trong ba đêm mà sáng tác 141 (sic) bài thơ và dự giải Nobel phải chăng là “giấc mơ quá cỡ”? Rồi Mai An trích câu nói của nhà thơ Trần Trương, hội Nhà văn VN: “Đây là một hành động lừa đảo...”

- Dấu hiệu đạo văn của “nhà thơ nhập đồng” - tác giả Nguyễn Việt Chiến đăng trong tạp chí Văn học và Ngôn ngữ.

- “Hiện tượng thơ nhập đồng”: Sớm làm rõ “nghi án” đạo văn; và “Ai tiếp tay cho nhà thơ nhập đồng Hoàng Quang Thuận dự giải Nobel” - Lê Tâm thực hiện. Trong đó tác giả bảo có nhiều người muốn biết ai viết giấy giới thiệu? Và nổi bật ý kiến: “Dự giải Nobel là một điều khôi hài”.

- Và mới đây là bài “Cái lưỡi... đa nhân cách và những phát ngôn” của Kỳ Duyên đăng tại Báo Mới.com - trong đó tác giả sau khi phê phán khá nặng nề ... và viết lơ lửng “Xấu chàng, hổ... Tạp chí Nhà văn”, đã nói là ông Thuận phải trả giá đắt cho sự nông nổi của mình chỉ vì hai chữ lợi danh tai quái; ông muốn đạt tới “ngộ” nhưng có lẽ tục lụy còn quá nhiều, tham, sân si còn quá lớn nên “ngộ nhận” chăng? 

Có lẽ liệt kê như thế cũng tạm đầy đủ. 

Đầu tiên, tôi xin góp ý một cách đúng đắn và khách quan rằng, cả hai tập thơ của Hoàng Quang Thuận là loại thờ tả cảnh, tự sự, cổ tích, sử tích, huyền thoại vào loại bình thường. Tôi nói là bình thường - chớ không dám nói thẳng thừng như nhà phê bình Nguyễn Hòa gọi là “hạng xoàng!” Đối với tôi, nếu “được gọi là thơ” thì thơ Quang Thuận chưa phải là “thơ hay” vì nó thiếu “chất thơ”, tức là thiếu vắng ngôn ngữ nghệ thuật và hình tượng nghệ thuật. “Chất thơ” thì nó không nằm nơi ý nghĩa bề mặt câu chữ của văn bản mà nó phải ở ngoài hoặc ở phía sau bề mặt câu chữ của văn bản. Cố gắng đọc vài chục bài thơ của ông, tôi đã thấy chán, vì nó “chẳng có thơ” và dĩ nhiên, đích thực là “chẳng có Thiền”! Tôi thấy đâu đó chỉ là sự lắp ghép ý tứ, câu chữ, lựa dáng, tìm vần... nhưng mà cũng chưa chỉnh, chưa “giỏi”  lắm!  Và ý nghĩa của nó chỉ có một, nó nằm “chết”, nằm “bất động” nơi bề mặt câu chữ của văn bản mà thôi. Ta hãy khảo sát một số bài:

1. “Cổ thụ vươn cao xòe tán rộng

Rừng già nóng lọt đốm hoa rơi

Dây leo chằng chịt vắt cành lá

Chìm rừng líu lót với hương trời”.

2. “Viên gạch Hoa Cúc đời nhà Trần

Phù điêu sư tử sứ hoa vân

Vẫn ba gốc đại ngày xưa ấy

Bao năm xa cách vẫn thấy gần”.

3.“ Từ bỏ ngôi vua để tu hành

Từ cái nhất thời, cái hữu danh.

Vĩnh hằng vô hạn, vua tìm đến

Yên Tử trường xuân hóa đất lành”.

4. “Vòng cung uốn lượn tựa mình rồng

Vươn mình thế núi hướng biển Đông

Ẩn sâu khúc lượn trong lòng đất

Đầu rồng ngoảnh lại hướng Thăng Long”.

5. “Dựng xây cung điện đế triều nghi.

Định đế xưng vương lập thành trì.

Đại Hoàng cổ Việt Trương Yên phủ.

Hào sâu núi hiểm bất khả tri” 

Cả năm bài tứ tuyệt, nếu là tứ tuyệt nghiêm túc thời trung đại thì bài nào ở đây cũng thất niêm luật cả (những chữ gạch đáy, đổi trắc thành bằng, bằng thành trắc mới đúng); và ý nghĩa của nó chẳng khác gì thông tin của một văn bản điện tử, hiểu ngay, nắm bắt được ngay! Đây là loại “văn xuôi có vần!” Rất tầm thường! Mới tập làm thơ cũng làm được. Nếu ai đó nói là có tâm thì đúng vậy, nó chỉ có tâm! Nhưng ngay cái tâm ấy cũng chưa nắm bắt căn bản tư tưởng Phật học khi nói “vĩnh hằng và trường xuân” ở nơi bài 3 - vì “vĩnh hằng” là cõi của nước Chúa, còn “trường xuân” là cảnh giới luyện tinh thành khí để đạt “trường xuân bất lão” của Đạo gia! Còn về thơ tứ tuyêt như trên thì nhà phê bình Nguyên Hòa cười mỉm: “Dù tác giả làm nhiều bài thơ tứ tuyệt hoặc ghép hai bài tứ tuyệt thành một bài thất ngôn bát cú cho có dáng dấp Đường luật thì ngay cái việc cố gắng ép thơ vần cũng đã đưa lại ý tứ khôi hài...”

Đấy là chúng ta khảo sát về cái gọi là thơ thì thơ Quang Thuận chỉ là “văn xuôi có vần!”, chưa phải là thơ thứ thiệt! Còn về cái mà người ta gọi là “thơ Thiền” của Quang Thuận, thì hãy nghe nhà phê bình Nguyên Hòa nhắc nhở: “Xin chớ nghĩ hễ trong bài thơ có hình ảnh chùa chiền, non cao, bóng núi, cây đá, mây trời, trăng treo, tiếng hạc... là bài thơ có chất Thiền! Xin hãy hiểu rành rẽ về Thiền và thơ Thiền rồi hãy viết, kẻo lại rơi vào cảnh ngộ ‘vẽ rắn thêm chân’!” Nói vậy, rõ là ông Nguyên Hòa đã rất thận trọng “về Thiền và thơ Thiền”. Thận trọng là đúng. Tuy nhiên, nếu là tôi, là một tu sĩ có học Thiền, có tu Thiền và cả dạy Thiền, tôi sẽ mạo muội xin phép viết lại mệnh đề cuối như sau:“Xin hãy tu tập Thiền, chứng nghiệm Thiền, sống Thiền rồi hãy làm thơ Thiền, kẻo lại rơi vào cảnh ngộ ‘đầu thượng trước đầu, tuyết thượng gia sương’! (1)Vì vậy, hai tập thơ của Quang Thuận viết về Yên Tử mà được mọi người gọi là thơ Thiền thì quả là hơi nóng vội, có cái gì đó thiếu chân xác, cần phải đính chính lại.

Tại sao tôi lại dám nói vậy? Vì thật sự là thơ Thiền thì phải được cảm hứng từ trực giác tâm linh của những Thiền sư đạt ngộ, của những hành giả đã từng miên mật công phu định tuệ (2) trên non cao, động thẳm, trong những tu viện xa vắng, tịch liêu. Các vị ấy đã nhảy qua hố thẳm phạm trù của lý-trí-thức-tri-nhị-nguyên-sai-biệt, đã giải quyết trọn vẹn “tử sinh đại sự”, đã cất tiếng cười lạnh giá cả sao Ngưu, sao Đẩu, đã cởi bỏ tất thảy mọi xiềng xích buộc ràng của bản ngã với những mặt nạ hư dối, đã trang bị cho mình con mắt thứ ba của “tuệ nhãn” nhìn xuyên thủng hư vô bị che chắn dập dờn bởi khói sương mê lầm, vọng huyễn. Cuộc đời các vị ấy là một chân dung mô phạm khả kính. Họ có đời sống giới luật nghiêm túc, có đạo hạnh tôn quý, có tuệ giác khinh linh siêu thoát. Họ sống thiền trong từng hơi thở, từng sát-na nên mới có thẩm quyền về thiền, nói về thiền, mới có thể “thở ra thơ thiền” được. Còn tác giả của những tập thơ Yên Tử này là ai? Một Phật tử hay đơn thuần chỉ là một người mộ Phật? Hoặc chỉ là một người kính yêu non thiêng Yên Tử? Là một con người bình thường có gia đình vợ con? Một cư sĩ trí thức hay một vị quan đang “đại ẩn” tại triều trung? Và nếu gồm tất thảy những con người ấy, với những “hành trạng” như thế thì người ta chỉ có thể làm thơ tức cảnh, tức tình, về tự sự, về cổ tích, về danh thắng hay về huyền thoại... nhưng thơ ấy không thể gọi là thơ thiền! Tôi nghe biết tác giả là một GSTS, một viện trưởng, một nhà khoa học; tuy nhiên, cho dẫu một trí thức uyên bác cũng không thể nào với tới thế giới tâm linh trực giác, là lãnh địa ở ngoài mọi kiến thức và trí năng? Có thể nào trí thức bác học hiện nay trên thế giới ai cũng có thể liễu giác, chứng nghiệm thiền, sống thiền trong một vài sát-na tư duy đốn ngộ và có thể làm được thơ thiền cả thảy? Điều này là bất khả. Điều này là “vẽ lông cho rùa”, “chắp sừng cho thỏ” (3).

Còn nữa. Còn một chuyện nữa. Như người ta nói, và chính tác giả cũng có nói là mình làm trong ba đêm liền tập “Thi vân Yên Tử” gồm 143 bài trong trạng thái như “nhập đồng’, do tiền nhân mượn bút nên khó lý giải được. Đầu tiên, xin được đính chính, là cái kiểu “nhập đồng, mượn bút” kia không phải là tinh thần của nhà Phật chánh tông, nó hơi “tà” rồi đấy! Có người lại suy luận, có lẽ do nhập định sâu mới làm thế được. Xin thưa, “nhập định sâu” (4) thật sự thì phải đóng hết cả sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý); trong trạng thái ấy, hành giả đâu có thể khởi tư duy mà làm thơ được?! Hàng ngàn người tu thiền định thứ thiệt họ biết rõ điều đó; nói chuyên môn một chút là phải xuống “cận hành định” mới khởi “tầm và tứ” tức là khởi ý niệm và suy nghĩ được! Riêng chuyện nhập thần, mượn bút thì có thể có - nhưng “tiền nhân” này là ai? Tiền nhân này sao lại có đọc quyển sách “ Chùa Yên Tử, lịch sử, truyền thuyết, di tích và danh thắng” của tác giả Trần Trương? Cứ dựa theo sách của người ta, đổi văn xuôi thành văn vần để biến ra cái gọi là thơ thiền? Tiền nhân này sao lại “mượn văn” của tác giả đang sống hiện nay một cách vô ngại thời gian như thế? Và nếu có thật chuyện đó thì tiền nhân này không phải là Phật, là thần, là Trần Nhân Tông, là các vị thiền sư, là các đại bút danh sĩ rồi! Tại sao? Vì Phật thần thì không có cái tâm xiêng xẹo, cong vênh như thế! Và nếu là các tác gia thời trung đại thì “đại bút” của các vị ấy đã rơi xuống “tiểu bút” rồi, thi hương cũng không đỗ đâu! Còn nếu là Trần Nhân Tông, Huyền Quang, các vị thiền sư giáng bút thì sao thơ quý ngài lại “xuống cấp” đến vậy, “tầm thường thơ” đến vậy, chẳng có tuệ, có thiền, có trao truyền mật chỉ tâm ấn gì cả?! Tiền nhân này là ai vậy? (5) Chúng ta phải tìm cho ra cái khuôn mặt của ông ta - để giải bớt cái oan khuất cho tất thảy thiền sư, danh sĩ thời Lý, Trần mà văn học sử thường xem như đấy là thời đại đỉnh cao của văn học, là cái “nôi” hàm tàng mọi giá trị mỹ học, thiền học cũng như tinh túy văn hóa bản sắc của cha ông. Tiền nhân nhập bút ấy là ai mà Nguyễn Hòa đã than: Nếu thực sự “tiền nhân mượn bút” của Hoàng Quang Thuận để “viết thơ” thì xem ra thơ của “tiền nhân” đã sa sút đến mức thê thảm... Với các bài thơ chưa đúng niêm luật ... mà được gọi là “nghệ thuật Đường thi trác việt” thì đúng là hết thuốc chữa!

Quả đúng là hết thuốc chữa!

“trăm năm duyên kiếp” như thế này mà cũng là thiền sao:

“- Trăm năm duyên kiếp còn lưu lại

Lối cũ đường xưa ngập cỏ cây”.

Và đây cũng gọi là thơ, là thiền sao:

“- Ba tên kẻ cướp nhảy chặn đường

Vua Trần cho bạc lẫn phần cơm

Nhẹ nhàng thuyết giáo trừ tâm độc

Cả ba quỳ lạy hứa hoàn lương!”

Và đây nữa:

“- Hoa kinh thành của Đế vương

 Mây bay phủ núi luỵ biên cương

Hoàng Long dậy sóng ngàn năm ngủ

Long Mã truy phong thượng đạo đường”.

Bài nào cũng thất niêm luật, không những không phải thơ, không phải thơ thiền mà còn không hiểu tác giá đưa thông tin “bí mật” gì ở nơi chỗ “lụy biên cương” và cái “thượng đạo đường”?

Vậy là quá đủ.

Xin chư vị thức giả thẩm định cái gọi là “tiền nhân nhập thần mượn bút” ấy cho!

Tôi không tu Thiền theo thiền phái Trúc Lâm, không phải là đệ tử, thân hữu, cũng không quen biết các ngài, các Sư, Ni ở trong tông môn đó. Tôi thuộc Theravāda, chỉ là một tu sĩ yêu thơ, có nghiên cứu thơ văn của Trúc Lâm tam tổ và các danh sĩ làm thơ có ảnh hưởng thiền thời Lý, Trần. Thơ, thơ thiền, thơ có tư tưởng thiền và thơ có liên hệ đến non thiêng Yên Tử của các vị ấy, vào thời trung đại ấy... tôi nghẹn chữ, không biết nóí sao. Tôi chỉ muốn ví von - dù biết ví von nào cũng khập khễnh - là nó như là hạt tuyết trắng trinh tuyền trên non cao. Nó là đóa hoa tinh khôi, diệu vợi u hương trên đầu núi. Mà bút khí, bút lực, bút trí, bút tâm của thế gian là bút của chợ triền, ở dưới này, thường không vói tới! Nó khác, nó rất khác, nó khác xa so với tất cả thơ mạo nhận là thơ thiền hiện nay. Tảng đá tịnh định, trầm mặc trong vườn thiền hôm kia cũng toát mồ hôi. Lau cỏ quê mùa dân dã, an nhiên sáng nay bên hiên chùa cũng run lẩy bẩy. Hiện tượng phẩm bình hơi quá bút về thơ thiền của Hoàng Quang Thuận làm cho “đá cỏ trong vườn thiền” cũng phải lên tiếng đính chính một vài chỗ cần thiết. Tuy nhiên, thật may mắn thay cho Phật giáo chúng ta, và cả cho những ai yêu non thiêng Yên Tử cùng cốt cách “cam lộ lưu phương (6) của Hương Vân đầu-đà - là các nhà học giả nghiêm túc, các nhà nghiên cứu có đạo đức tri thức đã đồng loạt phản bác, phê phán nghiêm khắc, đã nhìn ra “chân tướng”, đã chỉ ra cái “bản lai diện mục” của cái trò chơi hơi “quá đà” kia rồi! Chỉ một chút xíu “quá đà” thôi, chớ không nên nói khá nặng lời như ai đó đã xem như là một hiện tượng vĩ cuồng! 

Để kết luận, tôi xin trích bài tứ tuyệt thứ hai trong “Sơn phòng mạn hứng” có 2 câu đầu đối, hai vận, luật bằng nghiêm túc của thiền sư thi sĩ Trần Nhân Tông:

“ Thị phi niệm trục triêu hoa lạc

Danh lợi, tâm tùy dạ vũ hàn

Hoa tận, vũ tình, sơn tịch tịch

Nhất thanh đề điểu, hựu xuân tàn”.

Tạm dịch (không lấy hết ý trong cặp đối):

“- Phải, trái niệm rơi hoa rạng sớm 

Lợi danh lòng lạnh mưa thâm đêm

Hoa tàn, mưa tạnh,  non yên lặng

Còn tiễn xuân tàn, một tiếng chim!”  

Hy vọng rằng, những hiện tượng phù du như vậy rồi sẽ qua đi. Chuyện phải, chuyện trái nó rơi theo hoa buổi sớm rơi. Cái tâm về lợi danh nó lạnh ngắt giống như trận mưa lạnh ngắt đêm rồi! Và ngay cái rơi, cái lạnh ấy cũng không còn nữa, nó rụng, nó tạnh hết rồi, chỉ còn lại non yên lặng mà thôi. Và ở nơi cái “thực tại non yên lặng” ấy, một tiếng chim vừa hót lên...Cũng vậy, cái gì không phải thơ, không phải thiền thì nó sẽ rơi, sẽ rụng đi - nhưng sự an tĩnh và thanh khiết của hồn thơ, hồn thiền non thiêng Yên Tử sẽ còn mãi với thời gian. Mong vậy thay!

 

Am Mây Tía 20/8/2012

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

 

 

Chú thích:

(1) Trên cái đầu, chồng thêm cái đầu, trên tuyết lại phủ thêm sương - tức là ý niệm chồng thêm ý niệm, che lấp cái thực!

(2) Định (Samādhi), Tuệ (Vipassanā).

(      3) Thuật ngữ Thiền: “ Thố giác” (sừng thỏ), “mao quy” (lông rùa). Hình ảnh này nói lên ý nghĩa, là người ta đã dùng cái “không thực có” để găm cắm lên “cái thực” - tức là lấy ý niệm, khái niệm (chỉ tồn tại trong tu duy lý tính) để vẽ, để chắp lên pháp như thực tánh, bản nguyên (sabhāva dhamma - paramattha dhamma).

 4) Tối thiểu phải sơ thiền trong bốn tầng (jhāna) thiền.

 (5) Theo nhà Phật, một người tu Phật có chánh kiến, không bao giờ tin việc nhập thần, giáng bút ấy là của thánh thần tiên Phật; nếu có, chúng chỉ là ma quỷ (ngạ quỷ, dạ-xoa, a-tu-la) mà thôi. Tin ba cái chuyện mê mê hoặc hoặc ấy là tà kiến. Vậy, nếu có, thì “tiền nhân mượn bút” ấy chỉ là ma quỷ.

 (6) Móc ngọt chảy mùi thơm.

 

,

 

 

Bài thứ hai

 

                     Hiện tượng về “đạo sư” Duy Tuệ

 

Mổ xẻ cái gọi là Thiền Minh Triết

của “đạo sư” Duy Tuệ

 

Lời thưa,

Đọc qua một số sách và những bài giảng đó đây của vị “đạo sư” này, tôi thấy đây đúng là một hiện tượng cần phải báo động! Người ta ca tụng, tuyên truyền cũng nhiều mà trao đổi, đối thoại gay gắt cũng lắm. Đài báo, các câu lạc bộ tổ chức rất chính quy, rất bài bản để xiển dương hội “Minh Triết Trần Nhân Tông” của ông ta thì tạm thời chúng ta hãy nhẫn xả bỏ qua một bên hoặc giả vờ quay mặt đi. Thôi thì khởi tâm bi mà thương xót những người dại dột bị dụ dỗ mà không biết! Thảng hoặc“tránh voi chẳng xấu mặt nào”! Tại sao vậy? Vì Phật giáo chân chính không chống nổi tà đạo vào thời đại “Phật nhất xích, ma nhất trượng!” này. Vì tiếng chuông nhà chùa không “áp đảo” nổi cả một hệ thống đánh trống thổi kèn ăn theo do tiền bạc; do khoác áo trơn vỏ để luồn lách của những con rắn trăm đầu; do thế lực ngầm nào đó bài xích Phật đã mượn kẻ hám danh, hám lợi tuyên truyền cho họ; do vì một số quần chúng hời hợt, “óc để ngoài tai”; do một số người trẻ tuổi chưa có bề dày về kiến thức, văn hóa, tâm linh - cái gì có vẻ xôm trò, được quảng cáo, tiếp thị rùm beeng là a dua theo để chứng tỏ mình tiếp thu được “phong trào thời thượng”! Ở đây tôi chỉ bàn chuyện “trao đổi, đối thoại” với ông ta của hằng chục tờ báo Phật giáo trong và ngoài nước mấy năm trở lại đây. Người ta nghiêm khắc lên án một hiện tượng dường như “điếc không sợ súng” khi phỉ báng Phật, Pháp, Tăng nơi quyển sách “Ta là ai” của ông “đạo sư” tự phong Duy Tuệ kia là đúng, là chính đáng. Tuy nhiên, viết bài trao đổi mà như “ăn miếng trả miếng” như kiểu “cục đá quăng qua, cục chì ném lại” thì ai thắng, ai thua đều bị tổn thương cả. Ta phải đứng cao hơn ông ta một, hai cái đầu, lại dùng tinh thần con nhà Phật mà nói chuyện. Trong trường hợp ông ta chắc chắn là có “tí” học thức, kiến thức thì chúng ta phải có chút ít trình độ học thuật mới đối trị nổi cái con người mà ai cũng bảo là “ma giáo” này! Đa phần những Phật tử có đức tin, có tâm huyết ấm ức quá nên lúc trao đổi, họ không chịu ngồi cùng một chiếu nên như cuộc đối thoại giữa hai người điếc! Vì ai cũng có chân lý, chủ kiến của riêng mình mà! Thảng hoặc họ chỉ phanh phui, săm soi nơi cành nhánh ngọn nên không biết căn bệnh phát sanh từ gốc. Phải lần tìm tận gốc, chư vị ạ! Hoặc như bắt rắn thì phải tìm cái đầu, nơi yết hầu chứ đừng loay hoay chụp nắm cái đuôi! Phải lôi ngay chính quyển “kinh tinh túy” của ông ta, từ “căn cứ địa” mà ông ta lập thuyết, lập ngôn mà mổ xẻ. Nói kiếm hiệp một chút chơi cho thư giãn, là phải tạm mượn “Thất thương quyền” của phái “Không Động” để “đả thương thất tình” (1) của chúng sanh; phải vận dụng “đàn chỉ tuệ kiếm” (2) để điểm vào tử huyệt “Thiền Minh Triết”của ông ta. Phải biết tùy nghi phương tiện ngồi cùng một chiếu Minh Triết, từ lập ngôn, lập ngữ của ông ta mà đối thoại! 

Tôi nghĩ rằng quyển sách “Cẩm nang thực hành Thiền Minh Triết” của Duy Tuệ chính là hệ thống tư tưởng căn bản, từ đó ông thêm rau cải, tương chao gì đó để viết thành sách hoặc thuyết giảng nơi này và nơi khác. Vậy tôi sẽ đọc từng dòng, từng câu, từng đoạn, từng chương một, xem thử nội dung Thiền Minh Triết của ông ta có những gì? Có một số tư tưởng được lấy “nguồn” ở đâu? Rồi chỗ nào là “quay cóp” của Phật mà làm của mình? Chỗ nào là “vay mượn” tư tưởng triết học Đông Tây? Rồi gồm tất cả đó, ông chiên xào như món hàng thập cẩm rồi đem rao bán trong nước và ngoài nước, như nơi những trang Web. thống kê “cao trào thắng lợi” của ông ta, kẻ mà người ta gọi là đã bán Phật không giấy tờ văn tự này: Web:ww.daosuduytue.com; www.duytue.com và ww.ungdungphathoc.vn...

Tình hình như vậy đó nên tôi sẽ bình tĩnh, ung dung “tận tình” mổ xẻ từng điểm một, chậm rãi từng hồi một, để mọi người thấy rõ ông ta sai lầm chỗ nào, tà kiến chỗ nào, chỗ nào là quay cóp, tạm mượn của ai, tư tưởng gốc ra sao... để ông ta không thể lòe bịp những người con Phật nhẹ dạ, cả tin được nữa.

Nội dung ấy tôi đã lập ra đây, có 7 hồi, đặt tiêu đề theo sách giảng “Thiền Minh Triết” của ông ta:

- Hồi thứ nhất: Về cụm từ “Thiền Minh Triết”.

- Hồi thứ hai: Vấn đề của cái đầu.

- Hồi thứ ba: Trải qua ba kinh nghiệm.

- Hồi thứ tư: Ba thời kỳ của cuộc đời.

- Hồi thứ năm: (Ông ta giảng) Thiền Minh Triết là gì.

- Hồi thứ sáu: (Ông ta) Kết luận.

- Hồi thứ bảy: Hộp Minh Triết.

 

(Xin chư độc giả nhẫn nại xem từng hồi một)

 

 

Hồi Thứ Nhât:

      Về cụm từ Thiền Minh Triết:

                        (Enlightenment Meditation)

 

Đầu tiên tôi sẽ khảo sát, phân tích xem thử cái kiến thức “hàn lâm” của ông ta như thế nào! Thiền là gì và Minh Triết là gì! Và ông ta có hiểu Thiền là gì không? Có hiểu Minh Triết là gì không?

Đập ngay trước mắt ta là cụm từ “Thiền Minh Triết” mà ông đã dịch sang tiếng Anh là Enlightenment Meditation - xem thử có đúng với ngữ nguyên chăng?

Enlightenment: Khai sáng, giác ngộ.

- Nếu dịch “enlightenment”“khai sáng” thì xuất xứ của nó ta được biết có từ “thời kỳ khai sáng” hay “thời đại khai sáng” mà người Anh gọi là “The Enlightenment” (Xem Wikipedia). Phong trào có tên là “Thời đại khai sáng” này xuất hiện ở châu Âu được đánh dấu niên đại từ năm 1648, hiệp ước Westphalie đến năm 1979, cách mạng Pháp - nhằm hạ bệ sự thống trị của tôn giáo trên mọi lãnh vực tín ngưỡng, tư tưởng, nhân sinh, xã hội, nhất là khoa học tự nhiên (natural science). Phong trào này người ta cho rằng, chính “lý trí và khoa học” chứ không phải tôn giáo (Thiên chúa giáo La Mã) làm cho nhân loại tiến bộ. Vậy “khai sáng” trong không-thời-gian và bối cảnh châu Âu thuở ấy có nghĩa là “lý trí khoa học” khai sáng (enlightenment) cho nhân loại qua những nghiên cứu về vật lý, sinh học, hóa học, cơ học, quang học, thiên văn học...

- Nếu dịch “enlightenment”“giác ngộ” thì Tây phương thường dùng để chuyển tải khái niệm về sự giác ngộ của đức Phật (The Buddha's Enlightenment). Và nếu là giác ngộ thì nó không thuộc phạm trù lý trí khoa học ở trên nữa, mà nó thuộc về trực giác tâm linh, tức là sự thấy biết chân lý, sự thật, pháp như thực tánh (sabhāva dhamma) ngay tức khắc, không qua trung gian của lý trí nhận thức hay suy luận (tưởng tri - sañjānāti hay thức tri - vijānāti). Nó thuộc lãnh vực của tuệ tri (pajānāti) hay liễu tri (ājānāti) mà học thức, trí năng của con người không bén mãng tới được.

Meditation:

- Tây phương thường dùng từ này để dịch chữ “Thiền” của Phật giáo. Có lẽ họ đã không có từ tương đương để chuyển tải chính xác nội dung của “Thiền”. Tại sao vậy?

Trong Tam Tạng kinh điển Pāḷi văn mà (hội) Pāḷi Test Society đã dịch ra tiếng Anh phổ biến từ thế ký 19-20, các nhà nghiên cứu người ta đã rất thận trọng khi dịch những thuật ngữ Phật học. Từ nào chuyển ngữ được thì họ tìm từ tiếng Anh tương đương, từ nào không chuyển ngữ được, họ dịch ý, nếu sợ bị lệch khái niệm thì họ giữ nguyên từ Pāḷi.

Ví dụ:

* Thiền định, samādhi: Người Anh họ dịch là suy ngẫm, là trầm tư, là gom tâm ý lại (concentration) hay là sự bình tĩnh, tự chủ (self-control); và phổ thông nhất là tập trung tư tưởng (meditation) vào một đối tượng. Thiền định, samādhi của Phật giáo được dịch là meditation thì tạm được. Tôi nói “tạm được” là vì suy gẫm, trầm tư, gom tâm ý lại, bình tĩnh, tự chủ hay tập trung tư tưởng đều không diễn đạt được trạng thái “buông xả” nhẹ nhàng “ly dục, ly ác pháp, đi vào định sơ thiền có tầm, có tứ” của chánh định nhà Phật. Còn nếu là dùng cho Thiền tuệ, minh sát tuệ thì ngữ nghĩa khái niệm đã sai lệch mất rồi.

*Thiền tuệ, tuệ quán hay minh sát tuệ: Chính là Thiền minh sát (vipassanā), tiếng Anh không có từ tương đương nên họ dịch ý bằng những cum từ “nhìn vào bên trong” (inward vision), “thấu hiểu bên trong” (insight), thấy biết bằng “trực giác, qua trực giác” (intuition). Hiện nay, do rất nhiều nhà sư Tây phương tu Thiền tuệ, minh sát, biết dịch sang một ngôn ngữ khác sợ khái niệm bị lệch lạc nên họ đã cẩn trọng giữ nguyên từ vipassanā - khi đề cập đến Thiền minh sát.

Vậy, nếu là Thiền Nguyên thủy (Theravāda), là Thiền có thời đức Phật thì ngài chỉ nói Định và Tuệ. Định thì phải tu “Thiền chỉ - Thiền vắng lặng” qua 40 đề mục về khái niệm (paññatti). Tuệ thì phải nội quán, minh sát ngũ uẩn, thập nhị duyên khởi để thấy rõ tam tướng; tức là phải thấy thực, như chân như thực vô thường, khổ không, vô ngã; và đối tượng của nó phải là pháp như thực tánh (paramattha dhamma) không đi qua, không dính mắc nơi thế giới khái niệm. Đây chính là nội dung mà người Anh thận trọng dịch ý là “nhìn vào bên trong”, “thấu hiểu bên trong”, “bằng trực giác, qua trực giác” như trên. Tất cả các truyền thống Thiền như Thiền Đông độ, Thiền Zen Nhật Bản, Thiền các quốc độ Nam phương như Thái, Myanmar, Srilaṅkā... Thiền Trúc Lâm tam tổ - đều lấy Tứ niệm xứ, nói rõ là Thiền minh sát này làm sở y.

Do vậy, do liên hệ đề tài này, chúng ta phải bỏ công khảo sát thêm ba dòng Thiền khác nữa, đó là Thiền Đông độ của Trung Quốc, Thiền Zen của Nhật Bản và Thiền của Trúc Lâm Sơ tổ.

*Thiền Đông độ: Sơ tổ là Đạt Ma với tuyên ngôn “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”.Và sự lãnh hội tâm chứng của lục tổ Huệ Năng qua bài kệ: “Bồ-đề bổn vô thụ. Minh kính diệc phi đài. Bản lai vô nhất vật. Hà xứ nhạ trần ai!”.

Do giới hạn trang viết nên chúng ta chỉ cần khảo sát hai tuyên ngôn này là biết rõ Thiền này là Thiền gì!

Đạt Ma nói, đại ý là: “Thiền của ta không y cứ trên văn tự, chữ nghĩa, nó là đường truyền riêng không lệ thuộc từ chương kinh giáo; chỉ cứ việc đi thẳng vào tâm người, nếu thấy rõ tánh thì tức khắc thành Phật”. Tuyên ngôn này rất rõ ràng, là đừng kiếm tìm nơi văn tự chữ nghĩa, kinh giáo nữa, mà hãy hạ thủ công phu tu tập nội quán, thấy rõ pháp thực tánh (sabhāva dhamma), tức là thành Phật.

“Trực chỉ nhân tâm” ấy như thế nào?

Huệ Khả thưa:

- Tâm con “không an” xin thầy “an tâm” cho con?

Tổ Đạt Ma mỉm cười (vì chắc là ngài nở nụ cười trong tâm):

- Đâu? Đâu nào? Tâm “không an” của ông đâu, đưa ra đây ta “an” cho!

Có lẽ Huệ Khả “lắng nghe” một hồi rồi thưa bạch:

- Con đã cố tìm rồi nhưng không thấy!

- Vậy là ta đã “an tâm” cho ông rồi đó!

Đúng thế! Vậy là tổ “đã an” rồi! An mà không an gì cả! Truyền tâm mà chẳng truyền cái tâm nào cả. Hóa ra, Đạt Ma dạy quán “tâm pháp” đó thôi! Tại sao? Vì khi Huệ Khả quay lại tìm kiếm tâm, quán tâm, lắng nghe tâm thì khi ấy chính ông ta đã khởi tuệ tri (pajānāti) để nhìn ngắm. Và ông ta đã “tuệ tri được cái tâm bất an” ấy, đã nhìn như thực nó, nhìn ngay cái bản lai diện mục của nó, không đánh giá, không phê phán, không thủ, không xả! Đây đúng là bản sao y gần như nguyên văn câu kệ Pāḷi trong kinh Tứ niệm xứ, đức Phật dạy về lắng nghe tâm, quán tâm, minh sát tâm: “Asamāhitaṃ vā cittaṃ asamāhitaṃ cittaṃ ti pajānāti (Tâm bất an, tuệ tri tâm bất an). Hoặc là: “Thấy như thực thấy, nghe như thực nghe... biết như thực biết...” nhan nhản trong các Nikāya. Cái “tâm bất an” ấy chính là cái đang là, đang hiện thực, đang hiện tiền, nó chính là cái thiết thực hiện tại (sandiṭṭhiko); nó chính là pháp như thực tánh (sabhāva dhamma). Rõ ràng là do nhờ căn trí cao, Huệ Khả tức khắc “ngộ” ra nên quỳ xuống sụp lạy. Vậy là ông ta được trao tâm ấn làm đệ nhị tổ Thiền Đông độ (1).

Thật ra, đây chỉ là một cách “truyền tâm, quán tâm” mang cá tính, bản sắc Trung Quốc, nhưng cũng là vọng âm ngàn đời của minh sát vipassanā có được từ Thiền Nguyên thủy vậy.

Còn Huệ Năng thì ngài đề cập thẳng vào cái tánh của giác ngộ, bồ-đề (bodhi), cách nói khác của tánh không (Suññatā-Śūnyatā).Ở trong tánh không rốt ráo hay tuệ “thâm bát-nhã - gambhīrapaññā” (1) thì không tồn tại một chút gì của thế giới hữu vi (ly tứ cú, tuyệt bách phi) thì chỗ nào, vật nào ở đâu mà dính bụi bặm phiền não? Đây là tổ khơi mở lối vào thế giới thực tánh (paramattha dhamma) của tuệ giác bên kia bờ (đáo bỉ ngạn). Vậy, Thiền của tổ Huệ Năng cũng được “truyền đèn nối lửa” từ Đạt Ma, từ Thiền vipassanā Nguyên thủy.

*Thiền Zen Nhật Bản:

Nhật Bản tiếp thu Thiền Đông độ, dung hợp với tín ngưỡng cổ truyền cùng thần đạo dân tộc, vận dụng sáng tạo để biến ra Thiền Zen cho hợp với khẩu vị, hợp với bản sắc văn hóa của mình. Nhờ vậy, nó phát triển rất mạnh, đi sâu vào mọi sinh hoạt xã hội. Thật không ngạc nhiên gì, khi nơi “xứ sở hoa anh đào” này cái gì cũng Đạo cả, cái gì cũng Zen cả rất chi là rôm rả, xôm trò vậy. Nói chính xác hơn - Zen Nhật Bản đã “tận tình và tâm huyết” biến Thiền Đông độ thành “mỹ học Thiền”, thành “nghệ thuật Thiền” để phụng sự cho con dân xứ Mặt Trời.

Nhưng nếu ta thử hỏi, Thiền Zen của Nhật Bản là Định hay Tuệ? Thật ra,  Zen là phát âm đọc trại của từ Jhāna mà ra. Nhưng Jhāna không mang nội dung Thiền định hay Thiền tuệ, nó cũng có nghĩa là Thiền nhưng là để chỉ các tầng Thiền, ví dụ sơ Thiền, nhị Thiền, Thiền chi (jhānaṅga)... Vậy, hóa ra, Thiền sư Suzukhi là thủ phạm sai lầm - đã dịch sai - bây giờ đã tràn lan khắp thế giới. Hay là ông ta đã cố ý chuyển ngữ sai, bởi lòng tự hào dân tộc để thầm nói rằng:“Thiền của Nhật Bản ta không phải là Định hay Tuệ của Phật Ấn Độ hay Phật Trung quốc - mà là Thiền của con cháu Thái Dương Thần Nữ!” Tuy nhiên, nói cho vui vậy thôi, chứ điều đó không quan trọng bằng nội dung mà nó chuyển tải. Suzuki là một vị Thiền sư cư sĩ, cũng là một nhà thơ Thiền - khi ông nói bằng hình tượng nghệ thuật: “Phải nắm bắt thực tại bằng bàn tay trần trụi, không mang găng tay!” Thực tại là pháp như thực tánh (sabhāva dhamma), bàn tay trần trụi là “tánh không”, không mang găng tay là rỗng không tất thảy mọi ý niệm, khái niệm dù danh hay vật. Thấy chưa, cốt tủy Thiền, qua Zen Nhật Bản cũng có một sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Đa phần trí thức Tây phương biết Thiền, phần nhiều là nhờ vị học giả uyên bác và thông thái này. Đọc bộ luận của Suzuki, Trúc Thiên và Tuệ Sỹ dịch, ta thấy rõ nó cũng là bản sao của Thiền Đông Độ mà thôi. Nhưng mà nó mạnh mẽ hơn, có cá tính Nhật hơn.

*Thiền Trúc Lâm sơ tổ:

Trong một bài tiểu luận viết về vị vua này, tôi đã tóm thâu vào một đoạn văn khá dài: Người ta thường nói, Thiền Trúc Lâm Yên Tử là Thiền Việt Nam! Đây là dấu hiệu tốt, một ý thức độc lập, tự chủ muốn ly thoát cái bóng vĩ đại của đế quốc phương Bắc đã phủ trùm dân tộc ta thuộc mọi lãnh vực hơn ngàn năm qua. Tuy nhiên, cốt lõi Thiền, yếu tính Thiền, yếu chỉ Thiền là kiến tánh, thấy rõ thực tánh, liễu ngộ pháp thực tánh (sabhāva dhamma, (paramattha dhamma) thì Thiền Nguyên thủy, Thiền Đông độ, hay Zen đều giống nhau. Nếu nói là Thiền mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt thì nghe ổn hơn. Tôi nói “nghe ổn hơn” là vì điều ấy cũng chưa nói được gì, vì rằng, Phật giáo đến quốc độ nào đều mang bản sắc văn hóa bản địa của dân tộc ấy. Ví dụ, Trung Quốc kết hợp Phật với Khổng Mạnh và Lão Trang; và sau khi Thiền Đông độ ra đời, sau Huệ Năng thì Thiền ấy trở thành Thiền phù hợp với khẩu vị, bản sắc văn hóa Trung Quốc. Nhật Bản thì kết hợp với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng Thần đạo dân tộc mà biến thành Zen. Tây Tạng kết hợp với đạo Bon, tín ngưỡng thờ ma quỷ, huyền thuật mà thành Mật tông! Ấy là sự thật trong lịch sử Phật giáo thế giới, không có gì là đặc thù, khu biệt và mới mẻ cả. Phải nói rằng, Trần Nhân Tông, sau khi tiếp thu trọn vẹn mọi nguồn, mọi tông phái Thiền học đương thời, ngài vận dụng thêm tư tưởng nhập thế tích cực hơn để đáp ứng với tình thế đất nước, huy động toàn bộ nhân dân không kể đạo đời, tăng tục cùng đoàn kết chống ngoại xâm, xây dựng đất nước thì khả dĩ hơn. Tôi cũng nói “khả dĩ hơn”, vì thật ra, cái vận dụng nhập thế tích cực, đạo đời, tăng tục không có biên ranh thì đã có từ thời Lý Thánh Tông với Thiền phái Thảo Đường; và gần nhất là các Thiền sư cư sĩ như Ứng Thuận, như Tuệ Trung! Trần Nhân Tông chỉ là người tiếp lửa cho xu hướng Phật giáo nhập thế tích cực ấy! Chính điều quan trọng nhất, mấu chốt nhất, cốt tử nhất mà chưa ai đề cập là: Thiền nhập thế ấy có được từ một vị vua trẻ tuổi từng là một bậc anh hùng lãnh đạo hai cuộc chiến tranh tự vệ oanh liệt; một nhà chính trị, quân sự kiên cương nhưng thầm lặng; một nhà ngoại giao cứng mềm tùy nghi nhẫn xả; một người xây dựng đất nước có chiến lược, có tầm nhìn xa, trông rộng; lại là một nhà văn hóa cầm đuốc dẫn đạo tiên phong phục hồi, duy trì và phát huy ngôn ngữ Việt; một Thiền sư sơ tổ Trúc Lâm đại sĩ tầm vóc lớn lao; một nhà sư thọ trì 12 pháp đầu-đà khổ hạnh, một nhà thơ trong sáng và tịnh định hồn Thiền - mới chính thật là vô tiền, khoáng hậu! Trong lịch sử thế giới, ở đâu có sự tổng hợp, tương hòa, hỗn dung kỳ diệu, tối đại thượng thừa như thế chứ? Không, không có! Và chưa hề có!

Hành trạng của sơ tổ là vậy, còn Thiền của vị ấy, ta có thể khảo sát từ 4 câu kệ được đúc kết trong bài phú “Cư trần lạc đạo” sau đây: 

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền”.

(Ở đời vui đạo hãy tùy duyên

Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền.

Châu báu trong nhà đừng kiếm nữa

Không tâm đối cảnh, hỏi chi Thiền”.

Ta có thể diễn giải 4 câu thơ ấy, đi theo dòng chảy của cốt tủy Thiền vipassanā:

“Ở đời vui đạo” là cách nói khác của “hiện pháp lạc trú”, tức là an lạc trong hiện tại bây giờ đây, ở đời này, ngay giây khắc này. Về phương pháp lạc trú, vui đạo thì Nikāya, A-hàm hay Hán tạng có cả một tủ kinh, ai muốn tham khảo thì có thể xem (1). Phải biết “tùy duyên” mà sống. Khi ăn uống, nằm ngồi, nói năng, hành động, suy nghĩ đều phải chánh niệm, tỉnh giác... đón nhận mọi việc đến và đi một cách “thuận pháp”, đừng cưỡng cầu, vọng tưởng trái với cái tự nhiên đang là, đang xảy ra, đang cụ thể, thiết thực diễn ra trong hiện tại (thiết thực hiện tại - sandiṭṭhiko). Tứ niệm xứ dạy rằng, đi biết đi, ăn biết ăn, nằm biết nằm, ngủ biết ngủ, suy nghĩ biết suy nghĩ... Vì là một nhà thơ nên Hương Vân đầu-đà nói cho giản dị, khiến cho ai cũng có thể lãnh hội “tâm ấn” được: “Đói thì ăn, mệt thì ngủ”! Lưu ý cho, đây là câu kệ của vị Thiền sư nên xin ai đó đừng hiểu một cách dung tục để dịch câu ấy, đại lược là: “Hễ đói thì ăn, mệt ngủ ‘khì’!”; hoặc nghĩ rằng, tổ dạy “ăn no nằm ngủ” là Thiền - thì thật là oan cho chư Phật và chư tổ ba đời!

Tiếp nữa:“Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính là đây”; đừng rong ruổi Đông Tây Nam Bắc, đừng tìm kiếm ở đâu nữa, châu báu nó có sẵn trong nhà, trong tâm mình, tại đây và bây giờ đây! Hãy sống với hiện tại, hãy để tâm rỗng rang khi đối cảnh. Chỉ có tâm không, tuệ không mới thấy được pháp thực tánh, như thị tánh (sabhāva dhamma). Nếu sống được như vậy thì hỏi Thiền làm chi nữa! Đây chính là Tứ niệm xứ, là vipassanā rồi!

Nói tóm lại, khi Thiền Tứ niệm xứ sang Trung Quốc thì khái niệm, cách nói, sự vận dụng đã mang bản sắc, cá tính của dân Hoa Hạ, không tránh khỏi bàng bạc ở trong đó khói sương của tư tưởng Khổng, Lão. Đại Việt thuở ấy cũng vậy, Trần Nhân Tông đã từ bản sắc văn hóa, căn cơ của người Việt để nói cho người Việt sau khi đã bác lãm, kinh qua chư kinh, chư giáo cùng mọi Thiền, mọi lục. Ai muốn tham khảo, để chứng thực cho điều này thì hãy bỏ công khám phá cái vỉa quặng ẩn sâu trong bài phú “Cư trần lạc đạo” của ngài thì sẽ thấy và hiểu.

Đến đây, ta có thể kết luận mà không sợ áp đặt, là tất cả Thiền của mọi quốc độ, xưa cũng như nay đều được khởi xuất từ Thiền minh sát vipassanā cả thảy.

Còn đạo sư Duy Tuệ? Ta chưa vội đi vào nội dung cái gọi là “cẩm nang” của ông ta, nhưng cụm từ Thiền Minh Triết mà tác giả dịch là Enlightenment Meditation - thì nghĩa nó ra làm sao?

Như đã bàn ở trên, Thiền của ông ta là meditation, Thiền định, không phải Thiền tuệ vipassanā. Nếu là Định sâu, an trú vào các tầng Thiền thì chưa có Tuệ. Còn Minh Triết mà tác giả dịch là Enlightenment thì nó có nghĩa là “khai sáng” hay “giác ngộ”? Tác giả chữ nghĩa cũng có được vài thành, nên biết đâu ông ấy có dụng ý “ngạo mạn” dùng từ Enlightenment có nghĩa là “khai sáng” để khai sáng cho thế gian y như tuyên ngôn của lý trí khoa học thời phục hưng? Nếu vậy là “đại loạn, đại ngông cuồng” rồi! Ông ta đã dùng công cụ của lý trí bất toàn đầy tham vọng cùng với những sở tri chắp vá, vay mượn nhiều nơi để khai sáng cho bao người?! Còn nếu Enlightenment có nghĩa là giác ngộ thì Định (meditation-samādhi), an trú Định làm sao mà giác ngộ? Vậy thì tác giả đã sử dụng từ Minh Triết theo nghĩa nào - hay là ông ta “quay cóp” từ “Minh Triết” của hội “Minh Triết Việt” do Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khởi xướng và cũng là giám đốc điều hành hội này trong hơn mười năm qua? Và đa phần trong đó là các bậc thức giả cha chú, trưởng thượng về tuổi tác cũng như về lãnh vực nghiên cứu, học thuật hàn lâm - hơn ông Duy Tuệ mấy cái đầu kia đấy! Nếu vậy, do sự mù mờ về kiến thức, chắc ông ta cũng chưa hiểu rõ nguồn gốc, xuất xứ của nó?

Thì ông Duy Tuệ hãy chịu khó nghe cho kỹ đây. 

Tôi là người có viết bài tham luận cho hội “Minh Triết Việt” nhân đọc “Minh Triết phương Đông và Triết học phương Tây” của Triết gia Francois Jullien, người Pháp. (Bản Việt dịch - chủ biên: GS. Hoàng Ngọc Hiến, GS. Lê Hữu Khóa - NXB Đà Nẵng, 2004). Ở đó, tôi có đóng góp thêm ý kiến với vị triết gia khả kính này về Minh Triết của Phật. Và sau khi làm một cuộc so sánh, tỷ giảo, tôi đã chứng minh được, là Minh Triết của Phật cao siêu hơn Minh Triết của Khổng, Lão qua những tư tưởng khái niệm vô vị, vô vi, vô ý, vô cố, vô tất, vô ngã... là ở chỗ nào và như thế nào. Cố học giả uyên bác Hoàng Ngọc Hiến rất “hứng thú” về bài viết có “tính phê phán rất nhẹ nhàng” ấy của tôi, lẫn cả “vỉa quặng” Minh Triết Phật và Minh Triết Việt mà tôi có nêu ra trong bài. Trong hai lần ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng, đi cùng Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, PGS.TS Trần Thị Băng Thanh với một số vị học giả, nhà nghiên cứu khác - cụ Hoàng Ngọc Hiến có nói với tôi rằng: “Triết gia Francois Jullien cũng biết vậy, biết những điều sư nói, nhưng thế giới tư tưởng Phật giáo mênh mông quá nên ông ta ‘chưa dám’ bước vào!” Nói vậy chỉ để nhắc nhở ông Duy Tuệ, rằng là, không rõ ông có hiểu gì về Minh Triết của Phật không, mà dám cả gan sử dụng cụm từ “Thiền Minh Triết” làm nhãn hiệu để rao giảng đó đây, trong lúc triết gia nổi tiếng đương đại Francois Jullien,  người Pháp kia cũng chưa dám bước vào? Cho đến đổi, từ thuở bình minh của triết học phương Tây, đối với Minh Triết (sagesse) chư vị triết gia cổ đại Hy Lạp cũng “kính nhi viễn chi” không dám bàn đến! Họ chỉ biết cúi đầu, chấp tay cung kỉnh tôn vinh nó, vì “Minh Triết là của thần, con người chỉ có thể quý kính nó chứ không thể vươn tới nó được”. Từ sagesse (Minh Triết), tiếng Pháp thì Anh dịch là wisdom, Nga dịch là mudrost; rồi cũng từ đó, nội dung trường nghĩa được kiến lập từ “tư duy lý tính” mà chúng ta hiểu ngày nay là tuệ trí, duệ trí, tài trí, minh trí, trí thức, học thức, thông minh... không biết đã với tới cái sagesse kia chưa? Những triết gia cổ đại Hy Lạp người ta rất là khiêm tốn dù sở học bác lãm, mênh mông; còn ông Duy Tuệ học hành “i-tờ-rít” gì mà dám cả gan mạo phong đạo sư để đi dạy Thiền Minh Triết khắp nơi trong nước, sang cả các quốc gia châu Âu, châu Mỹ?...

Còn Đông phương thì nói gì về Minh Triết? Tôi sẽ chỉ cho ông Duy Tuệ thấy luôn.

Nó có cũng đã từ lâu lắm! Dịch, Thi, Thư... chúng có bàng bạc, rải rác từ thời thượng cổ, sau Khổng Tử san định lại mà thành. Khổng nói lại trong Kinh Thi: “Ký minh thả triết” (sáng suốt, thấu đáo mọi việc); từ đó “dĩ bảo kỳ thân” (dùng để bảo vệ bản thân cho khỏi trái đạo). Trong Kinh Thư thì có “Duệ triết văn minh” (văn minh trí tuệ); “tri chi viết Minh Triết” (hiểu biết sự việc gọi là Minh Triết). Vậy cả Đông và Tây đều có cùng một trường nghĩa giống nhau về Minh Triết.

Tóm lại, Thiền và Minh Triết khi đã tra cứu tận ngọn nguồn, từ đó, chúng ta sẽ lần lượt mổ xẻ Thiền Minh Triết của vị “đạo sư” này ra sao! Trong cái “hồ lô” của ông ta đựng những gì! Ông ta có đi từ những Minh Triết mà chúng ta vừa khảo sát khi lập ngôn “Thiền Minh Triết”? Hay ông ta như mọi người phê phán hết chữ, hết lời - là một “quái vật”, tự mình đẻ ra một “quái thai”, gầy dựng một phong trào “quái đản”, rao giảng những điều “quái gở”, cùng một số người “quái dị” nghe và tin theo ông ta một cách “quái cuồng”? Ai muốn biết cái uy lực và hiệu ứng đô-mi-nô của tiếp thị, quảng cáo, của truyền thông điện tử thời đại tin học ngày nay thì cứ đi lần theo cái địa chỉ email của daosuduytue@yahoo.com thì sẽ thấy cả một đống hỗn mang, một cái gì bất bình thường y như tâm thần vậy; người ta nói là còn bài bản hơn, xảo trí hơn, “quái chiêu” hơn, “quái kiệt” hơn, “quái quỷ” hơn hiện tượng Thanh Hải vô thượng sư nữa. Chúng ta hãy chịu khó bỏ chút thờ giờ vào trong mà xem một tí (tôi ghi nguyên văn):

“1- Sự phát triển của chương trình học và thực hành Thiền Minh Triết.

Các buổi thuyết giảng, chia sẻ trải nghiệm của Thiền Minh Triết do Đạo sư Duy Tuệ thuyết giảng nhiều năm qua với hàng trăm người nghe trực tuyến tại nhiều nước được cập nhật, đăng tải và chuyển thành bài viết, clip qua trang web: ww.daosuduytue.com ; www.duytue.com và ww.ungdungphathoc.vn với hàng trăm lượt đọc, lượt nghe mỗi ngày. Những bài viết, những bài giảng được biên tập và chuyển tới cộng đồng và bạn bè quốc tế qua nhiều đầu sách đã xuất bản và phát hành bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Nauy và đang tiếp tục được chuyển ngữ sang tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Thái, tiếng Trung. Trang web www.duytue.com cũng đang được chuyển ngữ sang tiếng Anh và tiếng Pháp.

Các clip, bài giảng cũng được các Hiền Giả Minh Triết tuổi trẻ chia sẻ trên các mạng xã hội với hàng ngàn thành viên tham gia như Facebook, Tagged, Youtube...

1.Thiền Minh Triết đã được áp dụng tại hầu hết các tỉnh thành trong cả nước.

- Thiền Minh Triết áp dụng cho các Câu Lạc Bộ Trần Nhân Tông thuộc Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng Phật học Việt Nam.

- Thiền Minh Triết đã phát thanh trên Đài tiếng nói Việt Nam 12 buổi liên tiếp trong chương trình CLB Người cao tuổi. Cẩm nang Thiền Minh Triết được Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng Phật học Việt Nam gửi tặng các CLB Người cao tuổi cấp huyện trên toàn quốc.

- Thiền Minh Triết được đưa vào áp dụng cho Trung tâm cai nghiện, Trung tâm hướng thiện, Trung tâm bảo trợ xã hội...

- Thiền Minh Triết được áp dụng trong Hội người mù Lâm Đồng, Hội người mù Khánh Hòa...

- Thiền Minh Triết được áp dụng cho tuổi trẻ qua các CLB Trần Nhân Tông Tuổi Trẻ Thăng Long và CLB Trần Nhân Tông Minh Triết Tuổi Trẻ Phía Nam, thuộc Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng Phật học Việt Nam; qua Diễn đàn tuổi trẻ tiếp cận hành trang vào đời sống Minh Triết.

- Thiền Minh Triết được áp dụng cho viên chức, doanh nhân, học sinh, sinh viên, người thành thị và nông thôn qua hệ thống nghe giảng online, sách, CD, VCD và DVD.

- Thiền Minh Triết được áp dụng trong (sic) các học giả, nhà trí thức qua các buổi Hội thảo do Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng Phật học Việt Nam tổ chức.

       - Thiền Minh Triết được áp dụng cho tăng ni, phật tử qua các buổi giảng trực tuyến của Đạo sư Duy Tuệ và qua hệ thống sách và ấn phẩm phát hành.

2. Thiền Minh Triết được áp dụng tại các nước: Na Uy, Đan Mạch, Hà Lan, Úc Châu, Cộng hòa Séc, Slovakia, Hoa Kì, C H Pháp, Thái Lan...

- Thiền Minh Triết được truyền tải qua hệ thống online và các cuộc thăm viếng của Đạo sư Duy Tuệ tại các nước.

- Tại Na Uy, Hà Lan, Đan Mạch đã hình thành các hội Thiền lấy tên Trần Nhân Tông và hoạt động áp dụng Thiền Minh Triết hơn 6 năm nay. Tất cả các Hiền giả Minh Triết tại những nước này đều nhiệt tâm phát đại nguyện truyền bá Thiền Minh Triết đến cho mọi người, mọi nhà để góp phần xoa dịu nỗi đau của con người.

- Tại Úc Châu: Hội Thiền Trần Nhân Tông Minh Triết Úc Châu đã có giấy phép chính thức hoạt động vào tháng 11 năm 2009.

- Hiện nay, tại Hoa Kì đang chuận bị để ra đời Hội Thiền Minh Triết Trần Nhân Tông Hoa Kì.

- Chương trình cũng đang phát triển tại CH Pháp với một nhóm Hành giả Minh Triết trẻ trung, đầy năng lực và nhiệt huyết phát triển trong giới trẻ và từng lớp trí thức”.

 

Thật là kinh khiếp phải không chư vị thức giả? Tôi là tu sĩ, có tu học mấy phần, có chút nhẫn, chút xả mà cũng “rợn cả tóc gáy” những chiêu thức quỷ ma của tà đạo mượn danh chánh đạo thời nay - ở đây, ông ta mượn “vỏ Thiền” của Trần Nhân Tông:

Đành phải “hạ” một câu sáu tám nữa:

“Quái cuồng, quái quỷ, quái chiêu”

Là Thiền Minh Triết chợ chiều xúm mua”.

 

(Đón xem hồi thứ hai)

 


 

 

 

Hồi Thứ Hai:

Vấn đề của cái đầu

 

Ông ta thuyết giảng (tôi giữ nguyên văn):

1-“ Hằng ngày, chúng ta phải giải quyết bao nhiêu công việc đang bày ra, phải giải quyết bao nhiêu tình huống bất bình, phải đối đầu với bao nhiêu tình huống chưa tìm ra lối thoát. Ví dụ như chồng hay vợ làm những việc, nói những lời lẽ mình không sao giằn được cơn tức giận. Con cái không nghe lời, cha mẹ chồng hay cha mẹ vợ làm quý vị bực mình khó xử, hoặc chàng rể hay nàng dâu nói năng, cư xử làm cho quý vị đau lòng. Hoặc trong anh chị em ruột, anh chị em vợ hay chồng làm mình khó chịu. Hoặc người yêu hay bạn bè phản bội. Đặc biệt về tình trạng kinh tế, tài chính khó khăn làm đảo lộn cuộc sống hay công cuộc làm ăn của mình, thấy mình sa sút so với bạn bè, làm cho mình lo âu, sợ hãi, mất ngủ, quên ăn, mất hết hy vọng, thân hình tiều tuỵ, gây ra bao nhiêu bệnh hoạn như nám mặt, lao phổi, nóng gan, suy thận, cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não... Nói tóm lại là các hoàn cảnh bên ngoài làm cho đầu óc của mình bất an, khó chịu và thường xuyên có nhiều cảm xúc tiêu cực, lúng túng trong cách giải quyết, bực tức, giận hờn, đau khổ chẳng hạn.

Ngoài những cảnh bên ngoài như vậy, còn bên trong đầu óc quý vị, các suy nghĩ cứ tự động xảy ra gây nhiều cảm xúc khó chịu, làm việc mất tập trung nên hiệu quả công việc không cao và thường gây ra sai lầm.

Hoặc vì nhiều lí do khác đã làm cho gương mặt của quý vị không được tươi vui, hồn nhiên, phải dùng đến các phương pháp của thẩm mỹ viện hay các mỹ phẩm. Nhưng rốt cuộc cũng không gây được cảm tình, trìu mến, yêu thương của người khác.

Các vấn nạn này đang đưa quý vị vào một đời sống thật sự chật chội và vô nghĩa, bất hạnh. Cuộc sống đặt ra cho quý vị nhiều vấn đề phải giải quyết không dễ chút nào, giống như học sinh đứng trước những bài toán khó, không sao giải được, bởi đầu óc con người rất hữu hạn mà những công thức thì biến hoá khôn lường, có khi vừa tìm được cách giải thì nó lại chuyển sang loại hình khác”.

Xem những cụm từ gạch đáy, quý vị thấy có cái gì mới lạ không? Cái nhận thức thực trạng mọi đau khổ như kể trên, một trí thức tầm tầm cũng thấy được, cũng biết được. Và có lẽ một nhà xã hội học, một nhà tâm lý học còn giỏi hơn, con chuyên sâu hơn, còn giải mã, nói năng thuyết phục hơn cả ông ta nữa đó!

Như vậy cái bài văn “mào đầu” của ông ta chỉ là trình độ phổ thông của Phật học, ông đã “trích” một giọt nước từ trong lòng đại dương sự-thật-về-khổ (dukkha-sacca) của đạo Phật đó thôi. Đã học được chút ít từ kho tàng vô giá của đạo Phật như thế mà ông ta còn cả gan chỉ trích đức Phật, đức Pháp và đức Tăng. Hãy theo đường dẫn của Google để xem mọi người phản bác và  “buồn lòng” về ông như thế nào! (1).

Ông ta nói tiếp:

2- “Vấn đề chính là ở cái đầu. Để giải quyết tất cả các bài toán biến hoá của cuộc đời, chúng ta phải tập trung giải quyết chuyện của cái đầu, rồi thì cũng sẽ chẳng cần giải quyết bài toán nào nữa cả! Để giải quyết rắc rối của cái đầu, trong hơn mười năm qua, tôi đã chia sẻ cho rất nhiều vị nhiều phương pháp khác nhau và hầu hết đều đem lại kết quả tốt đẹp cho đời sống tinh thần và vật chất của họ. Tinh thần ổn định hơn, đời sống vật chất phát triển êm dịu hơn và ứng xử thành công hơn trước khi thực tập. Tôi tạm dùng ba chữ Thiền Minh Triết để chỉ cho các phương pháp ổn định cái đầu”. 

 Sau khi tìm ra thủ phạm là cái đầu, vị “đạo sư” này chưa chỉ cho mọi người phương pháp ổn định cái đầu của mình - mà ông ấy cho mọi người biết rõ là mình đã kinh nghiệm điều ấy, đã “giác ngộ” điều ấy ra sao:

Trước khi quý vị đi vào nghiên cứu và thực tập một số bài Thiền Minh Triết, tôi muốn chia sẻ cùng quý vị nguyên nhân có những bài Thiền này.

Tôi tự cho rằng mình cũng không nằm ngoài những hiện tượng của các bậc tiền bối xưa nay từng trải qua, đó là hiện tượng tình cờ được vào trạng thái bừng sáng bên trong để hiểu rõ chính cái đầu của mình.

 Từ sự kiện trọng đại này, tôi đã thay đổi hoàn toàn, giống như một con người vừa sinh ra và cũng lại chính con người thay đổi đó đã thoát ra khỏi lịch sử đương đại.

 Từ sự thay đổi hoàn toàn này, tôi sống trong hạnh phúc ngập tràn do cái nhìn từ cái đầu không có nguyên liệu cho bộ máy suy nghĩ hoành hành. 

Cũng từ đây, tôi nhìn thấy được sự thất vọng, tuyệt vọng, bế tắc, đối đầu, hoang mang… và sự hoảng loạn không lối thoát của con người.

 Dẫu bất cứ ai đang đóng bất cứ vai tuồng nào trên đời, và dù loài người đã cố tìm ra nhiều con đường giải toả những bế tắc ấy nhưng đến nay vẫn chưa có con đường nào làm yên lòng nhân loại. 

Đồng thời, tôi cũng nhận ra con đường sống thật phúc lạc không điều kiện cho những ai lắng nghe không thành kiến những điều tôi chia sẻ!”

Quái lạ! Thật là quái lạ ở trong câu này: “Trong giây phút tình cờ, bên trong ông bừng sáng, không cung cấp nguyên liệu cho cái đầu nữa!” Vậy là sao ha? Không cung cấp nguyên liêu cho cái đầu nữa, nên chắc chắn trong lúc ấy, là từ trong “vô thức, vô tri”... ông ta thấy những thực trạng đau khổ chung chung kia là do tức giận, bất bình, sợ hãi, lo âu... kéo theo tâm bệnh, thân bệnh.

Ông ta nói cũng như các bậc tiền bối xưa? Vậy vị tiền bối xưa ấy là ai mà lại “tình cờ” đi vào “trạng thái bừng sáng bên trong”, mới hiểu rõ chính cái đầu của mình - như của ông vậy?  Viện dẫn tiền bối nào đó là hoàn toàn dối láo, do ông tự “phịa” ra, vì lịch sử cổ kim Đông Tây, các vị giáo chủ, các vị chân sư, đạo sư, Thiền sư, hiền triết, triết gia... không có ai lập thuyết, lập ngôn, đưa ra một hệ tư tưởng mà do “tình cờ” cả. Ai cũng tu tập, hoặc suy tưởng, trầm tư đến “sói trán, lỏng óc” mới có kết quả được! Hãy chỉ cho tôi nghe một cái tên thử xem nào! Một cái tên thôi? Là tôi lạy ông làm sư phụ và tôi sẽ đốt hết thư viện kinh sách không thèm đọc nữa! Hãy nghe cho kỹ đây: Chỉ có các nhà khoa học, đôi khi phát kiến một định luật, định lý nào đó thì có một số trường hợp do tình cờ. Ví dụ như quả táo của Newton - nhờ quả táo rụng trúng đầu mà ông tìm ra sức hút của quả đất, sau đó mới có định luật “vạn vật hấp dẫn” ra đời! Ví dụ như nhà khoa học Archimède khi đang tắm trong bồn, cảm thấy cơ thể mình bị nước nâng lên; vui sướng quá, ông để trần truồng như vậy, chạy la hét giữa đường “Ơ-rê-ka!... Ơ rê-ka!” (Ta tìm thấy rồi!... Ta tìm thấy rồi!), sau đó cho ra đời định luật sức đẩy của nước, được gọi là “lực đẩy Archimède”. Cả hai đều là do ngẫu nhiên, tình cờ mà phát kiến hai định luật ấy!

Ông Duy Tuệ nói là do “tình cờ”, ông được đi vào “trạng thái bừng sáng bên trong”, khi ấy mới “hiểu rõ chính cái đầu” của mình!  Như vậy, gốc nguồn sự “giác ngộ” của ông ta là do “tình cờ”, tình cờ nó rơi vào trạng thái “bừng sáng bên trong”! Đây là một trong những tà kiến sai lầm có từ thời cổ Ấn Độ - khi chúng rơi vào những chủ thuyết bất khả tri, do không thấy, không biết gì cả, nên đổ vấy cho tình cờ, cho ngẫu nhiên, cho tất định, cho phiếm định hay cho Thượng Đế... Vậy, ông ta không phải từ tu tập Định, Tuệ mà có, chỉ do tình cờ, ngẫu nhiên thôi! Ôi! Bậc trí trên đời này, có ai tin điều ông ta nói không?

Tiếp nữa, ông cảm giác hạnh phúc ngập tràn do cái nhìn từ cái đầu không có nguyên liệu cho bộ máy suy nghĩ hoành hành”. Đây là cái gì vậy? Là làm rỗng cái đầu, đừng cho nó một nguyên liệu nào thì cái đầu sẽ không có nguyên liệu cho cái bộ máy ấy suy nghĩ nữa! Ôi! Chỗ này thì ông ta sai lầm trầm trọng rồi. Sai lầm cái chỗ căn để nhất, chứng tỏ ông ta mù tịt về cái tâm, cái trí và cả cái suy nghĩ ! Ông ta chưa hề minh sát để thấy rõ cái tâm, cái trí, cái suy nghĩ của chình mình vận hành ra sao, duyên khởi ra sao! Người học Vi diệu pháp (Abhidhamma), Duy Thức hay ai có tu nội quán, minh sát, hay Thiền định đều biết rõ, thấy rõ - vì họ theo dõi chúng mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi hơi thở.

 Tâm (citta), có ngữ căn “cit” là suy nghĩ nên đồng nghĩa với thức (viññāṇa), nhận biết. Suy nghĩ là suy nghĩ về cái gì, nhận biết là nhận biết viết về cái gì - bao giờ nó cũng có đối tượng. Không có đối tượng, tâm hay thức không biết được cái gì cả. Bản chất của thức hay tâm là tìm kiếm, nó luôn luôn tìm kiếm không bao giờ ở yên - như tâm viên, ý mã là vậy. Từ thức, từ tâm nhận thức ban đầu ấy mà phân biệt phải trái, đúng sai, tốt xấu, biện biệt, so sánh, tỷ giảo điều này việc kia mới gọi là trí (ñāṇa).

Không cung cấp nguyên liệu cho bộ máy suy nghĩ, có nghĩa là không cho nó một đối tượng nào, một thức ăn, một nguyên liệu nào thì khi ấy được bừng sáng ư? Xin thưa, chỉ có Thiền định đi qua 5 Thiền chi để loại trừ 5 triền cái (1)để đi vào sơ Thiền thì bộ máy suy nghĩ ấy mới không còn nguyên liệu. Và nếu ở trong định sơ Thiền thì hành giả không biết gì cả (2), tuệ không bừng sáng gì cả mà chỉ an trú, thọ hưởng hỷ và lạc của định này mà thôi. Muốn suy nghĩ trở lại, thì hành giả phải từ bỏ định an chỉ, rời xuống cận hành định mới có “tầm (tìm kiếm) và tứ (suy nghĩ)” khi ấy mới khởi ý niệm, tư duy được.

Như vậy, ông Duy Tuệ “làm rỗng đầu óc bằng cách nào” hay lại đổ dối “cho tự nhiên, cho tình cờ”? Phát ngôn không trách nhiệm, phát ngôn khi mình chưa hề tu, hề chứng, chưa hề biết cái tâm, cái trí, cái suy nghĩ của mình - cái gốc của các pháp là cái chi chi - mà dám mạo lạm đạo sư giảng nói cho thiên hạ nghe! Thật không biết trời cao đất dày ra sao, dám múa gậy vườn hoang, tưởng thế gian này ai cũng mù mắt, mù tai như đám đệ tử gà mờ của ông rồi phán thế nào cũng được hay sao?

Ta hãy theo dõi tiếp, xem ông ta còn nói những gì trong cơn mê sảng của mình: Dẫu bất cứ ai đang đóng bất cứ vai tuồng nào trên đời, và dù loài người đã cố tìm ra nhiều con đường giải toả những bế tắc ấy nhưng đến nay vẫn chưa có con đường nào làm yên lòng nhân loại”. 

Loạn rồi! Tăng thượng mạn rồi! Điên thật rồi! Từ xưa đến nay chỉ có y, Thiền Minh Triết của y mới cứu được nhân loại thôi! Chính ông ta, ông ta cũng không biết mình đang đóng vai tuồng gì, khoác cái vỏ bản ngã hư dối nào mà xem nhân loại cổ kim như cỏ rác vậy!

Rồi ông còn khuyên: Đồng thời, tôi cũng nhận ra con đường sống thật phúc lạc không điều kiện cho những ai lắng nghe không thành kiến những điều tôi chia sẻ!”

Cái “phúc lạc không điều kiện”, gốc nguồn ở đâu vậy? Xin thưa, cũng là của Phật đó - tức là muốn nói đến hạnh phúc Niết-bàn vô vi, vô lậu, vô hành, vô tạo tác ở ngoài mọi điều kiện, mọi sự kết hợp hữu vi. Ông ta “đang ở trong vô thức, vô tri tình cờ bừng sáng bên trong”, không biết Định là gì, Tuệ là gì lại rao giảng Niết-bàn. Lại còn ai “lắng nghe không thành kiến” những điều ông chia sẻ cũng nếm thưởng hương vị Niết-bàn như ông ta!

“Lắng nghe không thành kiến!” Hay đó! “Lắng nghe với đầu óc rỗng, lắng nghe với tâm trí không chứa chấp cái biết chủ quan” nào cả! Lắng nghe trước khi làm rỗng cái biết của mình đi, có phải tương tợ như chung trà của vị Thiền sư với ông giáo sư đại học. Câu chuyện như sau:

“Một vị giáo sư đại học đến bái yết một Thiền sư xin học Thiền. Lúc mời trà, làm như vô tình, bình trà trên tay vị Thiền sư cứ rót mãi vào cái chung của khách, nước tràn ra ngoài. Vị giáo sư nói: “Nước đầy tràn kìa, thưa thầy”. Lúc ấy, vị Thiền sư mới ngưng tay, mỉm cười nói: “Ừ, ta biết! Cái đầu của ngài trí thức đây cũng vậy. Nó đầy (kiến thức) quá, rót vào đấy bao nhiêu là nó tràn ra ngoài bấy nhiêu! Một giọt Thiền nó cũng chối từ, không thể! Ngài trí thức phải làm rỗng cái đầu mới rót Thiền vào đấy được!”

Đấy chính là làm rỗng cái đầu! Cao nhất là lắng nghe với tâm không, tuệ không. Thấp nhất là lắng nghe với đầu óc không “nêm chật” sẵn đầy cái biết, không thành kiến. Điều này tôi làm được thưa ông Duy Tuệ. Do tu vipassanā và dạy Thiền vipassanā nhiều năm, nên “tai nghe chỉ là tai nghe, âm thanh chỉ là âm thanh” thôi - nên tôi rõ thông cái rỗng kia lắm lắm! Tôi thường an bình, vô vi, vô sự nhờ hồng ân pháp tu Tứ niệm xứ của đức Phật. Ban đầu, tôi cố thử lắng nghe nhiều điều trái tai, trái đạo, trái pháp, trái Thiền, nghịch nhĩ, nghịch tông, nghịch môn, nghịch trí... của ông, tôi cũng muốn “giác sở giác không”! Nhưng vì pháp, vì chánh pháp, tôi phải khởi trí hữu vi để nói với ông rằng: Ông hãy tịch cốc hoặc lên núi 10 năm, vừa nghiên cứu giáo pháp cả hai nguồn Nam Bắc tạng; suy ngẫm, chiệm nghiệm so sánh, đối chiếu rồi sau đó quay lại tâm mình mà nội quán, “kịch liệt” hạ thủ công phu may ra ông mới lãnh hội được tinh yếu về Phật, về Pháp, về Thiền! Nó như rừng thẳm. Nó như biển sâu. Nó như trời cao. Nhưng cái hiểu biết, kiến thức của ông là vỏ sò, vỏ hến, đựng được bao nhiêu? Đấy là chưa kể chứng nghiệm tâm linh!

Và ông có biết rằng, ngay cả cái lắng nghe “không thành kiến” mà ông rao giảng cũng chỉ là một chút xíu, chút xỉu xìu xiu, một “phân tử li ti nước” mà ông đã “hứng” từ suối nguồn vô tận của Phật không? Bây giờ tôi dẫn chứng thêm Bắc tạng, kinh Thủ Lăng Nghiêm, để ông biết là có một cách lắng nghe khác, chắc chắn là nghe đến tận “thâm lâm vượn hú” kia lận! Cũng là vipassanā cả, nhưng được giảng nói bằng ngôn ngữ bác học, đặc như keo, liên kết chặt chẽ, logic không có chỗ nào cho luận sư, ngụy biện sư ma giáo thiên hạ thò bút vào đó được! Ông có biết người tu ấy là ai không? Ai đã học cái nghe này cho tới chỗ tối thượng thừa chưa? Đến cái chỗ mà “sinh diệt diệt rồi, tịch diệt hiền tiền” luôn! Giác ngộ, giải thoát luôn! Đức Quán Thế Âm đó (1)! Hãy nghe đây:

 “ Sơ y văn trung. Nhập lưu vong sở. Sở nhập ký tịch. Động tịnh nhị tướng. Liễu nhiên bất sanh. Như thị tiệm tăng. Văn sở văn tận. Tận văn bất trụ. Giác sở giác không. Không giác tịch viên. Không sở không diệt. Sinh diệt ký diệt. Tịch diệt hiền tiền!”

Tôi dịch thoát cho dễ hiểu mà không rời ý kinh - vì vipassanā cũng nghe như vậy, tôi cũng đã từng nghe như vậy nhiều năm:

“- Bước đầu, y cứ nơi tánh nghe. Cứ nghe một cách miên tục, cố đi vào dòng nghe là chính, đừng để ý đến cái đối tượng nghe. Khi đối tượng nghe đã lặng rồi thì hai tướng động và tịnh tự nhiên nó không còn sinh khởi nữa. Hãy cứ như vậy mà tiến dần lên. Đến khi cái nghe và đối tượng nghe đều đã dứt, đã yên lặng rồi - thì đừng dừng lại, đừng níu giữ, đừng trụ nơi cái chỗ đã dứt và yên lặng ấy. Và ngay nơi cái năng giác (cái biết) ấy và cái sở giác (đối tượng biết) cũng phải không - thì cái ‘giác không’ ấy mới tịch tịnh viên mãn. Rồi cái ‘năng không’ và ‘sở không’ ấy cũng diệt luôn. Khi sinh diệt đã diệt rồi (không bị sinh diệt chi phối nữa - cách nói khác của vô sinh bất diệt) thì ngay lúc ấy là tịch tiệt hiện tiền (Niết-bàn)!”

Vậy là cái “lắng nghe không thành kiến” của Duy Tuệ đã là cái “đinh” gì mà ông ta dám bảo hướng dẫn mọi người nếm thưởng được phúc lạc không điều kiện - tức là Niết-bàn?!  

Thật là hết thuốc chữa! Bệnh “không” thì cho uống thuốc “hữu”, bệnh “hữu” thì cho uống thuốc “không”. Còn kẻ si mê, vô minh cùng với cái kiến thức học “mót” nhưng đại ngã mạn thế kia, có lẽ một đức Chánh Đẳng Giác cũng phải thở dài!

Xin chư vị thức giả cho tôi khởi tâm hữu vi múa chữ hạ bút một câu sáu tám nữa:

“ Đầu óc ‘vô tri’ lắng nghe,

Đá, đất, rác, cỏ... bồ-đề nở hoa!”

 

(Đón xem hồi thứ ba)



 





 

 

 

Hồi Thứ Ba

Trải qua ba kinh nghiệm

 

Khảo sát cái gọi là“Diễn biến những sự kiện bừng sáng bên trong tôi”.

Ông ta nói:

 Tôi kể vài nét chính để chia sẻ với quý vị. Qua bao nhiêu năm tháng ưu tư về bí mật đời người, ý nghĩa cuộc sống, khổ đau của con người… tôi tình cờ đã rơi vào trạng thái hạnh phúc mãn nguyện khi bộ máy suy nghĩ trong đầu bị khoá chặt hoàn toàn”. 

Sự trải nghiệm đặc biệt này xảy ra thường xuyên trong ba năm liên tiếp.

 Đợt trải nghiệm thứ nhất xảy ra hai lần với đặc điểm là trải nghiệm trạng thái hạnh phúc tuyệt diệu khi bộ máy suy nghĩ bị tê liệt hoàn toàn!

 Đợt trải nghiệm thứ hai lặp lại rất nhiều lần trong hơn một năm với đặc điểm là, nhìn thế giới hữu hình trong tình trạng bộ máy suy nghĩ trong đầu bị khoá chặt, vô hiệu hoàn toàn. 

Đợt trải nghiệm thứ ba xảy ra một lần với đặc điểm là, bộ máy suy nghĩ không bị khoá nhưng toàn bộ nguyên liệu cho nó hoạt động bị biến mất hoàn toàn. Mỗi giai đoạn trải nghiệm cho tôi thấy một sự thật hiển nhiên để qua đó ổn định đời sống tinh thần của mình”.

Ông kể lại trạng thái mãn nguyện khi bộ máy suy nghĩ trong đầu bị khóa chặt, nghĩa là trong trạng thái các thức tri không có một đối tượng nào! Người ta thì phải tinh cần tu tập Thiền định một cách miên mật mới đóng 6 căn được, còn ông có lẽ do ma đưa lối, quỷ dẫn đường cho nên tình cờ rơi vào trạng thái ấy. Đây được gọi là “Định-tình-cờ” chăng?! Cái “Định-tình-cờ-ngẫu-nhiên” này chẳng lẽ là Thiền Minh Triết của ông ta? Thôi, ta cứ hãy cố gắng nhẫn nại mở rộng tai mà nghe thêm 3 cái kinh nghiệm của ông:

- Trải nghiệm trạng thái hạnh phúc tuyệt diệu khi bộ máy suy nghĩ bị tê liệt hoàn toàn.

- Nhìn thế giới hữu hình trong tình trạng bộ máy suy nghĩ trong đầu bị khóa chặt, vô hiệu hoàn toàn.

- Bộ máy suy nghĩ không bị khóa nhưng toàn bộ nguyên liệu cho nó hoạt động bị biến mất hoàn toàn.

Trải nghiệm thứ nhất có lẽ do bị tiêm thuốc tâm thần quá liều lượng nên bộ máy suy nghĩ bị tê liệt hoàn toàn. Còn nếu là định sơ Thiền, ý thức bị đóng cửa thì nó sẽ đi từ hỷ, qua lạc, vào cận hành và nhất tâm - như một giấc ngủ ngon không mộng mị.

Trải nghiệm thứ hai, có lẽ do nhờ ông ta mượn mắt tai mũi lưỡi thân ý của người chết mà nhìn thế gian, thế giới nên mọi đối tượng bên ngoài không thấy gì nữa cả. Mà lấy cái gì để thấy?    

Trải nghiệm thứ ba - vẫn suy nghĩ nhưng đối tượng suy nghĩ bị biến mất hoàn toàn!

Tôi sẽ cô đọng lại một lượt nữa:

- Trải nghiệm một: Khóa chặt cái bên trong.

- Trải nghiệm hai: Khóa chặt bên trong để nhìn cảnh bên ngoài.

- Trải nghiệm ba: Không khóa bên trong, nhưng cảnh biến mất.

Thật ra, tôi đã cố gắng vận dụng tâm trí để hiểu nhưng mà không hiểu nỗi ông ta muốn nói cái gì! Và nếu dạy cho người ta tu tập như thế thì có mà “ buông tay dốc thẳm”! Tối như hũ nút!

Tuy nhiên, chỗ này tôi xin tạm mượn “Tứ liệu giản” của Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền. Hay ông ta đã tình cờ tiện tay “cuỗm” “Tư liệu giản” này rồi biến hóa sáng tạo một cách vừa hời hợt vừa khó hiểu như thế?

“- Hữu thời đoạt nhân bất đoạt cảnh

Hữu thời đoạt cảnh bất đoạt nhân

Hữu thời nhân cảnh câu đoạt

Hữu thời nhân cảnh câu bất đoạt”.

Tôi sẽ giải thích cho ông Duy Tuệ để ông hiểu một chút bí kíp Thiền của người xưa, mà ông đã cao ngạo xem họ như cỏ rác, như sau:

“Có lúc, người tu Thiền chỉ dựa vào chính mình, nhắm mắt lại, đóng ngũ căn lại, chỉ lắng nghe tham sân phiền não ở bên trong - đấy gọi là nắm lấy cái “nhân” chớ không nắm lấy cái “cảnh”!

Có lúc, người tu Thiền bước qua cấp độ thứ hai! Ồ, hóa ra, ngoại cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc chi phối nên nó mới sinh ra chuyện này, chuyện nọ. Vị ấy bèn yểm ly, thu thúc để ngăn chặn phiền não, tham sân phát sanh từ đấy. Đây gọi là nắm lấy “cảnh”, để ý cảnh mà không lý gì đến “nhân”!

Có lúc, người tu Thiền bước qua cấp độ cao hơn, sáng ra một chút! Ồ, hóa ra trong ngoài, “nhân cảnh duyên khởi” nên sinh ra mọi thứ, đâu chỉ nhân, đâu chỉ cảnh mà là cả hai, phải quan sát cả trong ngoài. Đấy là “nhân, cảnh” đều phải quan sát chúng.

Có lúc, người tu Thiền phát sanh tuệ giác, thấy rõ hoàn toàn, trong ngoài duyên khởi đều không tánh, đều như thực tánh thì vị ấy không còn dính mắc gì nữa. Đây được gọi là “nhân cảnh đều không đoạt”, cứ quan sát như thực tự tánh nó đến, nó đi theo cửa ngõ “tam giải thoát môn” không, vô tướng, vô tác!”

Nếu ông đạo sư dổm, Thiền sư dổm Duy Tuệ có nghiên cứu qua “Tứ liệu giản” của ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền thì có lẽ ông ta sẽ không đến nổi ngông cuồng nói chuyện trong ngoài, nhân cảnh như kẻ ú ớ mê sảng nói gì chính mình cũng không tự biết! Xót thay! Thương thay! Mà cũng đáng đánh 30 hèo! Ngốc!

Còn những sự thật hiển nhiên sau trải nghiệm nữa. Xem thử ông ta “ngủ mớ” những gì!

Đây, sự thật hiển nhiên thứ nhất:

“Sự thật thứ nhất là có năng lượng hạnh phúc không điều kiện hiện hữu triền miên nơi chính mình. Hạnh phúc hay phúc lạc kì lạ nhất, huyền ảo nhất, rộng khắp nhất, hoàn hảo nhất, sâu thẳm nhất, nhiệm màu (sic) nhất, bền bỉ, ổn định và đáng hưởng nhất mà đời sống do đầu óc suy tính và tác động vào sẽ không bao giờ có được.Trạng thái hạnh phúc kì diệu, vô giá này sẽ xuất hiện khi suy nghĩ không hoạt động được. Trạng thái hạnh phúc này không phụ thuộc vào sự làm việc của cái đầu và dĩ nhiên là không phụ thuộc vào cuộc sống mang tính hình thức. Hạnh phúc hay phúc lạc này là chung cho mọi sự sống của hành tinh này và cho tất cả sự sống của các hành tinh khác”.

Cũng không có gì lạ. Chỉ là lặp đi lặp lại cái hạnh phúc vô điều kiện, mênh mông, rộng khắp, cả tinh cầu, vô lượng tinh cầu khi tiêm thuốc tâm thần quá liều lượng cho những cái đầu óc của chúng sanh trên ba ngàn thế giới tê liệt đi hết! Hiển nhiên là vậy!Khiếp chưa!

Còn sự thật hiển nhiên thứ hai?

Nó đây, cái mặt mũi của nó đây:

Sự thật thứ hai là, quan sát cẩn trọng từ trong đầu óc cho đến bên ngoài đích thực là lẽ sống thật, là sinh mệnh của con người! Quan sát càng chính xác bao nhiêu thì cuộc sống càng hạnh phúc bấy nhiêu. Quan sát giúp đầu óc nhẹ nhàng nhất, mới mẻ và dễ chịu nhất! Trải nghiệm này cho tôi thấy rõ rằng, trong lúc bộ máy suy nghĩ bị khoá chặt không làm việc được thì có một cuộc sống khác thật ổn định hiện ra, đó là đời sống với tính quan sát cẩn trọng chứ không phải là những ý kiến hay ý nghĩ trong đầu óc. Đây là đời sống ổn định, đời sống thật sự là sống chứ không phải suy nghĩ là đời sống thực. Trong lúc sự trải nghiệm xảy ra, bộ máy suy nghĩ đã bị khoá, người đang sống dựa trên quan sát biết rõ bộ máy suy nghĩ bị khoá chặt và đầu óc không thể ra lệnh, không thể hiện hữu các khái niệm về tên gọi cho chính mình, cho các vật thể chung quanh. Mọi thứ mình thấy qua mắt chỉ là những hình ảnh rời rạc của một thực thể thống nhất đang hiện bên dưới chúng. Trọng lượng cơ thể nhẹ hẳn, tất cả đất đá và những đồ vật hằng ngày mình thấy giờ đây hoàn toàn mới và chưa có hay không có tên gọi. Tóm lại, mọi thứ dừng lại ở giai đoạn quan sát. Và ngay lúc ấy, khi tôi rờ vào đâu, nhìn vào đâu đều tự nhiên ứng ra lời giải đáp không nằm trong cái đầu của mình”.

Tôi cố nhẫn nại đọc một đoạn văn câu cú lộn xộn, ý tứ trùng lặp, tư tưởng tối mò để lần ra mấy điểm chính sau đây:

- Quan sát trong ngoài (nhân cảnh) là lẽ sống đích thực, là sinh mệnh của con người. Quan sát chính xác bao nhiêu thì hạnh phúc bấy nhiêu. Nó giúp đầu óc nhẹ nhàng, mới mẻ và dễ chịu nhất.

- Trải nghiệm ấy có được là do “nhân” bị khóa chặt, vô hiệu hóa nó thì có một cuộc sống khác thật ổn định hiện ra; nó giúp cho sự quan sát cẩn trọng hơn - chứ không phải  ý kiến hay ý nghĩa trong đầu óc. Đây mới thực sự là đời sống ổn định, là đời sống thực - chứ không phải suy nghĩ là đời sống thực. Đến chỗ này thì đầu óc không thể ra lệnh, các khái niệm tên gọi (danh khái niệm) về nhân, về cảnh không hiện hữu; còn những hình ảnh (vật khái niệm) rời rạc của một thực thể thống nhất hiện ra. Từ đây, trọng lượng cơ thể nhẹ nhàng và tất cả cảnh, thế giới ngoại trần đều mới mẻ, chưa có hoặc không có tên gọi (không có danh khái niệm).

- Cuối cùng, mọi thứ dừng lại nơi sự quan sát. Và ngay lúc ấy, sờ vào đâu, nhìn vào đâu tự nhiên ứng ra lời giải đáp không nằm trong cái đầu của mình.

Quả thật là mệt khi đọc văn của một đạo sư tâm thần, vĩ cuồng! Có bao nhiêu đâu mà nói dông dài con cà con kê, mù mịt tối tăm như thế kia chứ.

Đây, tôi diễn đạt lại theo thuật ngữ Phật:

- Quan sát trong ngoài, tâm cảnh một cách chánh niệm, tỉnh giác. Vì trong ngoài tâm cảnh duyên khởi, vì “sự sống đang là” chính là duyên khởi căn trần thức, ngoài sự diễn tiến, vận hành ấy, không có sự sống nào nữa cả!

-  Khi tâm không, trí không quan sát thì ta sẽ lần hồi từ bỏ thế giới danh khái niệm (nāma-paññatti), chỉ còn vật khái niệm (attha-paññatti) hiện ra. Ngay khi ấy, trời đất cỏ cây, sum la vạn tượng nó hiện ra mới mẻ, tinh khôi.

- Chỉ quan sát, “minh sát” thế thôi! Và lúc ấy, “trực giác” (từ của tôi dùng) xuất hiện, nó sẽ ứng ra những lời giải mà không qua đầu óc!

Rõ ràng quá chứ! Và chắc chắn, ông Duy Tuệ không nói được như vậy. Thứ nhất, do ông ta chưa có căn bản Phật học. Hoặc thứ hai, do ông ta chỉ muốn dùng “chữ” của riêng mình, hòng lếu láo bảo với mọi người là Thiền Minh Triết do ông ta khai đạo.

Tôi đã làm sáng tư tưởng mù mờ của ông. Tuy nhiên, do cách diễn đạt tối tăm của ông, cho tôi kết luận rằng, ông ta chỉ là kẻ học lóm, chưa tới đầu tới đũa. Và dù ngang cái chỗ dừng lại nơi chỗ quan sát không tư tưởng, không thành kiến như Krishnamurti - thì ông duy trì chúng được mấy sát-na? Rồi vô lượng tham sân si, phiền não nằm lưu niên lưu cữu trong rừng già hoang nguyên, hoang dã, sâu kín  thăm thẳm của nội tâm, ông giải quyết ra sao - không nghe ông nói đến? Lộ trình minh sát tuệ không đơn giản, cũng cần phải công phu miên mật, không chỉ đầu môi, chót lưỡi ba xạo mà được, thưa ông!

Còn nữa, ông muốn nói gì nữa đây.

À, còn sự thật hiển nhiên thứ ba:

“Sự thật thứ ba là khi mọi thứ nguyên liệu của bộ máy suy nghĩ biến mất thì tôi nhìn thấy nguyên nhân gây ra khổ đau cho chính mình là do cái đầu suy nghĩ. Cùng với sự nhìn thấy ấy, tôi thấy năng lượng sang tạo đời sống hạnh phúc và tình yêu vô tận của con người đã bị suy nghĩ tàn phá, khống chế hay che lấp. Trải nghiệm này cũng cho tôi thấy rất rõ bộ óc hay đầu óc hoàn toàn có khả năng làm việc thật hoàn hảo trong trạng thái không chứa bất cứ thứ nguyên liệu nào trong đó như kí ức, kiến thức trong cuộc sống, khái niệm hay triết lí sống cho riêng mình, niềm tin tôn giáo, niềm tin vào một học thuyết hay triết thuyết để xây dựng một xã hội, hay xây dựng một cuộc sống cho cá nhân hay cho gia đình. Không còn một ý niệm hay ý tưởng khuôn mẫu nào cho cá nhân, cho một gia đình, hay cho một cộng đồng quốc gia hay quốc tế. Sau này, tôi tạm gọi là sống và làm việc, yêu thương theo đầu óc mở, không theo khuôn phép nào. Trải nghiệm và nhận biết rằng mọi ý tưởng, khái niệm, chữ nghĩa, ý nghĩ, ý nghĩa của các chữ viết, quan niệm sống, sự tiêm nhiễm các triết thuyết hay học thuyết có thể rơi rụng hoàn toàn trong đầu óc, và không gian trống rỗng vô tận trong đầu óc chỉ mang năng lực nhìn thấy và hiểu biết vô tận sẽ chiếu soi và cho ta biết rằng, thủ phạm gây khổ đau tinh thần (và đôi khi cả thể chất) mà con người cưu mang trong nhiều kiếp chính là suy nghĩ. Và đi cùng với suy nghĩ là con người không nhận biết được điều này, mà trái lại, còn tin tưởng và bám chặt lấy nó, không chấp nhận từ bỏ nó”.

Ta có thể phanh từ trong cái rừng rậm chữ nghĩa ấy, có bốn điểm chính:

- Mọi nguyên nhân đau khổ, đầu óc là thủ phạm.

- Sống và làm việc, yêu thương với đầu óc mở rộng không theo một khuôn phép nào.

- Hãy làm rỗng đầu óc. Đừng cho nó bất cứ một nguyên liệu nào như ký ức, kiến thức, triết lý, học thuyết, niềm tin tôn giáo hay niềm tin vào các định chế xã hội. Không lưu giữ một ý niệm, ý tưởng khuôn mẫu nào cho cá nhân, gia đình, quốc gia hay quốc tế. Khái niệm, chữ nghĩa, ý nghĩa, ý nghĩ cũng tương tự vậy, cho nó rụng hết.

- Khi ấy, đầu óc sẽ là một không gian trống rỗng vô tận, mà năng lượng nhìn thấy và hiểu biết của nó sẽ chiếu soi, nó cho ta biết rằng, sự đau khổ tinh thần và cả thể chất mà con người cưu mang trong nhiều kiếp chính là suy nghĩ. Nhân loại không nhận biết điều ấy, cứ tin tưởng nó, bám chặt nó không chịu buông rời!

Đoạn này cũng chỉ lặp đi, lặp lại, không có gì khác: Thủ phạm là suy nghĩ, là đầu óc; hãy rời suy nghĩ, làm rỗng đầu óc, thế thôi!

Duy Tuệ còn nói tiếp:  

“Qua ba lần trải nghiệm, tôi đã bỏ ra thời gian hai năm để thưởng thức thứ hạnh phúc mà mình chưa bao giờ trải nghiệm. 

Nó gần giống như tôi thấy lại một con đường xưa cũ, con đường mà tạo hoá ban cho loài người tự bao giờ vẫn còn đó, không có một chút bụi bám lên, không có chút tì vết của thời gian do con người quy ước, không có một bóng người đi trên con đường, chỉ mỗi mình tôi. 

Cho dù thật sự cô độc nhưng hoan lạc ngập tràn cho một người đã vượt ra khỏi lịch sử về tuổi tác, nguồn gốc, hình tướng, màu da, tiếng nói, kiến thức, học thức, ngôn ngữ và văn hoá cũng như văn minh.

 Tôi tự biết đây là con đường tuyệt vời dành cho loài người vẫn còn bị che dấu bên dưới đầu óc của mình. Không có lối vào con đường này nhưng hơn mười năm qua, tôi hết sức cố gắng để đưa những đệ tử thiêng liêng cao quý đi cùng tôi và truyền sự màu nhiệm của con đường này cho cuộc sống của họ với mọi người chung quanh.

Cũng có thể nói theo cách khác là, ba giai đoạn trải nghiệm đã đưa đầu óc tôi vào thế giới sáng tạo ra vô lượng, vô biên các con đường để chẳng những dẫn đến chấm dứt hoàn toàn sự khổ đau, mà còn cho ra những con đường khai mở khả năng rộng lớn đến vô tận của sự sáng tạo, của tình yêu, của sự làm việc trong đời và của sự hưởng thụ trọn vẹn cuộc đời đầy chông gai, bão táp và thiên biến vạn hoá này.

 Sau ba lần trải nghiệm như nói trên, tôi bắt đầu tập thành thói quen một số phương pháp để giữ bền vững không gian Minh Triết trong đầu óc mình và tôi thật sự hạnh phúc!

 Đến tận bây giờ, tôi cũng vẫn thường xuyên quan sát và theo dõi các diễn biến trong đầu óc của mình.

 Tôi lấy sự quan sát làm lẽ sống của mình, coi nó là đời sống thật, là hơi thở cho Minh Triết trong đầu óc và lấy việc không tin vào suy nghĩ của mình làm lẽ sống cho riêng mình.

Tôi thật sự hạnh phúc”!

Đoạn này lặp đi, lặp lại cũng đã cũ mòn, khuôn sáo - nhưng nổi bật cái mà nhà báo ngày nay hay gọi là tự sướng -“tự sướng bản ngã”. Rồi còn “than vãn” trong hoang vu rừng rậm, là tôi cô đơn, tôi một mình đi trên con đường ngàn xưa, con đường mà “tạo hóa” ban cho loài người, vẫn còn đó, không bụi bặm, không tì vết của thời gian và quy ước, không một bóng người, không có ai đi trên đó, “thui thủi” chỉ mỗi một mình tôi!

Mọi người nghe rõ cả đấy chứ? Đức Phật lúc tìm ra Bát chánh đạo ngài cũng nói tương tự thế nhưng lại vô cùng khiêm tốn: Là Như Lai không sáng tạo con đường, mà chỉ là người phanh lần ra con đường xưa cũ của chư Chánh Đẳng Giác đã đi trong quá khứ. Đấy, một vị Chánh Đẳng Giác mà còn noi theo chư Chánh Đẳng Giác đi trước; còn con đường của ông ta là do “tạo hóa” ban, và từ xưa đến nay chỉ có “mỗi một mình ông ta” đi thôi!

Viết đến đây tôi chợt muốn khóc giùm ông ta, muốn ngậm ngùi rơi giọt lệ như Trần Tử Ngang:

 “ Tiền bất kiến cổ nhân.

Hậu bất kiến lai giả

Niệm thiên địa chi du du 

Độc sảng nhiên nhi thế hạ!”

Tạm dịch:

“Ngoảnh trước mặt, người xưa chẳng thấy.

Trông sau lưng, quạnh quẽ không ai.

 Gẫm suy trời đất dặt dài

Mình ta hạt lệ u hoài mà thương!”  

Tôi cũng chạnh lòng mà xót thương cho ông Duy Tuệ như thế đó! Ôi, là “ba sự thật hiển nhiên” của ông ta đã làm cho tượng đồng vô tri phải toát mồ hôi mà tượng đá vô tình cũng phải rỏ lệ!

 

(Đón xem hồi thứ tư)





 

 

 

HỒI THỨ TƯ

Ba thời kỳ của cuộc đời

 

Về sự phân chia cuộc đời ra làm ba thời kỳ, ông giảng:

“Để minh hoạ cho dễ hiểu về các trải nghiệm nêu trên, tôi tạm chia cuộc đời tôi ra làm ba thời kì, và thời kì sau cùng tạm gọi là đời sống hạnh phúc. Tôi cũng đã nói những điều này trên skype cho nhiều người nghe. Ba thời kì đó là:

- Thời kì nước mắt hồn nhiên của tuổi thơ

       - Thời kì nước mắt của sự trả giá trong cuộc đời do vô minh, chưa hiểu về bí mật của cái đầu.

- Và thời kì nước mắt xuất hiện của sự trở lại bản tính hồn nhiên trong bộ não già cỗi.

Thời kì thứ hai là rất cần thiết! Nó là điều kiện không thể thiếu cho thời kì thứ ba. Không thể thiếu cho tình yêu và trí tuệ Minh Triết nở hoa trong thời kì thứ ba.

 Ở thời kì thứ hai, do sự trả giá với cuộc đời mà nhiều người muốn trốn tránh áp lực cuộc đời nên cố nghĩ ra một thế giới chứa chấp sự trốn chạy của mình. 

Đến thời kì thứ ba, rất giống thời kì thứ nhất, chẳng có nhu cầu đi về đâu sau cái chết. Quý vị có thể nói đến thiên đàng cho một em bé được không? Em bé đang ở trong thiên đàng của chính đầu óc nó và của cuộc sống chung quanh.  Nó thật sự không có nhu cầu thiên đàng. Đây là thời kì trưởng thành của con người nhưng con người chưa đủ khả năng nhận biết, phải chờ đến thời kì thứ ba vậy.

Nói đến hạnh phúc hay trưởng thành là nói đến sự thăng hoa về tinh thần, về đầu óc chứ không nói đến kiến thức, quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế hay thế quyền hoặc thần quyền. Chữ “quyền” không nằm trong phạm trù trưởng thành hay hạnh phúc.

Trong hơn 10 năm qua, dù thiếu thốn cực khổ đến đâu, dù chịu bao nhiêu sự ghen tị, tị hiềm bởi tính ích kỉ của con người, tôi cũng vẫn giữ vững một đại nguyện, một tấm long làm phước giúp cho con người nhìn thấy và thực hiện con đường làm cho cái đầu an ổn. Từ người trẻ đến người già, khi lắng nghe và thực hành bài quan sát hơi thở, đầu óc và các cảm xúc của mình đều được thay đổi rất lớn. Những vị có sự thay đổi lớn là những vị lúc nào cũng gần gũi, lắng nghe và thực hành những điều tôi chia sẻ.

Để có thể bước vào giai đoạn thứ ba của cuộc đời, sự tập luyện là cần thiết chứ không phải góp nhặt kiến thức là cần thiết. Tôi khuyên quý vị không nên phát triển kiến thức về con đường này. Bởi bất cứ thứ kiến thức nào cũng làm cho quý vị tiếp tục đắm chìm sâu vào giai đoạn trả giá với cuộc đời. Kiến thức không đem lại sự thay đổi ngược chiều để tận hưởng hoan lạc trong giai đoạn thứ ba này. Chỉ có một cách hiệu quả nhanh nhất và hy vọng nhất là nên nghi ngờ những gì mà mình hiểu biết và tìm nhiều cơ hội gần gũi tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn cố sáng tạo ra vài phương pháp để giúp quý vị tự tìm hướng tiếp cận con đường xưa.

Từ trong thực tế rèn luyện tự thân thành người lấy thói quen quan sát làm lẽ sống của mình, từ thực tiễn kết quả của biết bao nhiêu người học tập với tôi trong hơn mười năm qua, tôi tạm sáng tạo ra một số bài tập để giúp cho nhiều người trên khắp thế giới thực tập mà hưởng thụ cuộc sống tươi đẹp hơn! Chúng tôi lần lượt hình thành các Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Minh Triết vào đời sống trên nhiều quốc gia. Các Trung tâm này sẽ là nơi hướng dẫn cho những ai quan tâm đến đời sống an tâm, thành đạt, và hạnh phúc.

Dưới đây là vài phương pháp thực hành để giúp quý vị có thể lặn xuống bên dưới dòng sông suy nghĩ và cảm xúc.

Bây giờ đi vào chi tiết của Thiền Minh Triết”.

Đọc ba thời kỳ nêu trên, ai cũng hiểu cả rồi.

Tuy nhiên, khi phân chia như thế, không biết ông Duy Tuệ có biến thể từ câu chuyện “Núi là núi, sông là sông” của Thiền tông không?

Nó đây, theo cách diễn đạt của tôi:

“Sải tôi trước đây 30 năm khi chưa học đạo Thiền thì thấy sông là sông, thấy núi là núi. Khi đang học đạo Thiền thì sãi tôi thấy sông không phải sông, thấy núi không phải núi. Khi ngộ đạo Thiền rồi 30 năm sau, sãi tôi thấy sông vẫn là sông, thấy núi vẫn là núi thôi!”

Rất là dễ hiểu. Người phàm phu, bình thường trên thế gian gọi sông là sông, núi là núi trong thế giới khái niệm quy ước (paññatti) là giai đoạn một, khi chưa tu. Giai đoạn hai, khi đang tu, người ấy minh sát mình và ngoại giới, tất thảy chỉ là những yếu tố đất nước lửa gió kết hợp lại với nhau mà giả danh gọi tên này hay vật nọ. Ví dụ, cái bàn, chỉ là sự kết hợp của ván, gỗ, đinh và ý niệm của người thợ - nên giả danh gọi là cái bàn. Rời các yếu tố tạo nên cái bàn, cái bàn không hiện hữu, không có trong thế giới thực, chỉ tồn tại nơi ý niệm của con người. Sông, núi và tất thảy sum la vạn tượng, tên gọi này tên gọi kia đều chỉ là giả danh! Từ giai đoạn hai, sang giai đoạn ba, người tu Thiền đã thấy rõ (giác ngộ) cái thực, như chân như thực (sabhāva-dhamma), không còn bị ràng buộc bởi thế giới khái niệm, quy ước ấy nữa nên thung dung, tự tại cả hai bờ, giờ thấy sông cứ gọi là sông, thấy núi cứ gọi là núi hoàn toàn vô ngại, rỗng không, giải thoát.

Còn Duy Tuệ, ông nói khá nhiều về giai đoạn hai:

“- Thời kì nước mắt của sự trả giá trong cuộc đời do vô minh, chưa hiểu về bí mật của cái đầu.

Thời kì thứ hai là rất cần thiết! Nó là điều kiện không thể thiếu cho thời kì thứ ba. Không thể thiếu cho tình yêu và trí tuệ Minh Triết nở hoa trong thời kì thứ ba.

Ở thời kì thứ hai, do sự trả giá với cuộc đời mà nhiều người muốn trốn tránh áp lực cuộc đời nên cố nghĩ ra một thế giới chứa chấp sự trốn chạy của mình. 

Để có thể bước vào giai đoạn thứ ba của cuộc đời, sự tập luyện là cần thiết chứ không phải góp nhặt kiến thức là cần thiết. Tôi khuyên quý vị không nên phát triển kiến thức về con đường này. Bởi bất cứ thứ kiến thức nào cũng làm cho quý vị tiếp tục đắm chìm sâu vào giai đoạn trả giá với cuộc đời”.

Tuy lặp đi, lặp lại, chẳng có gì mới, nhưng ta cũng có thể tóm tắt chúng là ở trong giai đoạn tu, dù kiểu tu của ông nói lung tung nhưng cũng nhằm vào chuyện “làm rỗng cái đầu”.

Giai đoạn ba, ông nói:

“- Thời kì nước mắt xuất hiện của sự trở lại bản tính hồn nhiên trong bộ não già cỗi. rất giống thời kì thứ nhất, chẳng có nhu cầu đi về đâu sau cái chết. Cũng là thời kỳ tình yêu và trí tuệ Minh Triết nở hoa”.

Ông muốn nói đây là giai đoạn trở về với trạng thái hài nhi tuy khối óc đã già cỗi. Hai nhi này là “thiên đường” cho mọi người, dành cho những ai tu tập Thiền Minh Triết. Ở đây cũng tương tợ trở về thế giới “tâm bình thường như thị đạo” của Nam Truyền, và của Thiền: “Sông nói là sông, núi nói là núi”!

Hài nhi này có liên hệ gì với “xích tử chi tâm” (tâm như đứa con đỏ) của Lão Tử?

Hài nhi này có thấp thoáng bóng dáng:“Quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không quay lại như con trẻ thì chẳng thể vào được nước thiên đàng đâu” trong “Ma-thi-ơ 18: 1-3”?

Hài nhi này có được lấy ý trong ba giai đoạn triết học của Nietzsche, với biểu tượng con lạc đà, sư tử và trẻ con - để nói lên quá trình vận hành đi đến viên mãn của triết lý tâm linh hướng thượng. Con lạc đà là hình ảnh chở mang hiểu biết, kiến thức, các giá trị quy ước của cuộc đời, với bước chân đậm đạp, lầm lũi, nặng nề đi qua những sa mạc cháy bỏng của phải trái, hơn thua, xấu tốt, được mất... Con sư tử là giai đoạn đã kinh qua các trải nghiệm đường đời, đã học được những bài học máu xương; cho nên nó cất tiếng sư tử hống giữa thế giới giả tạo, triết thuyết, học thuyết, chủ thuyết, lịch sử cùng mọi nhân danh xảo dối, trầm kha và bi thống của con người. Nó đạp đổ tất cả điện đài thiêng liêng ngụy tạo của con người, với tuyên ngôn xanh rờn rợn: “Thượng đế đã chết rồi”; vậy chính mi phải là thượng đế của chính mi, sáng tạo và sáng hóa đời mình với ý chí hùng lực, siêu nhân! Cuối cùng, giai đoạn ba là trở về với hài nhi, với đứa con đỏ, không biết gì quê hương, lý lịch, tên gọi, hồn nhiên vô tư vô lự...

Vậy, quả thật, cái được gọi là ba giai đoạn kia, kỳ lạ không hiểu nổi, là ông đang đau đớn nên giai đoạn nào cũng có nước mắt? Và tựu trung, nó là bản sao quá mờ nhạt của Thiền học, Thiên chúa giáo, Lão giáo cùng với tư tưởng của Nietzsche. Chẳng có cái gì là của ông ta cả. Con đường xưa cổ nhân chưa có ai đi, Trần tử Ngang đã ngậm ngùi rơi hạt lệ; và bây giờ? Than ôi! Con đường mà ông mạo nhận tìm kiếm ra đấy, Thiền Minh Triết đem dạy cho thiên hạ, là trở về với “thiên đường hài nhi” trong thân xác và bộ óc già cỗi - chính là “cuỗm” nơi này một ít, nơi kia một ít để làm của mình: Một món ăn vụng nấu lại để cho siu nguội, không bỏ cho thức giả quay lưng, cười chê, khinh bỉ mình hay sao?

Kết hồi này:

“- Trẻ con hạnh phúc thiên đường

Là Thiền Minh Triết, thị phường bán rao!” 

 

(Đón xem hồi thứ năm)







 

 

 

 

Hồi Thứ Năm

    Thiền Minh Triết là gì?

 

Đấy là tiêu đề của ông Duy Tuệ.

Rồi ông giảng:

“- Là phương pháp kích hoạt (activate) không gian tĩnh lặng vô tận của đầu óc để quan sát mọi dấu hiệu hay hiện tượng đang xảy ra và vận hành trong chính nó như các suy nghĩ, ý tưởng, đánh giá, suy luận, hơn thua, thèm thuồng, nhớ tưởng về chuyện đã qua, tưởng tượng chuyện sắp đến. Làm như vậy, sẽ lấy lại được bầu trời thanh bình dễ chịu và minh mẫn, ứng xử tự nhiên và thành công, phù hợp mọi hoàn cảnh mà đầu óc vẫn luôn gìn giữ được sự hồn nhiên.

Là thường xuyên nhận biết các cảm xúc (emotion) như lo lắng, bồn chồn, khó chịu, đau buồn, tức giận, thất vọng, tuyệt vọng… đang chạy trên cơ thể để qua đó chúng mất đi và đầu óc trở lại bình yên dễ chịu và tỉnh táo, sáng suốt trước mọi biến động của hoàn cảnh.

Là các phương pháp thực hành để dừng sự tin tưởng hay lòng chấp của mình vào ý nghĩ hay ý tưởng trong đầu óc. Khi đó, một không gian tỉnh thức vô tận sẽ mở ra và cho chúng ta mọi trí tuệ cần thiết để tồn tại trong niềm vui hòa bình và hạnh phúc thật sự! Kết quả của đời sống Minh Triết là đầu óc lúc nào cũng bình yên, an lạc và một tình yêu không bị bất cứ điều kiện nào của cuộc sống hình thức và ý tưởng chi phối. Tình yêu này sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt hảo của con người! Tình yêu này cũng cho con người ấy hạnh phúc vô tận bởi sự chứng ngộ tình yêu chân thật, chứ không phải tình yêu theo ý nghĩ và thoả mãn ý nghĩ của mình.

Là bí quyết thưởng thức niềm vui và hạnh phúc bên trong tâm hồn. Mục đích chung nhất của Thiền Minh Triết là mở ra không gian vô tận trong đầu óc của mình”.

Quý vị đọc đi đọc lại xem. Đoạn văn này gồm hai phần. Phần một, nhân tu tập:

“Là kích hoạt (activate) không gian tĩnh lặng vô tận của đầu óc để quan sát mọi dấu hiệu hay hiện tượng đang xảy ra... ví dụ như suy nghĩ, ý tưởng, đánh giá, suy luận, hơn thua, thèm thuồng, nhớ tưởng về chuyện đã qua, tưởng tượng chuyện sắp đến. Là thường xuyên nhận biết các cảm xúc (emotion) như lo lắng, bồn chồn, khó chịu, đau buồn, tức giận, thất vọng, tuyệt vọng...”

Và phần hai, quả tu tập:

“Làm như vậy, sẽ lấy lại được bầu trời thanh bình dễ chịu và minh mẫn, ứng xử tự nhiên và thành công, phù hợp mọi hoàn cảnh mà đầu óc vẫn luôn gìn giữ được sự hồn nhiên. Khi đó, một không gian tỉnh thức vô tận sẽ mở ra và cho chúng ta mọi trí tuệ cần thiết để tồn tại trong niềm vui hoà bình và hạnh phúc thật sự! Kết quả của đời sống Minh Triết là đầu óc lúc nào cũng bình yên, an lạc và một tình yêu không bị bất cứ điều kiện nào của cuộc sống hình thức và ý tưởng chi phối. Tình yêu này sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt hảo của con người! Tình yêu này cũng cho con người ấy hạnh phúc vô tận bởi sự chứng ngộ tình yêu chân thật, chứ không phải tình yêu theo ý nghĩ và thoả mãn ý nghĩ của mình”.

Đây là ông Duy Tuệ “thó” ngay Tứ niệm xứ của đức Phật mà làm của mình. Tứ niệm xứ là cả một đại dương, cái đầu óc vỏ hến của ông chỉ múc được mấy giọt rồi đem ra giảng nói. Phần một, ông nói lung tung, lẫn lộn giữa những cảm xúc, cảm giác và suy nghĩ, ý nghĩ, tưởng tượng nhưng đức Phật chỉ tóm gọn nơi minh sát “thọ” và “tâm” (thân, thọ, tâm, pháp). Thọ, cảm giác, cảm xúc là nó gồm tất thảy niềm vui, nỗi buồn, khổ và lạc, cả hoan lạc, thích thú, ưu tư, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, tuyệt vọng... Tâm là gồm suy nghĩ, ý nghĩ, tưởng tượng, vọng tưởng, gồm cả tham lam, khao khát, nóng nảy, giận dữ, sân hận, si mê và cả khi không có tham, sân, si, nhẹ nhàng, thư thái, nhu nhuyến, mềm mại, tâm dục giới, tâm sắc giới, tâm vô sắc giới... Minh sát một cách khách quan, trung thực, như thực, không phê phán, không đồng hóa. Chúng như thế nào thì minh sát chúng như thế, đúng như thực tướng mà nó là. Người tu tập minh sát không phải bỏ khổ tìm vui, không tránh bất an tìm an, không lìa thất vọng được hy vọng. Chúng chính là hai mặt của thực tại. Tu minh sát tuệ càng ngày càng trong sáng thì tâm như tấm kính trong suốt, không bụi bặm có thể phản ảnh trung thực những thọ, nhưng tâm đến và đi, sinh và diệt một cách rõ ràng. Những tham ưu ở đời sẽ không còn nữa, trí minh, tuệ minh được thường trực thắp sáng nên thấy rõ tam tướng. vô thường, vô ngã của tâm và pháp.

Còn ông Duy Tuệ nói sao? Ông bảo tu như thế, chỉ “quan sát thọ và tâm lẫn lộn” - mà khi đó, “một không gian tỉnh thức vô tận sẽ mở ra và cho chúng ta mọi trí tuệ cần thiết để tồn tại trong niềm vui hòa bình và hạnh phúc thật sự! Kết quả của đời sống Minh Triết là đầu óc lúc nào cũng bình yên, an lạc và một tình yêu không bị bất cứ điều kiện nào của cuộc sống hình thức và ý tưởng chi phối. Tình yêu này sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt hảo của con người! Tình yêu này cũng cho con người ấy hạnh phúc vô tận bởi sự chứng ngộ tình yêu chân thật, chứ không phải tình yêu theo ý nghĩ và thoả mãn ý nghĩ của mình”.

Xin thưa ông “đạo sư dổm”, phát ngôn ấy của ông, mới mở tâm trí quan sát mà có được trí tuệ, có niềm vui hòa bình và hạnh phúc thật sự ư? Rồi còn tình yêu vô điều kiện xuất hiện? Rồi sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt hảo gì đó nữa. Minh sát như thực, đối tượng của nó là thế giới như thực tánh (paramattha-dhamma); nếu tu tập khắn khít, miên mật thì chân lý sẽ hiển lộ, càng thấy rõ vô thường, vô ngã - chứ làm gì có cái gọi là hạnh phúc, là tình yêu, làm gì có cái gọi là chứng ngộ tình yêu chân thật? Lộ tẩy bán hàng giả rồi, ông bạn! Món hàng bên ngoài láng lẩy, bao bì nhãn mác trông ngon mắt nhưng bên trong là tâm địa xấu xa: Lấy bình an, hạnh phúc, tình yêu để câu nhử những người nhẹ dạ, thiển cận, tu ít mà được nhiều, mua ít mà lời to.

Thật khiếp! Tứ niệm xứ của đạo Phật là làm lắng dịu tham ưu ở đời, mọi khổ lạc, hỷ ưu đều được nhìn ngắm như thực tánh. Còn ông ta dụ dỗ, tu “vế” khổ-bất-an-tuyệt-vọng này để được “vế” kia là lạc-thanh-bình-và-hy vọng! Thế thì tôi phải bắt chước nhà thơ Trần Tế Xuơng:   

“- Phen này tôi quyết đi buôn ‘lạc’,

Quảng cáo dối gian cũng đắt hàng!”

Thêm câu nữa:

“- Đận rày, mồm mép trơn tru khiếp,

Hạnh phúc, tình yêu lắm kẻ thèm!”

Hóa ra cái gọi là Thiền Minh Triết của ông ta là vậy đó - chỉ cuổm một tí tẹo minh sát mà đã chứng đắc hạnh phúc vô biên! Rồi phương pháp tu tập tiếp theo cũng có hai trình độ, căn bản và chuyên sâu. Cái căn bản cũng được lặp lại - là để đầu óc bình yên; và chuyên sâu là nhận rõ bản chất của suy nghĩ, tư tưởng, ý tưởng, Cái này cũng lặp lại. Và ông ta không cho biết “bản chất của chúng là cái gì” - rồi lại được thưởng thức sự nhiệm mầu của tỉnh thức? Rồi lại còn tách ý nghĩ ra khỏi sự tỉnh thức đến 99% - để thăng hoa, để sáng tạo... gì gì đó nữa. Hay ông mù tịt bản chất của suy nghĩ, ý tưởng chúng cũng như dòng sông sát-na tư tưởng trôi chảy, cũng vô thực tính, vô ngã tính?

Điều tôi vừa nói chính là ở đoạn văn rườm rà, cũ mèm của ông nói và và viết sau đây:

“- Thiền ở trình độ căn bản là để giảm stress, để đầu óc bình yên vì thiếu vắng hoạt động của suy nghĩ”.

Giảm stress thì chẳng cần theo Thiền Minh Triết của ông. Bất cứ Thiền nào cũng đạt hiệu quả này khi thư giản, buông xả. Cả những khoa tâm bịnh học, thần kinh học - chẳng cần tu Thiền mà họ cũng làm được điều đó. Món hàng này người ta bán đầy ở chợ.

“Ở trình độ này là giai đoạn ranh giới của giai đoạn hai và giai đoạn ba của cuộc đời mà tôi đã nêu trên. Nó đang chuyển hóa từ khổ đau sang chấm dứt khổ đau và trở thành người sáng tạo, hạnh phúc và yêu thương”.

Nó mới chỉ giảm sự căng thẳng của cơ bắp, nó giãn ra, nó trả lại sự vận hành nhẹ nhàng tự nhiên cho khí huyết, nhịp tim, hơi thở (thân); và khi ấy, mọi áp lực tinh thần được lắng dịu xuống (tâm). Còn cái mà ông bảo “chấm dứt đau khổ, sáng tạo, hạnh phúc và yêu thương” là ông tưởng tượng đấy, ông bán hàng dổm đấy! Vì sao? Chưa thấy thực tướng, bản chất như thực của pháp thì làm sao chấm dứt đau khổ? Chưa chấm dứt đau khổ mà ông lại khêu gợi lòng tham, khát vọng hạnh phúc và yêu thương - có nghĩa là ông lấy lòng dục mà tu tập nên sẽ đạt “bản ngã dục” to lớn hơn mà thôi!

Tôi đã tận tình lấy chánh pháp của Phật nói cho ông nghe đó. Tu như vậy thì ông sẽ đi địa ngục rồi dẫn mọi người cùng đi xuống địa ngục với ông. Chìa khóa địa ngục thầy trò ông đang nắm trong tay đó, bằng vàng ròng nguyên chất đó!

“Còn ở trình độ sâu thẳm là đi vào nhận rõ bản chất của suy nghĩ, các ý tưởng, tư tưởng để có thể làm giảm sự tàn phá của nó đối với đời sống tinh thần cũng như thể chất của mình. Ở trình độ này, Thiền sinh sẽ thưởng thức những sự nhiệm mầu của tỉnh thức và gần như chủ động đến 99% tách ý nghĩ ra khỏi tỉnh thức. Ở giai đoạn 2, Thiền sinh sẽ tập sống đi vào giai đoạn ba của cuộc đời, giai đoạn thăng hoa tinh thần”.

“Nhận rõ bản chất của suy nghĩ, các ý tưởng, tư tưởng”. Đồng ý! Nhưng ông không nói cho người ta biết, lấy cái gì mà nhìn ngắm nó? Đầu óc, suy nghĩ ông đã chích thuốc tâm thần cho nó tê liệt rồi, ông đã vô hiệu hóa nó rồi; ông đã không cho nó thức ăn, nguyên liêu, đối tượng thì nó suy nghĩ về “cái gì”? “Cái gì”, đối tượng không có thì làm sao có ý tưởng, có tư tưởng? Đã thế, cái quả của việc nhìn ngắm ấy (không biết cái gì nhìn ngắm) , ông lại nói:

“Ở trình độ này, Thiền sinh sẽ thưởng thức những sự nhiệm mầu của tỉnh thức và gần như chủ động đến 99% tách ý nghĩ ra khỏi tỉnh thức”.

Đạo Phật dùng tuệ tâm sở, tuệ không, tuệ như thực tánh, chánh kiến, tỉnh thức, minh sát để nhìn ngắm - còn ông ta lại từ cái “vô tri” mà nhìn ngắm lại phát sanh “tỉnh thức”, sự nhiệm mầu của tỉnh thức! Hơn thế nữa, lại còn tách ý nghĩ ra khỏi tỉnh thức 99%! Lập ngôn này là điên đảo! Hay ông muốn bắt chước Lão Tử để tuyên bố: “Tri bất tri, thượng!” Câu này tôi không giải, cứ để cho ông suy nghĩ đến lỏng óc, một ngàn năm ông cũng không hiểu Lão Tử muốn gởi thông điệp gì!

Và cũng từ chỗ đó, chính là nền tảng sai lầm của ông, chỗ “bất tri” của ông! Từ sai lầm, từ tà kiến này mà lập ngôn, lập thuyết thì ông đã tung bóng tối tà kiến ấy di hại cho biết bao nhiêu “con chiên” ngây thơ của ông?! Tại sao ông không chịu nhìn rõ bản chất “tà mị, vô tri, dối vạy, điên đảo, ma giáo” của chính ông? Đây là bản chất như thực đấy! Thấy rõ bản chất ấy thì ông cũng giác ngộ được kia mà! Và đây là đề mục minh sát thiết thực, hiện tiền, cụ thể (saṅdiṭṭhiko) cho ông quán tâm đây: “Với tâm tà mị, vô tri, dối vạy, điên đảo, ma giáo - tuệ tri tâm tà mị, vô tri, dối vạy, điên đảo, ma giáo!”  Đây chính là đề mục “đang là” để ông tự cứu mình đó. Vì, khi vị ấy tuệ tri như vậy, sống quán tâm như vậy, vị ấy sẽ thấy tánh sanh khởi, tánh diệt tận, tánh sanh diệt trên tâm ấy; vị ấy phát sanh tuệ giác, tuệ minh; vị ấy sống không nương tựa (anissito), không còn chấp trước điều gì (na upādayati) ở trên đời này nữa! Chính tại chỗ này mới chuyển hóa mọi đau khổ, thưa ông!

Rồi ông còn tiếp tục dụ dỗ, muốn kéo chúng đệ tử về với mình. Đây là dã tâm thấy rõ:

“- Nhưng dù là phương pháp nào, việc gần gũi với tôi trong giai đoạn đầu là rất quan trọng, giống như quả trứng cần hơi nóng để trở thành con”.

Vậy là phải cần thầy “ấp trứng” cho đó!

Rồi những bài Thiền căn bản: Thiền ngồi, Thiền quan sát ý nghĩ, Thiền trong lúc làm việc, Thiền trong lúc đi bộ, thể thao hay khi đang dạo chơi, Thiền trong lúc đang nói chuyện công cộng.... Chuẩn bị tinh thần, quần áo, địa điểm, thời gian, thời lượng... cũng đều là lượm lặt không tới nơi tới chốn nơi này và nơi khác. Đọc thấy mệt. Xưa như quả đất. Tôi không muốn ghi ra đây, sợ làm phiền thời gian của chư vị thức giả khả kính. Vì nó chỉ chứng tỏ là học trò hạng bét của các trường Thiền chân chính.

Chán cái ông này quá! Thôi kệ! tôi sẽ “tuệ tri tâm nóng nảy, tâm bực bội” khi viết những dòng này. Và cả mấy câu thơ này nữa:

“- Con cóc đáy giếng tà sư,

Nghiến răng, vỗ bụng kinh thư bằng trời!”

 

(Đón xem hồi thứ sáu)


 

 

 

 

HỒI THỨ SÁU

    (Ông ta kết luận)

 

Đây là phần kết luận Thiền Minh Triết của ông.

Đầu tiên ông đưa ra vài ví dụ cụ thể một số người đã đến hỏi ông, nghe ông giảng, tu theo ông rồi có được “hạnh phúc bất tận”.

Tôi sẽ “tận tình” mổ xẻ từng điểm.

Ông “điềm đạm” kể lại rằng:

“Trong nhiều năm tháng thầy nghe nhiều người nói rằng: “Con ăn chay trường và tu Thiền rất nhiều năm, ít nhất là trên mười năm với các thầy thì cũng hiểu được thế nào là Phật tính nhưng cứ chờ đợi sự chứng ngộ thật sự, nhưng chờ mãi, chờ hoài vẫn chẳng thấy gì mới. Tuy nhiên, chúng con đã lỡ tu rồi nên cứ phải chờ đợi sự chứng ngộ, mặc dù nhiều khi cũng cảm thấy chán ngán lắm!”

Quý vị thấy sao? Cách nói này, dựng đứng câu chuyện này thì chỉ có những người “ngoại đạo” mới tin! Tại sao vậy? Ăn chay trường thì tốt rồi, tu Thiền nhiều năm thì tốt rồi! Nhưng tại sao không cho biết luôn là tu Thiền gì, Minh sát, Đông độ, Zen hay Trúc Lâm Yên Tử? Rồi thầy nào, có thầy Thiền nào mà dạy cho học trò “chờ đợi Phật tính” như người ngu nước Tống ôm cây đợi thỏ? Thắp đèn giữa ban ngày cũng không tìm ra ông thầy “gà mờ” ấy! Tại sao? Tại vì, dù là ông thầy Thiền dở nhất, tệ nhất, ngốc nhất (xin lỗi các ông thầy vô danh, tôi đã nói nặng là vì mạch văn cần thiết) cũng biết Thiền là quán, là nhìn ngắm, là lắng nghe thân tâm trong ngoài khi đi đứng, nằm ngồi, ăn nói, ý nghĩ, tư tưởng cùng những sinh hoạt liên hệ trong đời sống. Ai cũng biết là “trực chỉ lắng nghe mình”. Chẳng có ai “chờ đợi Phật tính” trong bất cứ một trường Thiền, một lớp Thiền nào cả! Thầy trò ông đã vu oan cho “tông môn Thiền, tông chỉ Thiền, tinh yếu Thiền” trên khắp thế giới đó, ông có biết không? Hãy nuốt cái lưỡi của ông lại đi! Thêm một tội “vu không với miệng lưỡi rắn rít”. Một địa ngục nữa đó!

“Đặc biệt gần đây, Thiền sinh Nguyễn Đức Luân, mười sáu tuổi, Phật Tâm Danh là Duy Nguyện, cùng bố và mẹ là Không Tuệ và Tuệ Thiêng từ Việt Nam qua Mỹ để học Thiền với thầy đã đặt ra câu hỏi này: “Thưa thầy, mình tu Thiền như vậy bao lâu sẽ chứng được đạo? Nếu lâu quá chắc tuổi trẻ như chúng con sẽ không theo được.”

Chỗ này tôi sực nhớ chuyện ông thầy thuốc bán thuốc dổm, muốn quảng cáo thần dược của mình, ổng thuê một chục người, hai chục người viết giấy chứng thực, tôi bệnh như vậy, tôi đau như vậy nhưng đi khắp nước, hằng trăm thầy Đông Tây y đều không chữa khỏi - nhưng khi tôi uống “thần dược” này, bệnh tôi lành hẳn chỉ trong “một thang”, người tôi da dẻ hồng hào, tười trẻ như tuổi thanh xuân nữa chứ. Đúng là thần y, đúng là thần dược!

Ông Duy Tuệ đã làm đúng bài bản lắm lắm! Đáng khen vậy thay!

Thầy trả lời rằng: “Thật ra, không có gì để chứng cả. Mục đích hành Thiền không phải để thành chính quả. Sự thật rất quan trọng, hết sức quan trọng trong việc thực hành Thiền là để Thiền giả hình thành một thói quen có lợi toàn diện về đời sống tinh thần và thể chất. Do vậy, phải thường xuyên thực hành Thiền để thói quen ngày càng nhuần nhuyễn, và ngay trong thói quen thánh thiện này sẽ cho Thiền giả niềm vui và hạnh phúc bất tận bên trong , không bao giờ chấm dứt và rất ổn định. Thói quen này sẽ phát triển đời sống Minh Triết hoàn hảo! Nó cũng đem lại cho bạn nhiều may mắn và bình an!

Duy Nguyện reo lên vì thấy vấn đề rất nhẹ nhàng là chuyển từ mục tiêu Thiền để chứng quả sang mục tiêu thực hành Thiền là tạo một thói quen tốt đẹp, làm cho tính tích cực trong con người phát triển. Duy Nguyện hứa sẽ ra sức thực hành vì nó đem lại kết quả ngay: hình thành thói quen tỉnh thức và xua tan ý nghĩ, ‘đây là thói quen mà con thích và có lợi cho con trong cuộc sống và học tập!’

Tóm lại, phương pháp Thiền thầy chia sẻ không có mục tiêu chứng ngộ mà là hình thành thói quen thụ hưởng sự làm chủ của tỉnh thức đối với cái đầu đã, đang và sẽ tiếp tục tự do tung hoành suy nghĩ, quấy nhiễu tạo ra cảnh khổ đau giả tạo cho tinh thần. Từ thói quen này, Thiền giả sẽ có tất cả những niềm vui, hạnh phúc thật sự và tinh thần rất ổn định.

Những kiến thức bổ sung để gúp chúng ta mở rộng và vào sâu không gian Minh Triết”.

Đoạn văn dài phía trên, ta chỉ rút ra 3 điểm:

- Sự thật quan trọng: Hành Thiền là để Thiền giả hình thành một thói quen có lợi toàn diện về đời sống tinh thần và thể chất.

- Phải thường xuyên thực hành Thiền để thói quen ngày càng nhuần nhuyễn.

- Hình thành thói quen thánh thiện này (tức là thói quen thụ hưởng sự làm chủ của tỉnh thức) sẽ cho Thiền giả niềm vui và hạnh phúc bất tận.

Vậy là đã rõ, cứu cánh của Thiền Minh Triết là hình thành một thói quen, nhuần nhuyễn thói quen thánh thiện là thụ hưởng sự làm chủ tỉnh thức sẽ đem đến niềm vui và hạnh phúc bất tận - tức là “lạc” trường cửu.

Chư vị thức giả, trí giả đã thấy ông tà sư này lộ ra đuôi cáo, đuôi chồn chưa? Thói quen lâu ngày tích lũy, nhuần nhuyễn nó sẽ tạo nên một “cái đà năng lực”, một quán tính, và đây chính là “nghiệp” của tất thảy chúng sanh. Tôi sẽ có ví dụ cho cái thói quen, cái quán tính này.

“Hôm kia, cảnh sát bắt nhốt 3 người: Một tay đánh bạc, một tên nghiện hút, một bợm rượu. Mấy ngày sau được thả. Tay đánh bạc tìm ngay đến sòng bài. Tên nghiện hút chạy tìm cô tiên nâu. Bợm rượu thì mò đến quán ma men!”

Đây là do thói quen lâu ngày hình thành một năng lực, rất mạnh. Ai đẩy chúng đi? Chính do năng lực thói quen, năng lực quán tính, năng lực nghiệp đẩy chúng đi. Chúng sanh ba cõi sáu đường đều bị chi phối bởi định luật này. Tâm nào cảnh nấy. Và đó cũng là nhân, cũng là quả. Chẳng có thượng đế nào, tạo hóa nào xen dự vào đấy cả.

Vậy, Thiền Minh Triết của Duy Tuệ không nhằm thấy rõ bản chất như thực của pháp để chấm dứt tất cả khổ đau phiền não - mà là để hình thành thói quen, hình thành quán tính, hình thành nghiệp!

Nhưng mà nghiệp mà ông ta muốn nói là nghiệp gì vậy? Là thói quen thụ hưởng sự làm chủ của tỉnh thức!  Ồ, hay tôi đọc nhầm? Không phải! Thư ký nhầm hay ông Duy Tuệ nói nhầm?

Tỉnh thức là “công cụ” của tuệ tri, tuệ giác - nhờ nó quan sát, nhìn ngắm, lắng nghe ngũ uẩn, thập nhị nhân duyên nên thấy được sự vận hành duyên khởi của thân, tâm, của lục căn, lục trần, lục thức... Tất cả chúng chỉ là duyên khởi, vì duyên khởi nên vô ngã. Chẳng một mảy tâm, một mảy may pháp nào là thực tính, là hiện tồn vô tận hay trường cửu; nói theo khoa học vật lý lượng tử thời đại hạ nguyên tử ngày nay, thì chúng chỉ tồn tại trong kỳ gian sinh diệt của phần tỷ giây đồng hồ! Cũng chính nhờ “công cụ” này mà tuệ giác thấy rõ cái “thực tánh vô tự tánh”, cái “tánh không” (suññatā) của mọi sự, mọi vật - sẽ không còn bám víu chấp thủ của những ngã ái, ngã kiến nữa. Tâm và trí lúc ấy là cả một miền trong lặng, một tấm kiếng trong vắt, các pháp vẫn đến, vẫn đi, ý nghĩa, tư tưởng cũng lui, cũng tới - nhưng đều được phản ánh một cách chân xác và trung thực, như-mà-nó-là - là thế giới của “tịch diệt hiện tiền” chứ không phải là thói quen thụ hưởng sự làm chủ của tỉnh thức”- sẽ cho Thiền giả “niềm vui và hạnh phúc bất tận”! Đây là cái kiểu lấy nhân mà làm quả, mà cái quả ấy cũng là quả trong sinh tử đúng như các Nikāya đều có nói: “Khổ và lạc là căn bản của phiền não”, ở đây còn là “cái lạc” bất tận nữa chớ! Hay ông có sờ đến cái “thường, lạc, ngã, tịnh” của cảnh giới phạm thiên?

Ông còn muốn giảng thêm:

“Không gian mình triết là gì?

 Khó có thể định nghĩa chính xác được, nhưng nay tôi nói theo ngôn ngữ của riêng mình, cốt sao giúp quý vị đạt được hạnh phúc chân thật. Tất cả mọi định nghĩa hay khái niệm tôi dùng theo cách riêng là nhằm giúp cho quý vị tiếp cận được với cõi phúc lạc chân thật, với năng lượng tình thương dồi dào, và mãn nguyện với đời sống làm người của mình trên hành tinh này”.

Chỉ lặp lại ý ở trên.

“Quý vị cứ tưởng tượng trong đầu óc, bộ não của mình có rất nhiều hộp (box) để chứa những gì mình thấy, nghe, nghiên cứu học hỏi được. Có hộp chứa kiến thức, chứa kinh nghiệm, chứa các hình ảnh xảy ra trong quá khứ, hộp chứa lòng ham muốn, sự ích kỷ, lòng vị tha, năng lượng yêu thương có điều kiện, sự tưởng tượng, cái nhìn thực tế rõ ràng, sự đánh giá, sự hồn nhiên, sự thành kiến, sự ngạo mạn, hách dịch… hộp chứa sự khiêm tốn, hờn ghen, giận dữ, đau buồn, lỗi lầm, hối hận, sợ hãi và hộp chứa sự kiên nhẫn, yêu thương chân thành... Những hộp này cũng dễ thấy và cũng có thể lấy ra dùng hằng ngày, tuy hơi khó”.

Hóa ra, cái không gian Minh Triết của ông ta là nơi cất chứa những cái hộp, tạm chia có hai loại, là hộp đựng cái xấu ác và hộp đựng cái lành tốt. Mặc dầu ông dùng nhiều danh từ, nhiều tính từ, nhiều hình dung từ nhưng vẫn thiếu khi muốn nói đến các trạng thái tâm và tâm sở. Chỗ này, đã hơn hai nghìn rưởi năm trước, đức Phật đã nói rồi, ở trong Vi diệu pháp. Trong đó nói ít, nhưng lại đầy đủ, bao quát hơn nhiều. Nó đặc như mật cô lại, và dường như ông đã pha loãng ra, nhạt nhẽo, nhạt thếch để làm của mình, nói là do mình sáng tạo, do mình mười năm suy ngẫm tìm ra, là không gian Minh Triết của riêng mình!

Đi sâu vào lãnh vực này tôi ngại “thuật ngữ kinh điển”, cũng ngại mất thì giờ của chư vị lắm! Nhưng biết sao hơn, tôi sẽ dùng ngôn ngữ thời nay để nói ra cái mênh mông vô lượng ấy. Xin chư vị thức giả chịu khó cho.

Đây là 14 yếu tố tâm lý xấu ác; chúng luôn luôn khởi theo các tâm bất thiện, ai có thì giờ thì xem, nó chuyên môn quá (1). Còn ai muốn đi vào nội dung từng trạng thái tâm lý thì xin xem chú thích ở cuối bài *, nó còn khái quát tất thảy mọi xấu ác trên cuộc đời hơn Duy Tuệ đưa ra nhiều.

 Còn sau đây là những tâm sở đẹp, cao sáng, tốt, lành, thiện lương, mát mẻ. Chúng chính là những thiện tâm sở, có mặt đều khắp hoặc rải rác từng nhóm trong những thiện tâm ở cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới và cả siêu thế giới. Những tâm sở ấy, đức Phật nói rất cô đặc, ai muốn hiểu rõ thì xem (2), còn nếu thấy rõ nội dung từng tâm lý lành tốt thì hãy xuống chú thích ** ở cuối bài! Ông Duy Tuệ cố gắng xem thì sẽ thấy. Đã kinh khiếp, rợn ngợp kho tàng Pháp Bảo của Phật chưa mà lại dám coi khinh, chê bai đức Pháp trong lúc ông chỉ mới đụng tới cái ngoài da! Nhưng đây chỉ mới là những trạng thái tâm sở tốt lành kia đấy! Là những trạng thái tâm chưa được gọi là Minh Triết. Nó tốt đẹp thật, cao sáng, cao thượng thật, ở cánh giới vi diệu thật - nhưng chưa thấy thực tánh, giải thoát đâu. Minh Triết Phật ở cái cõi mà không bao giờ ông với tới được, đó là thế giới vô vi, vô lậu, vô niệm, vô tâm, vô cấu, vô dục, vô chấp, vô tác, vô hành, vô đối, vô không, vô ngã - ngay chính trong đời sống này, sự sống này, hơi thở này, hiện tiền “đương xứ tức chân” này - chứ không phải ở kiếp sau hay cõi Niết-bàn ảo tưởng xa xăm vị lai nào đó!

Tất cả 39 yếu tố tâm lý này là có thể khái quát toàn bộ tâm của nhân loại, của tât thảy mọi chúng sanh, xưa cũng như nay. Những yếu tố cả lành tốt, cả xấu ác - chúng không có sẵn trong tâm như cái kho để cất giữ, hoặc lấy ra để dùng như ông Duy Tuệ nói. Dù ông có sử dụng phương tiện ngôn ngữ đi nữa thì điều đó cũng đã sai lầm, tà kiến từ căn bản - vì ông chưa thấy duyên khởi vô ngã tánh. Tất cả chỉ là duyên khởi. Minh sát là quán cái vận hành duyên khởi này. Một tâm lành tốt khởi lên - là duyên cho những tâm sở lành tốt khởi theo. Tâm xấu ác cũng vậy. Ông Duy Tuệ không hề nhắc đến duyên khởi, không biết gì về duyên khởi - cái quan trọng, cốt tủy để từ đó đức Phật thiết lập nền tảng giáo pháp, thuyết giảng 45 năm, sau hình thành Tam Tạng. Ông Duy Tuệ chỉ biết làm “rỗng đầu óc”! Cụm từ này đúng, khá hay - nhưng cách làm của ông sai, do không thấy không biết duyên khởi, do không có tuệ giác để “tư duy vô ngã tính” nên mọi phương pháp của ông đều chỉ là những cách đối trị tầm thường, dẫn người ta đi vào ngõ cụt, đụng đầu bức tường duy vật ấu trĩ và ngốc ngếch! Ông muốn vô hiệu hóa nó; ông không cũng cấp nguyện liệu cho đầu óc - vậy nên không có suy nghĩ, vì không có đối tượng, đối tượng bị triệt tiêu, vì suy nghĩ là cái gì suy nghĩ suy nghĩ cái gì mới được chứ? Khởi niệm mới duyên khởi, mới thấy các pháp, mới thấy ngũ uẩn, thập nhị nhân duyên. Còn ông không khởi gì cả, không thấy gì cả. Tôi xin lặp lại, quả là “tri bất tri, thượng”!

Tặng ông câu thơ cổ điển của vị Thiền sư nào đó:

“- Bách xích can đầu, trực hạ thùy

Nhất ba tài động vạn ba tùy

Dạ tĩnh, thủy hàn ngư bất thực

Mãn thuyền không tải nguyệt minh quy!”

Câu này, cố hòa thượng Đổng Minh dịch:

“ Đầu cần trăm thước buông câu

Một làn sóng gợn, nối nhau muôn lằn

Đêm nước lạnh, cá không ăn

Con thuyền trống rỗng chở trăng đi về!”

Tôi thì dịch:

“- Trăm thước đầu cần thỏng điếu ông

Một làn sóng dợn, dợn muôn trùng

Giá băng, đêm lặng, khôn tăm cá

Về chở đầy thuyền ánh nguyệt không!”

Một niệm khởi là duyên vạn trùng khởi. Đêm lặng, nước giá lạnh, cá không ăn mồi! Vị Thiền sư thấy duyên khởi căn trần - nên tu Thiền định, đóng bít các căn - không cho “căn ăn trần” nữa. Từ đó mới tu Thiền tuệ, mới “mãn thuyền không tải nguyệt minh quy”!

Ông Duy Tuệ chưa thấy thế giới duyên khởi nhưng ông có những cái hộp với những yếu tố tâm lý có sẵn rồi đem cất trong đó! Cũng hay nhỉ? Ta chờ xem!

 

(Đón xem hồi thứ bảy)

Chú thích: 

* Si: Là mê lầm, là mê mờ, không thấy rõ thực tánh của các pháp. Vô thường mà cho là thường, vô ngã mà cho là có ngã, khổ não mà cho là an lạc... Vì si chi phối, mê mờ, che lấp... nên chúng sanh thường đắm đuối, say mê trong ngũ dục mà không biết đấy là khổ. Và có kẻ thấy khổ thì bỏ khổ đi tìm lạc (như trường hợp ông Duy Tuệ). Vô tàm: Là không biết hổ thẹn khi làm các việc xấu, điều ác. Chính tâm sở này làm cho chúng sanh tạo tác tất cả bất thiện nghiệp; chúng không chùn tay trước bất cứ một việc làm xấu xa, một hành động bạo tàn nào. Như con heo lăn mình trong đống phẩn, cảm thấy thích thú; kẻ có tâm lý này cũng tương tự thế, họ thích thú, hãnh diện bởi sự vô đạo đức, xấu ác của mình (Có trong ông Duy Tuệ). Vô quý: Là không ghê sợ, không sợ hãi những hành vi xấu ác. Chính vô quý tâm sở này khiến cho chúng sanh không sợ dư luận chê cười, xã hội lên án... Vô quý được ví như ngọn lửa phựt cháy đối với con thiêu thân, nó cứ lăn xả vào để tìm lấy cái chết. Nó đánh mất lòng tự trọng, sự nể vì của người khác; lao thân vào những việc xấu ác chẳng e ngại nhân quả, tội tù hoặc bốn đường đau khổ (Có trong ông Duy Tuệ). Trạo cử: Là trạng thái tâm dao động, lay động, phóng dật, xao động bất an; cứ chạy tìm từ đối tượng này sang đối tượng khác; cứ bồng bềnh, lang thang, trôi nổi dật dờ trong thế giới sắc, thanh, hương, vị, xúc... Nhưng chúng không dừng lại thật lâu trước một đối tượng nào, vì nó luôn làm cho tâm bị xao lãng, khả năng chú tâm rất yếu ớt, không thể an định được một giây khắc nào (Chắc cũng có luôn, do nói lung tung lang tang như mê sảng). Tham: Là nắm giữ, ôm ấp, cầm nắm, bám víu, chiếm đoạt, vơ vét... nghĩa là tất cả những trạng thái tâm có “lực hút”; dính mắc đều gọi là tham. Dính mắc như ruồi dính mủ mít, như chim bị dính bẫy nhựa... thì gọi là tham (Cái này thì chắc hẳn có rồi). Tà kiến: Diṭṭhi là thấy, là kiến. Micchā là nghiêng, lệch, xiên, tà, lầm lẫn. Vậy, tà kiến tâm sở là thấy lầm, thấy sai, thấy nghiêng, thấy lệch, thấy không đúng với sự thật. Đã không thấy đúng với sự thật mà còn chấp những cái thấy sai, thấy nghiêng, thấy lệch... kia là như chơn, như chánh nữa thì được gọi là tà kiến (Ông Duy Tuệ xây dựng lý thuyết của mình từ cơ sở này). Mạn: Là tự cao, tự đại, khoe khoang, tự đắc, kiêu kỳ, ngạo mạn... là tính chất của mạn tâm sở. Mạn về thọ sanh, dòng dõi, huyết thống. Mạn do sang giàu, nhiều của cải. Mạn do học giỏi, biết nhiều, hiểu rộng. Mạn do sức khỏe, trường thọ, sắc đẹp... Gốc của mạn tâm sở là ngã ái, ngã chấp. Khi nào còn có bóng dáng của cái tôi, cái ngã là khi ấy còn sự chi phối của mạn (Ông có cả mạn, ngã mạn, thượng mạn, tăng thượng mạn). Sân: Là không bằng lòng, không vừa lòng, muốn xua đuổi, muốn quay lưng, chối bỏ, phủ nhận, bực bội... là trạng thái của sân tâm sở. Tất cả những cảnh trái ý, nghịch lòng, mình muốn triệt tiêu (lực đẩy) đều là sân tâm sở, nó dễ đưa đến cuồng nộ, cuồng dại, hung dữ, bạo hành rất nguy hiểm vậy (Dĩ nhiên là phải có rồi - một tâm lý loại trừ cái gì là đã có xung đột rồi) . Tật: Là ganh ghét, đố kỵ, tỵ hiềm trước những thành công, hạnh phúc, giàu sang, may mắn... của kẻ khác. Khi thấy kẻ khác có điều hay, điều tốt hơn mình thì thường tìm cách dè bĩu, ỉ ôi. Khi thấy người có địa vị, quyền hành, tài sản, danh vọng, quyến thuộc, sắc đẹp... hơn mình thì đem tâm ganh ghét, nói xấu họ bằng cách này hay bằng cách khác (Ông đã tỏ thái độ này với Phật giáo). Xan: Là hà tiện, bỏn xẻn, keo kiệt, rít róng... là tính chất của xan tâm sở. Bỏn xẻn về của cải tài sản như “con ma giữ của”, hoặc “vắt chày ra nước”! Bỏn xẻn về trú xứ. Bỏn xẻn về lợi dưỡng. Bỏn xẻn về kiến thức, bỏn xẻn về giáo pháp; tức là không muốn trao đổi, chia xẻ kiến thức, giáo pháp cho ai, vì không muốn ai bằng mình hay hơn mình. Hối: Là ăn năn, hối hận, hối tiếc... làm cho nóng nảy, bứt rứt ở trong lòng. Khi đã làm một việc bất thiện, nếu có ăn năn, hối hận là tốt; nhưng chính tâm sở này cứ làm cho tâm bị thiêu đốt, bị cắn rứt không yên, rồi vấn đề cũng không giải quyết được. Phương cách đúng đắn để vượt qua tâm sở này là phải tránh tái diễn, lặp lại các hành vi bất thiện và quyết tâm lánh xa điều ác, làm các điều lành. Chẳng bao giờ quá muộn để làm việc lành, để tự cải thiện bản thân còn hơn ăn năn, hối tiếc suông. Hôn trầm: Là trạng thái dã dượi, lừ đừ, mệt mỏi... của tâm. Là sự co rút lại như lông gà trước ngọn lửa. Nó làm cho ta sinh thụ động, tiêu cực; không muốn cất tay, cất chân làm bất cứ công việc gì. Thụy miên: Khi bị tâm sở này chi phối thì tâm không muốn hoạt động, không có khả năng nắm bắt điều gì vì nó rất mờ nhạt và rất yếu đuối. Đây chính là sự trì trệ, uể oải, lười biếng của tâm thức để đánh mất sự linh hoạt, nhạy bén vốn có; nó tác động lên  thân làm cho thân mệt mỏi, buồn ngủ. Nghi: Là trạng thái nghi ngờ, nghi nan, nghi hoặc, phân vân, hoang mang... đủ mọi thứ; không biết đặt để lòng tin ở đâu. Nghi không phải là không tin, chính xác là nó ở giữa tin và không tin. Do vậy, nghi tâm sở còn được hiểu là phân vân, lưỡng lự, do dự, bất nhất, bất quyết, bất định... luôn luôn chẳng biết đặt tâm ở đâu cảnh (Ông nói mạnh miệng vậy nhưng ông như chiếc thuyền không bánh lái, vật vờ, lênh đênh không biết nương tựa vào đâu; nghi ngờ đủ mọi thứ).

** 1- Tín: Có niềm tin, có đức tịn, có điểm tựa tinh thần một cách vững chắc, an ổn. Có nó mọi nghi ngờ tiêu sạch. Nó như một viên ngọc có khả năng lọc bụi bặm phiền não. 2- Niệm: Thường có chú tâm, ghi nhận những cái gì đang xảy ra với mình, như một người canh cửa thân tâm một cách chăm chuyên và cần mẫn nhất. Nó không làm trượt đi, rời sang chỗ khác hay trôi phăng đi mà luôn luôn bắt dính đối tượng. 3- Tàm: Biết hổ thẹn với lương tâm mình khi lỡ làm một việc gì sái quấy không xứng hợp với đạo làm người. 4- Quý: Biết sợ hãi miệng tiếng, danh giá, nhân phẩm, dư luận, danh dự bản thân và gia đình khi làm việc gì đó không chính đáng, xấu quấy. 5- Vô tham: Không khởi lên tâm thèm muốn, tham lam những vật gì không phải của mình, dù là cây kim, sợi chỉ - nói rộng ra là cả dục lạc ngũ trần. Tính chất của nó lại rộng rãi, muốn chia sẻ giúp người, lại còn dễ dàng buông bỏ, không đeo níu, không bám dính, thí xả. 6- Vô sân: Không khởi tâm nóng nảy, bứt rứt, bức xúc, giận dữ, sân độc, oán thù, bạo tàn, hận thù. 7- Trung tánh: Luôn giữ trạng thái trung dung, vừa phải, chừng mực, cân phân, trạm nhiên, không nghiêng bên này, không lệch bên kia như một đòn cân quân bình tuyệt hảo. 8-9- Tâm sở thư thái, tâm  thư thái: Các trạng thái phụ tùy của tâm (tâm sở) và tâm đều được làm cho buông giãn, yên tĩnh, mọi căng thẳng, nóng nảy lắng dịu xuống. 10-11- Tâm sở khinh an, tâm khinh an: Các trạng thái phụ tùy của tâm (tâm sở) và tâm đều được nhẹ nhàng, khinh linh như cất được mọi sự nặng trệ xuống. 12-13- Tâm sở nhu nhuyến, tâm nhu nhuyến: Các trạng thái phụ tùy của tâm (tâm sở) và tâm không còn khô cứng, thô ráp mà đều được mềm mại, mềm dẻo dễ sử dụng. 14-15- Tâm sở thích ứng, tâm thích ứng: Các trạng thái phụ tùy của tâm (tâm sở) và tâm đều dễ dàng thích ứng, thích dụng với mọi hoàn cảnh. 16-17- Tâm sơ tinh luyện, tâm tinh luyện: Các trạng thái phụ tùy của tâm (tâm sở) và tâm không còn ươn yếu, biếng nhác mà đã được rèn luyện một cách thiện xảo, tinh xảo. 18-19- Tâm sở chính trực, tâm chính trực: Các trạng thái phụ tùy của tâm (tâm sở) và tâm không còn xiêng xẹo, quanh co, khuất khúc, lừa phỉnh, dối trá, lươn lẹo, gian tà, tà vạy - mà đã ngay thẳng, quang minh chính đại. 20- Chánh ngữ: Là trạng thái tâm sở có tích cách kiêng cử, tiết chế, điều tiết, ước thúc - tránh nói lời giả dối, đâm thọc, thô lỗ, cộc cằn, vô ích, nhãm nhí, ác khẩu. 21- Chánh nghiệp: Là trạng thái tâm sở có tính cách kiêng cử, tiết chế, điều tiết, ước thúc tránh xa những hành động như sát sanh, trộm cắp và tà dâm. 22- Chánh mạng: Là trạng thái tâm sở có tính cách kiêng cử, tiết chế, điều tiết, ước thúc tránh xa những nghề nghiệp nuôi mạng không chơn chánh như buôn bán độc dược, rượu men, rượu nấu, các chất say, buôn bán nô lệ và nghề giết thịt. 23- Bi: Là trạng thái tâm biết rung động, biết thương xót, bi mẫn trước những cảnh huống bất hạnh của mọi người xung quanh, muốn khởi tâm chia sớt, san sẻ, ủi an, cứu vớt bằng tinh thần hay vật chất. Đây là đóa hoa thanh khiết sắc hương của nhân ái, nhân đức và thiện lương. 24- Hỷ: Đây là trạng thái tâm mà thiện cảm đi đôi với hoan hỷ, vui vẻ trước sự thành đạt, thành công, hạnh phúc hay an vui của người khác - nó loại trừ ganh ghét, đố kỵ và tỵ hiềm. 25- Tuệ: Nó thấu đạt thực tướng, thấy biết rốt ráo, thông suốt bản chất thật sự của sự vật. Nó khắc phục, chế ngự đần độn, u mê, tối tăm, ngu si; nó chiếm địa vị ưu thắng trong sự thấy biết như chân như thật nên tự nó, bởi nó mới có tuệ giác và tuệ minh.

   

 

 

 

 

 


 

 

 

 

HỒI THỨ BẢY

(Hộp Minh Triết)

 

Ông quảng cáo rao hàng:

“ Nhưng có một hộp rất đặc biệt và vô cùng hoàn hảo, màu (sic) nhiệm, có công năng giải quyết mọi bế tắc của con người. Nếu chúng ta cho rằng có một Thương Đế quyền năng, những vị Phật thông hiểu mọi chuyện, có sức mạnh vô hình và huyền bí có thể sinh ra mọi thứ, nuôi dưỡng mọi thứ thì cái hộp này cũng giống hệt như vậy. CÁI HỘP TRỐNG KHÔNG TRÀN ĐẦY NĂNG LỰC NHIỆM MÀU, MUỐN GÌ CÓ NẤY! TÔI GỌI HỘP NÀY THEO NGÔN NGỮ RIÊNG LÀ: HỘP MINH TRIẾT! Thiền Minh Triết là thực hành một số phương pháp để kích hoạt cái hộp nhiệm màu vô giá này”.

Chư vị Phật tử chơn chính nghe chưa? Cái Minh Triết của ông ta có “công năng giải quyết mọi bế tắc của con người mà từ xưa đến nay chưa ai làm được; nó có công năng như Thượng Đế, như Phật, thông hiểu mọi chuyện, có sức mạnh vô hình và huyền bí có thể sinh ra mọi thứ, nuôi dưỡng mọi thứ!”

Sau khi đại ngôn lớn lối như vậy, ông cũng chưa mở cái hộp xem bên trong chứa đựng lời vàng, tiếng ngọc, linh thiêng, huyền mật gì - ông lại nói mọi người:

“Cất ý kiến riêng trong tủ!” 

Rồi ông giảng như sau:

Như quý vị đều biết, con người khó mà chấp nhận từ bỏ ý kiến riêng hay đánh giá riêng của mình, ngay cả đối với người mình thương yêu hay kính trọng nhất. Việc này cũng sẽ ngầm ảnh hưởng đến việc thực hành Thiền hay thực hành thói quen tâm linh cho mình”.

Chỗ này thì nhà Phật chính tông chỉ gói ghém trong một từ “kiến thủ (diṭṭhupādāna)”, sau đó sinh ra những hoạt dụng đồng dạng như “kiến thủ kiến, ngã kiến, kiến ngã kiến, ngã kiến thủ”. Do đức Phật thấy rõ những kiến thủ nầy có được do từ chấp thủ bản ngã, do từ cái ngã mà sinh ra - không có phương pháp nào loại trừ nó được - ngoại trừ tu tập minh sát để thấy rõ sự vận hành vô tự tính, vô ngã tính của chúng.

Ông Duy Tuệ sử dụng “tư duy ngã tính” nên thấy có người có quan điểm, có ý kiến riêng - nên cất chúng vào hộp Minh Triết. Lập ngôn này của ông là “một cái ngã, có ngã kiến, có ngã kiến thủ”; cất chúng vào hộp tức là vào một “cái ngã” khác nữa. Minh sát của Phật dạy rằng, thức, nhận thức, ý kiến, tư tưởng đều do duyên khởi căn trần vô tự tính, vô ngã tính, vô thực tính - bản chất chúng, thực tánh pháp của chúng là vô thường, vô ngã! Do tư duy ngã tính nên mọi lập thức, lập tri, lập kiến, lập nghĩa của ông ta không bao giờ thoát ra khỏi sự bủa vây của bản ngã. Thương xót thay ông “đạo sư” si mê, vô minh - không biết triệu kiếp sau ông ta có thoát ra khỏi cái bản ngã do tự mình bủa lưới hay không?   

Rồi ông tự dựng đứng câu chuyện:

“Ví dụ, có hai vợ chồng thương yêu nhau nhưng hay cãi nhau nên cũng chẳng thấy gia đình êm ấm tí nào. Sự việc cứ kéo dài năm này sang năm nọ. Hai vợ chồng cũng muốn tìm cách chấm dứt cãi nhau nhưng thay vì cả hai bình tĩnh ngồi lại thảo luận tìm hiểu tại sao mình hay cãi nhau, thì người vợ âm thầm đi coi bói. Người thầy bói tử tế khuyên hai người nên tu hành để được hạnh phúc. Người vợ nghe vậy rồi khuyên chồng nên đến chùa hỏi vị thầy bày cách tu hành. Người chồng không tin các thầy chùa nên không đồng ý và cho rằng việc cãi nhau hằng ngày là do người vợ hay nói nhiều và có nhiều ý kiến chê bai và chỉ trích người chồng. Người vợ muốn chồng phải nghe lời mình, theo ý kiến của mình trong cách dạy con, trong các quan hệ với bạn bè và sinh hoạt của chồng phải theo ý mình. Mặc cho chồng không đồng ý, người vợ cứ đến chùa và được các vị thầy chỉ cho phương pháp niệm chú “Ôm-Ma-Ni-Bát-Mê-Hồng”. Sáu chữ này là người tín đồ phật giáo Tây Tạng hay đọc thầm trong miệng để mong kiếp sống sau tốt đẹp hơn. Các vị sư lại nói chú này linh ứng lắm, cứ niệm thường xuyên thì người chồng sẽ thay đổi tính tình. Người vợ nghe theo và cứ nói lẩm nhẩm trong miệng suốt ngày như vậy. Người chồng càng tức giận và quát tháo người vợ là ngu xuẩn, cứ nói lẩm nhẩm suốt ngày giống như bị tâm thần! Người vợ buồn quá nhưng tin tưởng mình là đúng, là người bắt đầu tu hành, theo con đường đạo đức. Cô ta cho rằng, người chồng cự lự (sic) như vậy tức là ông ấy không chấp nhận đạo đức rồi. Người vợ lại nghe lời ai đó nên chạy sang tận Tây Tạng tìm gặp các nhà sư phật giáo Tây Tạng để luyện cách tụng niệm cho linh nghiệm hơn. Cuối cùng, hai vợ chồng phải li dị vì người chồng không chấp nhận cách ứng xử như vậy của người vợ và cho rằng người vợ nhẹ dạ, ngu xuẩn, bị mấy ông thầy tu lừa!”

Những đoạn gạch đáy ở trên do ông Duy Tuệ mơ mơ màng màng về Mật tông nên đã vu oan cho các thầy đó. Dĩ nhiên là có rất nhiều tà sư ác hạnh, bất chánh trên đời này - có cả ông trong đó - nhưng không đến nổi nào họ lại nói một cách ngây ngô như vậy. Tôi khuyên ông nên tìm chú Google với mấy từ “Om Maṇi Padme Hum” (thật ra là Aum) để hiểu gốc nguồn, hiểu cái dụng của nó kẻo người học thức họ cười chê, cả khinh bỉ nữa. Những thầy tu kia lừa, còn ông thì đại tổ sư lừa bịp đó!

Chuyện kể thứ hai cũng tương tự:

“Một ví dụ khác, tại Việt Nam, có một cặp vợ chồng rất nổi tiếng. Người vợ là một người đẹp nhất một miền và là một nghệ sĩ tài ba, tiếng tăm oanh liệt một thời. Người vợ theo đạo Phật. Còn người chồng là một nhà trí thức lớn, tốt nghiệp đại học Harvard Hoa Kì hạng ưu và từng đóng nhiều vai trò quan trọng trong guồng máy kinh tế Việt Nam qua hai thời kỳ. Người này theo đạo Ki tô giáo La Mã. Vợ có bàn thờ Phật Thích Ca, còn chồng có nơi thờ Thánh Giá và Đức Jesu. Người vợ nghĩ rằng chồng mình cực khổ lo lắng nhiều là do không chịu tin thờ Phật. Còn người chồng thì luôn phàn nàn người vợ cứ rước mấy ông sư về nhà trò chuyện, thỉnh thoảng lại qua Tây Tạng luyện tập niệm thần chú rồi về nhà lảm nhảm tối ngày. Một hôm, người chồng than phiền với vợ rằng: “Nhà mình có ai chết đâu mà em cứ mời sư về hoài vậy? Lại nữa, sao lúc này em hay gầm rú những âm thanh nghe rùng rợn trong nhà vậy? Nếu em không nghe thì anh sẽ vứt bỏ bàn thờ Phật của em đi.” Người chồng cho rằng Thiên Chúa là trên hết, người vợ nói Chúa là không có thật, chỉ có Phật là có thật. Từ đó, vợ chồng luôn bất hòa, hạnh phúc gia đình trên bờ vực tan vỡ”.

Ông Duy Tuệ lại chơi một màn dựng đứng câu chuyện nữa. Tình huống có thể xảy ra như vậy chăng? Hai vợ chồng đều là trí thức mà xử sự, nói năng như thế sao? Họa là thần kinh! Và ông Duy Tuệ của chúng ta tưởng ai cũng ngu xuẩn tin theo câu chuyện “phịa” mà hư cấu vụng về, quá nhiều kẻ hở, chẳng logic chút nào!

Mệt. Tôi càng đọc càng mệt. Thế gian sao lại phát sinh những hạng “đạo sư” si mê như vậy kia chứ! Nói quanh nói quất nói qua nói lại, ví dụ trước, ví dụ sau chỉ nằm nơi “ngã kiến thủ” mà thôi.

Đoạn sau cũng vậy.

Đoạn sau cũng vậy nữa.

Thôi hãy nhẫn xả, nhẫn xả...

Cuối cùng, mỗi người hãy sắm một cái tủ để cất ý kiến.

“Tên tủ đề là: TỦ CẤT Ý KIẾN. Trong nhà có bao nhiêu người lớn thì có bấy nhiêu ngăn cất ý kiến. Khi về đến nhà, dù bạn có là Tổng thống hay người ăn mày cũng đều đưa tay lên cái đầu lấy mọi ý kiến bỏ vào tủ này. Như vậy, các thành viên trong gia đình sẽ sống trong tình trạng trực giác mà không bị ý kiến chi phối, làm mất hạnh phúc nữa. Ngoài ra, quý vị cũng nên có cái tủ đựng ý kiến dành cho khách hay bạn đến nhà chơi để họ có chỗ cất ý kiến của họ.

Tại các Trung tâm Minh Triết mà thầy đang hướng dẫn thực hành Thiền và khai thị để khai mở Minh Triết cũng nên có một cái tủ đựng ý kiến thật to, đặt giữa Trung tâm cho mọi người dễ thấy. Tủ cũng có nhiều ngăn, đủ để cho quý vị và khách dùng”.

Phương pháp của ông ở trên, khách quan mà nói cũng có những ích dụng nhất định trên cuộc đời này. Ông đã có cái đúng của ông - do nhờ ông học “lỏm” của Phật một chút xíu, học “mót” Krishnamurti thì nhiều hơn. Phật thì ông chỉ sờ ngoài da, bên trong còn thịt, xương và tủy nữa ông ạ! Còn Krishnamurti, hơn nửa thế kỷ trước, vị đạo sư thầm lặng ấy, đã từ bỏ hào quang danh vọng, địa vị giáo chủ Thông Thiên Học, lầm lũi, cô đơn, đi giữa sa mạc tri kiến của cuộc đời, rao giảng tư tưởng “giải trừ kiến thức”, “giải thoát tri kiến” và đã cứu độ cho biết bao nhiêu tri thức kiêu căng trên vòm trời Tây phương phải hạ “cái ngã tri kiến” xuống bên chân ông! 

Krishnamurti nói toàn diện, toàn triệt hơn ông nhiều! Ông chưa xứng đáng là học trò xách dép của ông ta đâu! Còn ngay chính Krishnamurti - thì ông ta nói cái gì trong “giải trừ kiến thức và giải thoát tri kiến”, và cả trong suốt 50 năm đi thuyết giảng ông biết không? Ông ta đã sử dụng tất thảy 37 trợ đạo phẩm của đức Phật, tùy nghi phương tiện để nói bằng ngôn ngữ thời đại, bằng ngôn ngữ khái niệm của Tây phương cho người Tây phương hiểu. Tôi biết, tôi nói ra mà không sợ “tụt lưỡi”, là Krishnamurti tu Phật đã đắc quả “Nhập Lưu” rồi đó! Ông ta là một “học trò nhỏ” của Phật. Còn ông là gì vậy? Đã là gì vậy? Mà lại mạo xưng “đạo sư” Thiền Minh Triết? Thiền, ông không hiểu. Minh Triết, ông chưa hiểu nghĩa ra làm sao! Học trò xách dép Krihnamurti chưa xứng đáng, trong lúc Krihnamurti là học trò nhỏ của Phật - mà ông lại phỉ báng Phật, ông hơn cả Phật vì con đường Minh Triết do ông tự tìm ra, chưa có ai trên đời khám phá ra được, kể cả nhiều ngàn năm trước. Ông là một đức Chánh Đẳng Giác sao? Nhưng một vị Chánh Đẳng Giác cũng chỉ “khiêm tốn” tuyên bố: “Đây là con đường cũ xưa, chư  vị Chánh Đẳng Giác đã đi qua - Như Lai chỉ là người phát bụi lùm gai gốc, tìm lại được mà thôi!”

Tôi muốn chấm dứt ngang đây. Vì những đoạn tiếp theo, kể về chú chó đáng yêu, trái sầu riêng, hoài nghi cái đầu, đừng dán những nhãn hiệu (ông không thấy cái nhãn hiệu Thiền Minh Triết trên trán của ông), đừng nghĩ mình là con người đạo đức (ông không biết dùng cụm từ bản ngã đạo đức)... thì chỉ như là thừa giấy vẽ voi, để cho đệ tử của ông đọc thôi, trí thức đọc sẽ cảm thấy nhàm, lãng xẹt! 

Đối với một kẻ ngu si mà tôi đã bỏ mất cả tuần lễ để viết bài này, vậy là đã quá nhiều. Chưa chắc ai đã cứu độ được ai. Giữa cuộc đời mạt pháp, tâm con người đi lên thì như sừng bò, tâm chúng sanh đi xuống thì như lông bò. Tôi đã hy vong một cách vô ích. Tôi đã mơ màng những ngu si, cao ngạo sẽ được cải hóa. Không dễ đâu. Địa vị, danh dự, bản ngã, bạc tiền, tiếng khen, quyền lực là những vòng hoa nguyệt quế dụ dỗ, cám dỗ con người. Những vòng hoa ấy, một là tỏa lửa nóng cho những con thiêu thân lao vào. Hai là nó tỏa hào quang sáng ngời ngời, chóa mắt, loạn mắt, mờ mắt không còn thấy gì nữa cả. Ba là nó trở thành cái móc sắt, đai sắt kẹp vào cần cổ, kẹp vào sinh mệnh con người không có đường thoát. Si mê thì không thoát được. Kẻ trí mới thoát được. Nhưng kẻ trí thì như hạt chu sa giữa sa mạc! Sao ông lại cả gan treo cao nhãn hiệu nhân danh Trúc Lâm sơ tổ mà lập câu lạc bộ Thiền, hội Thiền Minh Triết Trần Nhân Tông nhiều nước trên thế giới, trong lúc ông chưa hiểu Thiền là gì, Minh Triết là gì, cả không hiểu Thiền Trúc Lâm nữa? Không biết ông có nghe vọng âm thượng thừa của bài kệ “hữu cú, vô cú” của Hương Vân đầu-đà chăng: Câu có câu không. Dây khô cây ngả. Mấy gã thầy tăng. Dập đầu trán vỡ... Câu có câu không. Lập chỉ lập tông. Xoi rùa đập ngói. Leo núi lội sông...”.

Và đó là sự “lầm lẫn mệt mài” của “đạo sư” Duy Tuệ đó.

Để kết luận, tôi xin nói lời xin lỗi, xin lỗi Duy Tuệ nhé! Tôi biết ông mến quen tôi, từng tặng phong lan và cả cây bồ-đề quý cho chùa Huyền Không thuở ông còn là một thiện nam hiền thiện - mặc dù ông không phải là đệ tử của tôi! Rồi cách đây chừng mươi năm, ông ghé qua Thái Lan, tâm sự với đệ tử của tôi đang du học tại đó, là ông sẽ xuống tóc xuất gia gieo duyên tại Bồ Đề Đạo Tràng! Ngờ đâu!... Mà thôi, ông cũng là người học thức, chỉ vì lợi danh nhất thời mà lầm lỗi đó thôi, hãy “quay đầu là bờ” đi nhé! Còn kịp đó. Sám hối không bao giờ muộn đâu. Ông chỉ mới trang bị cho mình một chút ít giáo pháp, chưa đủ để lên đường, chưa đủ để tự bảo vệ mình đâu. Ông đã dại dột khi tự cho mình hơn cả chư Chánh Đẳng Giác khi ông bảo “Bát chánh đạo” của đức Phật mấy ngàn năm nay không giải quyết được gì! Ông có biết lời tuyên bố thiếu thận trọng của ông đã làm cho không biết bao nhiêu Tăng Ni và Phật tử trên khắp thế giới buồn lòng lắm không?

Thường thì mỗi khi dạy cho đệ tử tôi mới phân tích tận tình, cặn kẽ từng chi tiết một như trong bài viết này - nhưng đối với ông, là chỗ quen biết - thì đây cũng là một biệt lệ! Xin ông hiểu cho như thế.

Bây giờ hãy “can đảm” đọc cái bài thơ luật Đường này đi, tôi đặc tả chân dung của ai? Là cái “bản lai diện mục” đang bị lấm lem bụi bặm hiện nay của ông đó:

“ Có tên ma giáo, xót thương ôi!

Minh Triết bán rao, thật nực cười!

Lập thuyết so bằng ngao, hến vậy!

Xiển ngôn sánh tựa ốc, sò thôi!

Nhiệm mầu rỗng hộp, óc tê thuốc!

Linh diệu bít đầu, não vữa vôi!

‘Duy Tuệ’ thó danh mà ‘Thị Nghiệp!’

Bảng vàng lòe bịp chiếm nguyên khôi!”

Hy vọng mươi năm sau, tôi lại vịnh chân dung ông nữa, nhưng mà sáng rỡ hơn, mỹ học hơn, thánh thiện hơn!

Cứ “buông cái ngã” là xong hết, Duy Tuệ thân mến!

 

Huyền Không Sơn Thượng,

Thu sương trắng, tháng 9/2012

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

 

 

 

 

 



 

 

 

 

 

 

(1) Tôi giải mã tư tưởng Phật học của Kim Dung: “Không Động”“không tánh - vô ngã tánh - như thực tánh” có công năng đả thương 7 tình:  Hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục (thất thương quyền)!

(2) Mượn tên “đàn chỉ thần công” của Hoàng Đông tà!

(1) Tại đây, nhân thể tôi xin được đưa ra vài điểm “tồn nghi” nhờ các nhà nghiên cứu về lịch sử Thiền Đông độ giải thích cho:

- Câu chuyện “Niêm hoa vi tiếu” không được tìm thấy trong các kinh điển Therāvada, trong 25 bộ phái Hīnayana, Mahāsaṅghika và Mahāyana tại Ấn Độ, trước khi Thiền tông ra đời thế kỷ thứ VII tại Trung Quốc. Hay đây chỉ là “hư cấu văn học thiền” của người Trung Quốc? Còn nữa, sau đó, đức Phật trao truyền “Chánh pháp nhãn tạng Niết-bàn diệu tâm cho ngài Ca Diếp” rồi lần lượt đi qua 27 vị , đến ngài Đạt Ma là tổ thứ 28.

Chỗ này phát sanh hai câu hỏi:

* Hai vị đại đệ tử thị tịch rồi, còn lại ngài Ca Diếp là một vị thượng thủ A-la-hán tuổi cao, lạp lớn phải đảm nhận sự kế thừa là xứng đáng - nhưng nói “chánh pháp nhãn tạng, niết-bàn diệu tâm” chỉ trao riêng cho ngài Ca Diếp là không đúng - mà “tối thiểu” là 500 vị thánh vô lậu trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, các ngài đã có “chánh pháp nhãn tạng, niết-bàn diệu tâm” đầy đủ cả rồi! Có phải đây là thâm ý của người Trung Quốc, do tự tôn dân tộc, họ muốn nói là “chánh pháp, diệu tâm” của Phật đã truyền sang Trung Quốc hết rồi, Ấn Độ không còn gì nữa đâu!?

* Câu hỏi thứ hai: Trong 27 vị tổ kế thừa của Thiền tông, ít nhất là cũng có 5 vị ở trong danh sách, lại không liên hệ gì với phái thiền cả:

- Thế Hữu (Vasumitra): Tổ thứ 7, sống vào thời vua Kanishka II, phụ tá với Hiếp tôn giả chủ trì kết tập kinh điển lần thứ IV của Hữu bộ bằng tiếng Saṅskrit. Hai bộ luận của ngài là “Dị bộ tông luận”“Giới thân túc luận” không liên hệ gì đến thiền tông cả. Ngược lại, Hữu bộ luận là nơi lập cước để các truyền thừa đi sau tranh luận với phái Không tông, trung quán của Long Thọ!

- Hiếp tôn giả (Pārasava): Tổ thứ 10, chủ tọa cuộc kết tập kinh điển lần thứ IV của Hữu bộ. Cũng không liên hệ gì với thiền tông Trung Quốc (Ngay sự sắp xếp Hiếp tôn giả thứ 10, mà Thế Hữu thứ 7, ta đã thấy có cái gì đó bất ổn rồi).

- Mã Minh (Aśvaghoṣa): Tổ 12, chính ngài là người nhuận sắc toàn bộ Tam Tạng cho Hữu bộ, cũng không liên hệ đến Thiền tông.

- Long Thọ (Nāgārjuna): Tổ 14, là vị triết gia kỳ vĩ, trước tác luận Trung Quán, là cơ sở của tất thảy học phái Không tông của đại thừa sau này. Lưu ý: Không tông là lập cước cho các kinh luận Đại thừa phát triển chứ không phải Thiền tông - là bất lập văn tự!

- Thế Thân (Vasubandhu): Tổ 21, ngài trước tác 500 bộ luận tạo giềng mối vững chắc cho Hữu bộ, đả phá Đại thừa. Sau, do Vô Trước, anh ruột, thuộc Đại thừa, buồn phiền mà sinh bệnh; thương anh, Thế Thân viết tiếp 500 bộ luận nữa để xiển dương Duy thức, phát triển tư tưởng Đại thừa. Với hành trạng như thế mà Thiền tông cũng đưa ngài vào làm tổ của mình! Tóm lại, Thiền tông cố ý đưa cả 5 vị kể trên - kế thừa tổ thiền tông cả - thì mọi tinh hoa tư tưởng đều được họ mang về phái mình hết rồi!

(1) Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh, tóm tắt bộ Kim Cương Bát Nhã.

(1) Nhập Tức Xuất Tức Niệm (Ānāpānasati Sutta), Trung Bộ III - Hán tạng: Trị Ý Kinh, Ðại I, 919; Kinh Thân Hành Niệm, Niệm Thân Kinh (Kāyagatāsati Sutta), Trung Bộ III - Trung A-hàm số 81, Ðại I, 554c; Kinh Niệm Xứ (Satipathāna Sutta), Trung Bộ I - Hán tạng: Niệm Xứ Kinh, Ðại I, 582b, Trung A-hàm số 98; Kinh Song Tầm (Dvedhāvitakka Sutta), Trung Bộ I - Hán Tạng: Niệm Kinh, Ðại I, 589d, Trung A-hàm số 102; Kinh An Trú Lâm (Vitakkasanthāba Sutta), Trung Bộ I - Hán tạng: Kinh Tăng Thượng Tâm, Ðại I, 158a, Trung A-hàm số 101; Trường bộ, kinh số 22; Tương Ưng I. Kinh Samiddhi (Samyutta Nikaya) tham khảo Tạp A Hàm, 99, các kinh số 803, 810, và 815, Tương Ưng V, Thiên Ðại Phẩm (Mahāvagga). Trung Bộ, Kinh Người Biết Sống Một Mình (Bhaddekaratta Sutta), 131.

 

(1) a, “Đạo sư” Duy Tuệ xuyên tạc gì về đạo Phật. b, Ông Duy Tuệ phỉ báng Tam  Bảo Phật, Pháp, Tăng như thế nào? c, “Đạo sư” Duy Tuệ - kẻ truyền tà đạo mượn lốt Phật giáo. d,Đạo sư” Duy Tuệ - xin hãy dừng lại. e, Về “Đạo sư” tự phong Duy Tuệ: “Cái kim bọc trong giẻ lâu này cũng lòi ra!”...

(1) Năm triền cái (nīvaraṇa): Hôn trầm, thụy miên (thīna-middha), nghi (vicikicchā), sân hận (byāpāda), trạo cứ, hối quá (uddhacca -kukkucca), tham dục (kāmacchanda). Năm thiền chi (jhānaṅga): Tầm (vitakka), tứ (vicāra), phỉ (pīti), lạc (sukha), nhất tâm (ekaggatā).

(2) Nếu là “nhất tâm định an” thì chỉ còn dòng tâm (dòng bhavaṅga) trôi chảy - không hay biết gì cả, như một giấc ngủ ngon không mộng mị; nếu xuống cận hành định, khởi tầm tứ thì dòng chảy này đứt dòng, dừng nghỉ để quan sát đối tượng - chính lúc này đối tượng (pháp) mới xuất hiện!

(1) Ngữ nghĩa “ẩn” của Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại - đều chỉ pháp tu nội quán, minh sát vipassanā cả. Quán là lắng nghe, quán sát, minh sát. “Thế” là thế gian, là “loka”, là thế gian ngoại giới, thế gian nội giới, duyên khởi căn trần thức. “Âm” là âm thanh. Khi dùng từ lắng nghe thì lắng nghe này theo nghĩa nội quán, nghĩa là lắng nghe toàn bộ sự duyên khỏi của 6 căn, 6 trần và 6 thức. Quán Tự Tại cũng vậy, là lắng nghe toàn bộ thân tâm đang là này, hiện tiền này, đương xứ tức chân này! Hình tượng bồ-tát Quán Thế Âm được dựng tượng đài thờ tự nơi này nơi kia - chỉ là mặt “hiển”cho quần chúng tín ngưỡng nương tựa mà thôi!

(1) Si (Moha), Vô tàm (Ahirika), Vô quý (Anottappa), Trạo cử (Uddhacca), Tham (Lobha), Tà kiến (Micchādiṭṭhi), Mạn (Māna), Sân (Dosa), Tật (Issā), Xan (Macchariya), Hối (Kukkucca), Hôn trầm (Thīna), Thụy miên (Middha), Nghi (Vicikicchā).

(2) Tín (Saddhā), Niệm (Sati), Tàm (Hiri), Quý (Ottappa), Vô tham (Alobha), Vô sân (Adosa), Trung tánh (Tatramajjhattatā), Tâm sở thư thái (Kāyapassaddhi), Tâm thư thái (Cittapassaddhi), Tâm sở khinh an (Kāyalahutā), Tâm khinh an (Cittalahuta), Tâm sở nhu nhuyến (Kāyamudutā), Tâm nhu nhuyến (Cittamudutā), Tâm sở thích ứng (Kāyakammaññatā), Tâm thích ứng (Cittakammanõnõatā), Tâm sở tinh luyện (Kāyapāguññatā), Tâm tinh luyện (Cittapāguññatā), Tâm sở chính trực (Kāyujjukatā), Tâm chính trực (Cittujjukatā), Chánh ngữ (Sammāvācā), Chánh nghiệp (Sammākammanta), Chánh mạng (Sammāājīva), Bi (Karuṇā), Hỷ (Muditā), Tuệ căn (Paññindriya).

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle