Hoàng Công Danh
Buổi sáng như thường lệ, sư thầy dậy sớm, ướp sẵn tách trà hoa
đại rồi bước ra vườn khai tâm thất tâm nhĩ bằng một bài
quyền bộ. Tùy theo hơi sương khí trời mà chọn bài đi
phù hợp. Sáng nào nhiều sương thì đánh bài Ngọc Trản, lấy chén ngọc hứng tinh
hoa ban mai. Hễ trời quang đãng thanh tịnh lại đi bài Bát Tiên, như một cung
cách gọi mời tám vị tiền bối cùng ngồi tri ẩm.
Riêng sáng nay thầy không đánh quyền mà chỉ luyện trung bình tấn
cho tụ khí đan điền và tập trung suy nghĩ một phương pháp giáo dục đệ tử.
Từ khi điệu Sanh vào chùa, thầy phải lo thêm nhiều thứ, đôi khi xảy ra nhiều
chuyện rắc rối tại điệu ấy hiếu động.
Thầy nghĩ, có lẽ ta nên dạy điệu Sanh tập võ, lấy sự vận động
để tiêu diệt hiếu động. Hơn nữa, cũng để tập cho điệu thói quen dậy sớm. Người nhà
chùa mà cứ mê man giữa ban ngày thì làm sao khai thị được chúng sanh.
Tất nhiên, phương pháp nào cũng có hai mặt của nó, đôi khi vận dụng không khéo
lại có tác dụng phụ ngoài mong muốn. Thầy vẫn chưa quên trong lịch sử,
cuối thời nhà Trần có vị tu sĩ Phạm Sư Ôn, là đệ tử của sư Vô Trụ. Phạm được đào
tạo võ thuật, cho đến một ngày nhận ra an nhiên tu để thoát tục dài và khó quá,
chi bằng tìm kiếm cái quyền lực giữa đời mà hoằng pháp, thế là dùng đao kiếm.
Mà đao kiếm vô tình, nếu lưỡi không cứng thì nó quay lại phản chủ.
Thời thế mỗi lúc một khác, đạo Phật vốn có tính khế thời, tùy nghi hành pháp cho
phù hợp. Con người ngày nay lại nhiều cám dỗ, thầy không chắc điệu Sanh
sẽ bền chí.
Trở vào tịnh thất,
thầy nhấp chén trà, nhìn điệu Sanh vẫn còn ngủ rồi quyết định sẽ cho điệu ấy
tiếp xúc với võ học. Dù kết quả có thế nào chăng nữa vẫn phải thử, như
một phép toán dẫu không đưa đến đáp án thì cũng thu
lượm được những kỹ năng.
Chỗ tập võ ở sau nương chùa, thầy không
muốn quấy tan không gian yên tĩnh trước cửa thiền. Hai thầy
trò cùng nhau luyện tập nơi khoảng đất nhỏ ấy thôi, bên cạnh có một hồ nước.
Hồi mới về chùa, sư thầy đã cấy những cọng sen xuống đây, đến năm sau sen đã
bung lá trên mặt nước, tạo thành từng trảng như những chiếc mẹt con thả nổi.
Bây giờ thì sen đã lan ra đầy hồ, lâu lâu thầy lại lội
xuống ngắt bỏ những chiếc lá đã quá già, nhường chỗ cho các lá non. Vào cuối
thu, mỗi buổi sớm sen đơm búp trắng như chắp tay cầu nguyện. Ở chính giữa
hồ, thầy thả nổi trên mặt nước một khung tre hình ngũ
giác, kích thước mỗi cạnh chừng sải tay thôi, ngăn không cho cánh sen len vào.
Thầy làm thế để chính giữa hồ có một khuông thoáng.
Tâm phải phẳng lặng. Từ bên bờ hồ, bắc một nhịp cầu tre nối ra phần mặt thoáng đó.
Vào dịp rằm tháng tư, thỉnh một tượng nhỏ hình Đức Phật Đản Sanh đặt chính giữa
hình ngũ giác, cho mọi người đến chùa múc nước tắm Phật.
Minh hoạ của Thanh Huyền
Sáng hôm ấy, điệu Sanh
đã được báo trước chuyện tập võ nên thức dậy sớm, tỉnh táo hẳn chứ không ngáp
ngắn ngáp dài như mọi bữa, vẻ hứng thú. Bắt đầu với những thế tấn: trảo
mã tấn, đinh tấn, trung bình tấn... Ở mỗi thế tấn, ngoài việc
hướng dẫn cách đặt chân sao cho đúng, thầy còn giảng về những đạo lý và cách
dùng. Chẳng hạn trung bình tấn là chia đều trọng lực cho các chân, người
ta muốn đứng vững giữa đời thì phải biết tự cân bằng cuộc sống của mình.
Trảo mã tấn dùng trong đòn nhá, dồn mọi trọng lực vào chân sau, chân trước như
là bình phong hộ mệnh.
Điệu Sanh chăm chú lắng nghe và làm theo.
Có vẻ đối với chú tiểu học võ dễ hơn nhiều so với học pháp.
Ở đời, hầu cái gì dùng tay chân cũng dễ hơn kiến thức
kinh viện.
Bữa sau lại học tiếp năm đòn đánh
tay và tám đòn cước chân sơ cấp. Các đòn tay đơn giản, thầy đi một lần là Sanh làm theo y chang.
Các đòn cước chân khó hơn. Đến nghịch đảo cước là đá
ngược vòng chân lui sau, rất dễ ngã. Tám đòn cước chân
đi liên hoàn trên một đường thẳng. Hai thầy trò nghỉ
mấy phút, lúc ấy thầy tranh thủ đi vào nhà ủ trà, còn điệu Sanh vẫn một mình
luyện các đòn cước chân. Giẫm phải hòn sỏi, đau chân.
Điệu nhặt nó lên, ném thẳng xuống chỗ mặt thoáng giữa hồ.
Thầy bước ra, nghe tiếng tõm nhỏ, mặt nước gợn lên những vòng sóng đồng tâm
loang dần ra.
Thầy hỏi sao con ném đá xuống hồ. Sanh
đáp: “Ai bảo nó làm con đau”. Thầy cười, không dưng lại đi
giận hòn đá, thật là trẻ con.
Mà chẳng riêng gì trẻ con, người lớn cũng thường giận vô cớ.
Có khi còn vô minh và vô tâm hơn thế, họ ném tất tần tật mọi thứ thừa thãi xuống
các hồ nước đấy thôi. Người tập võ phải khác, tâm mình đang thanh sạch
thì đừng ném cái bực bội vào đó, và cũng không thể dùng tay
chân để trút bỏ giận hờn. Ở khía cạnh này, việc luyện võ giống với sự tu hành
của đạo Phật. Giữ cho tâm bình yên, bước chân an lạc, ý nghĩ và hành động phải
trong sáng.
*
Nhớ ngày xưa, trước khi vào chùa, sư
thầy là chàng trai phẫn chí, bỏ nhà đi lang bạt, rồi
dừng chân nơi miền cao, được một vị võ sư phái Long Phi gốc Sông Bé cho ở nhờ. Hằng ngày chàng trai có nhiệm vụ đi gánh nước. Buổi sáng về
tưới vườn rau quanh võ đường. Buổi chiều gánh về cho các võ sinh rửa
tay chân sau khi tập luyện. Còn thêm mấy thùng nước
sạch nhất lấy ở chỗ khe chảy ra, đem về để nấu ăn. Gánh như thế được một
tháng thì chân tay chàng nhỏ lại, nhưng rắn chắc hơn. Bấy
giờ vị võ sư mới cho chàng tham gia vào lớp tập luyện. Chàng mừng ra mặt,
nói hôm mới vào đây con muốn xin thầy theo học lắm,
nhưng ngó thầy khó nên con không dám, chỉ xin được tá túc vài bữa thôi.
Vị võ sư già ngẩng mặt lên cười.
- Không riêng gì con, tất cả môn đệ của
ta đều thế cả. Muốn
theo học đều phải trải qua một tuần trăng gánh nước.
Mục đích trước hết là để cho da thịt săn chắc, xương khớp dẻo
dai
trước khi tham gia vào võ đường. Sau nữa, điều quan trọng là
gánh nước để thanh tẩy tâm mình. Võ học như thiền định
vậy. Và sau cùng, sự tưới tẩm sẽ làm nẩy sinh những mầm
xanh. Ngay bây giờ con nên ghi nhớ châm ngôn của võ học cổ truyền: “Hãy
biến sức mạnh thành tình thương đi gieo rắc quê hương, mãi bao giờ Việt Nam còn
thì võ học còn, nhằm đáp báo ơn sư và rạng danh môn phái”.
Chàng trai theo
thầy tập luyện bốn năm trời, miệt mài bền bỉ, và sớm được thăng cấp hồng đai tứ
đẳng. Đai đỏ là huấn luyện viên cao cấp rồi.
Khi ấy chàng mới hai mươi ba tuổi, phải đợi thêm năm năm nữa, đủ hai mươi tám
tuổi mới được làm luận để thăng tiếp bạch đai
và cấp chuẩn võ sư. Nhưng chừng ấy năm theo học với sư phụ, những đường quyền ngọn cước đã giúp
chàng khai ngộ ra nhiều điều, bỏ đi những tâm tánh ngang ngược, thế là được rồi,
cần chi võ vị nữa. Chàng xin phép sư phụ được rời võ đường.
Trước khi đi không quên hứa hẹn, năm năm nữa sẽ quay lại, hứa là để sư phụ
an tâm rằng học trò của mình vẫn còn nhiệt huyết với võ
học. Sư phụ chấp thuận cho chàng đi và dặn, hễ đến đâu thấy điều kiện
thuận lợi thì nên truyền thụ cái đã học được, một phần giúp người, phần nữa là
duy trì môn phái. Nhưng nhớ, đừng mãi võ kiếm cơm…
Hai mươi ba tuổi,
thanh niên chừng ấy đã có nghề nghiệp để làm ăn. Chàng
thì vẫn chưa có gì ngoài sức lực. Thời gian ở với sư
phụ, ngoài luyện võ thì chỉ trồng trọt mà thôi. Cuối
cùng chàng vào một ngôi chùa và ở lại đấy, hằng ngày cùng sư trụ trì chăm tỉa
vườn tược và học đạo. Nói vậy nghe có vẻ vì vô công rồi
nghề, sợ đói mà vào chùa.
Thật ra, người ta tu là có duyên cả, đừng tưởng có cơm ăn
chỗ ở mà sống được chốn thiền đâu. Tu cũng là một cái nghiệp đấy thôi.
*
Kể từ ngày rời võ
đường đã ba mươi năm, những bài quyền có quên một vài bộ, mấy câu thiệu có bị
lẫn lộn trước sau chút ít.
Nhưng thầy cố gắng nhớ, cái gì nhớ không nổi thì có thể tự
nghĩ ra, làm sao cho bài quyền đi thông suốt là được. Ngày xưa sư phụ
chẳng đã dạy, chính do tam sao thất bản mà võ học Thiếu Lâm ngày nay phong phú
là gì. Bây giờ thầy dạy điệu Sanh, cũng là một dịp để thầy nhớ lại những bộ
pháp. Mỗi người thầy là một học trò cần mẫn ôn bài.
Nghĩ lại thấy công phu
gánh nước luyện võ của sư phụ ngày ấy thật thâm thúy. Như một thứ công
án thực hành của nhà Phật. Nhờ gánh nước mà tuổi trẻ nông nổi của thầy
được cải thiện, thuần hóa. Thầy tự đặt cho công án
này một cái tên là “luyện nước”, và tính chuyện đem ra áp dụng đối với điệu
Sanh.
Ngày hôm sau, trước buổi tập võ, sư thầy
chỉ tay
ra hồ nước, hỏi điệu Sanh còn nhớ chuyện hôm qua không. Điệu ngơ ngác:
- Chuyện gì hả thầy?
- Thì chuyện con ném hòn sỏi xuống hồ,
con đã làm bẩn hồ nước, một hòn sỏi nhỏ chừng đó đủ để làm cho mặt nước bớt tĩnh
tại. Bây giờ thế này.
Mỗi ngày trước lúc tập võ con hãy đi quanh hồ, nhặt những chiếc lá úa rụng xuống
đó.
Điệu Sanh nghe lời
thầy. Bữa đầu nhặt hơi lâu vì lá rụng nhiều ngày dồn
lại, những lần sau thì điệu chỉ đi một vòng, loáng cái là xong nhiệm vụ.
Thầy nói nếu người ta năng làm sạch một nơi nào đó thì mỗi lần làm sẽ nhanh hơn.
Cái tâm con người ta nếu ngày nào cũng đem ra mài giũa thì dễ tiến bộ hơn.
Có buổi tập xong, buồn
tiểu quá, Sanh kéo quần vãi luôn xuống hồ nước. Quen. Lần sau điệu Sanh lại cứ xả tự nhiên. Xem
ra tiểu ở chỗ này cũng vui vui. Những vòng tròn đồng
tâm cứ loang ra trên mặt thoáng, vài chú cá tưởng sắp được ném mồi cứ vây tới
đớp đớp.
Rồi sư thầy cũng bắt
gặp điệu Sanh đi bậy. Thầy lại giao cho Sanh thêm một
nhiệm vụ. Cứ sau buổi tập điệu phải múc năm gáo nước ở chỗ đó, đem tưới
vào hàng hoa lan
đất trước cổng. Làm ô uế nước hồ thì múc nó đi.
Lần phạt này xem ra điệu Sanh không hào hứng như bữa bị bắt nhặt lá sân chùa,
hay vớt lá mặt hồ. Điệu nghĩ, múc hết cái hồ này chắc phải đến sang năm.
Bây chừ lại là mùa đông, vườn chùa ngày nào cũng trút lá, gió quét lá xuống hồ.
Dăm ba bữa lại có trận mưa, nước hồ đầy lên. Xem chừng
nhiệm vụ vớt lá và múc nước của điệu Sanh còn dài.
Cho đến một bữa, bất
ngờ sư thầy thôi phạt điệu Sanh. Đấy là ngày điệu đi trọn vẹn bài Thiền
Sư Vạn Tự quyền đúng đồ hình chữ Vạn của nhà Phật, thuận theo
một chiều như nước trôi, mỗi thao tác đã tuân thủ những quy luật nghiêm ngặt của
tâm.