·
Thích Nhất Hạnh
Nghệ thuật sống hạnh phúc là nghệ
thuật tạo dựng và duy trì hạnh phúc. Trong đời sống
hàng ngày chúng ta có những cảm thọ, những cảm thọ dễ chịu hay những liên hệ
trực tiếp với những cảm thọ dễ chịu ấy. Chúng ta có thể hình dung hạnh
phúc là những bông hoa trong khu vườn mà người làm vườn có thể chế tác được. Nếu người làm vườn có thể chế tác được những bông hoa thì người hành
giả cũng có thể chế tác được hạnh phúc.
Trong
một khu vườn, chúng ta thấy có hoa và có rác. Người làm vườn biết chế tác những bông hoa nhưng cũng biết
xử lý những cọng rác. Giữa hoa và rác có sự liên hệ.
Trong khi chế tác bông hoa, người làm vườn có thể sử dụng rác để làm phân nuôi
dưỡng hoa. Nghệ thuật xây dựng và duy trì hạnh phúc có liên hệ đến nghệ thuật
xử lý khổ đau. Nếu không có khả năng xử lý khổ đau thì
ta cũng không có khả năng tạo dựng hạnh phúc. Hai công
việc đó có liên hệ với nhau. Chủ đề Nghệ thuật tạo dựng
hạnh phúc có liên hệ mật thiết với chủ đề Nghệ thuật xử lý và chuyển hóa khổ đau,
chúng đan xen vào nhau. Khi biết tạo dựng hạnh phúc thì
đồng thời ta biết xử lý và chuyển hóa khổ đau. Khi biết
xử lý và chuyển hóa khổ đau thì đồng thời ta cũng biết tạo dựng hạnh phúc.
Tuy là hai công việc nhưng kỳ thực chỉ là một. Nghệ
thuật xử lý khổ đau là nghệ thuật tạo dựng hạnh phúc tại vì, hạnh phúc là sự
vắng mặt của khổ đau và khổ đau là sự vắng mặt của hạnh phúc.
Người làm vườn biết xử lý hoa và rác
thì người tu (hành giả) phải biết xử lý hạnh phúc và khổ đau. Anh chị phải có
khả năng tạo dựng hạnh phúc và phải có khả năng chuyển hóa khổ đau.
Chừng nào còn chưa làm được việc đó thì anh chị chưa phải là
người tu giỏi. Anh chị phải học và phải xử lý cho được.
Xử lý, tiếng Pháp là gérance (gérer
une soufrance, gérer un
bonheur), tiếng Anh là handling (handling of happiness, handling of suffering).
Là một hành giả, chúng ta phải biết làm chuyện đó. Khi có người hỏi: “Anh
chị là người thực tập, anh chị có khả năng chế tác niềm vui, chế tác hạnh phúc
không? Hãy làm cho tôi xem đi!”, thì chúng ta phải làm
liền. Như khi có người hỏi: “Chị có biết làm đậu hủ (đậu phụ) không?
Anh có biết nấu canh chua không?” thì chúng ta phải làm được liền, nấu được liền.
Với hạnh phúc và khổ đau cũng vậy, chúng ta phải có khả năng tạo dựng được một
phút giây hạnh phúc, chúng ta phải có khả năng xử lý được một nỗi khổ niềm đau.
Nếu chưa biết thì ta phải học làm, làm cho mình trước rồi sau đó ta mới có khả
năng giúp được người kia.
Chúng ta chỉ
nói Nghệ thuật hạnh phúc (Art of happiness) mà không nói Nghệ thuật khổ đau (Art
of suffering), nhưng thực ra hai cái đó là một. Art of happiness
và Art of suffering là một tại vì hạnh phúc và khổ đau tương tức.
Người tu phải xử lý được thân của mình vì thân thể là nền tảng của nhiều khổ đau
và của nhiều hạnh phúc. Thân làm phát sinh ra cảm thọ,
vì vậy người tu phải quán thân, phải biết chăm sóc thân và phải biết xử lý thân
của mình. Tu không phải chỉ tu tâm mà phải tu cả thân
nữa.
Ở Làng Mai, chúng ta hay nói thân như
một dòng sông, trong đó mỗi tế bào là một giọt nước. Dòng sông
hình hài luôn luôn tuôn chảy và chuyển biến. Ta học nhìn hình hài của
mình như một cái gì linh động, luôn luôn chuyển biến chứ không phải như là một
thực tại cứng ngắc, bất động. Đó là dòng sông sắc thân.
Người hành
giả phải thấy đi đôi với dòng sông sắc thân đó còn có dòng sông cảm thọ. Cảm thọ này nối
tiếp cảm thọ khác, có khi có hai hay ba cảm thọ cùng khởi lên một lúc. Ví dụ một người vừa nhận một khoản tiền bất chính, người ấy vừa
mừng, vừa lo sợ, vừa ít nhiều mặc cảm. Dòng sông cảm
thọ cũng là đối tượng chăm sóc của mình. Người tu phải biết quán chiếu và chăm sóc từng cảm thọ mỗi khi thấy
nó phát khởi trong tâm. Nếu dòng sông sắc thân có hàng
tỷ giọt nước gọi là tế bào thì dòng sông cảm thọ cũng có hàng tỷ giọt nước cảm
thọ. Mỗi khi có một giọt nước cảm thọ phát hiện thì
chúng ta phải nhận diện được nó, nhìn sâu vào để thấy được bản chất, thấy được
gốc rễ của nó thì mới xử lý được.
Có một dòng
sông khác gọi là dòng sông tâm hành. Chúng ta có cái buồn, cái lo, cái
sợ, cái ghét, chúng ta có cái thương, cái tha thứ bao dung.
Mỗi người có tất cả 51 tâm hành, có tâm hành tốt, tâm hành xấu và tâm hành trung
tính (có thể trở thành tốt hoặc trở thành xấu). Giống
như những cảm thọ, người tu phải có khả năng nhận diện và xử lý những tâm hành
khi chúng phát hiện.
Khi cái giận phát hiện thì chúng ta phải nhận diện, ta phải biết được gốc rễ của
cơn giận. Nó phát xuất từ chỗ nào và tại sao nó phát xuất?
Do sự nhận diện và sự hiểu biết đó ta có khả năng xử lý được cơn giận, xử lý
được tâm hành của mình.
Cuối cùng
hành giả phải nhìn vào dòng sông pháp tức dòng sông tri giác (tưởng). Pháp là đối
tượng của tri giác (perception) tức nhận thức của ta về thân, về thọ, về tâm và
về những hiện tượng khác. Núi sông, cây cỏ, tinh tú, v.v… đều là những đối tượng của nhận
thức. Đó là bốn lãnh vực của sự quán chiếu: thân, thọ, tâm, pháp.
Pháp là đối tượng của tri giác. Tri giác sai lầm đưa
đến những giận hờn, sợ hãi, lo lắng và những giận hờn, sợ hãi, lo lắng đó tạo ra
cảm thọ đau buồn. Thân của mình có thể chứa đựng sự căng thẳng, đau nhức,
bệnh tật hay sự xung đột bên trong. Trong dòng sông thân có
thể có sự xung đột giữa các yếu tố đất, nước, gió, lửa và sự căng thẳng trong
thân đưa tới những cảm thọ đau nhức. Nếu không biết chăm sóc thân, tâm
hành và tri giác thì có thể đưa đến sự phát sinh của những cảm thọ đau đớn.
Người tu không phải chỉ biết chăm sóc cảm thọ mà còn phải biết chăm sóc thân,
tâm hành và tri giác của mình.
Nếu có một
cảm thọ đau nhức thì ta phải nhìn cho sâu vào cảm thọ đó. Ta có thể thấy được gốc rễ của nó, nó tới từ thân hay
từ tri giác hay từ những tâm hành như lo lắng, sợ hãi, buồn khổ?
Đây là toàn thể khu vườn của người làm vườn. Nếu giỏi thì người làm vườn
biết xử lý những yếu tố về thân, về tâm và về pháp để đưa tới sự chế tác những
bông hoa lạc thọ và đồng thời xử lý được những cọng rác khổ thọ.
Chúng ta quán thân, nhìn vào thân để
nhận diện những mầu nhiệm cũng như những đau nhức, những xung đột trong thân rồi
biết cách xử lý thân để chuyển hóa những cảm thọ đau buồn tới từ thân.
Chúng ta quán chiếu tri giác và tâm hành của mình để hiểu rõ gốc rễ của tâm hành
đó. Như tâm hành giận dữ, sợ hãi và lo lắng đưa tới nỗi
khổ niềm đau. Ta phải quán chiếu những tâm hành này để thấy được gốc rễ
của nó từ nơi tri giác của mình. Chuyển hóa được tri giác sai lầm thì những sợ
hãi, lo lắng không còn nữa và những nỗi khổ niềm đau trong phạm
vi
cảm thọ sẽ tan biến. Vấn đề ở đây là không phải chỉ xử lý những cảm thọ mà phải
xử lý sắc thân, tâm hành và tri giác của mình. Học Duy Biểu chúng ta biết có 51
tâm hành và bản chất của các tâm hành như: cái giận, cái sợ, cái lo, cái tham
đắm. Mỗi khi một tâm hành phát hiện thì ta phải nhận diện, ta
phải gọi tên tâm hành đó cho được. Ta phải biết bản chất của nó và phải
nhìn sâu để biết nó phát xuất từ chỗ nào? Tất cả những hiểu biết này rất cần thiết để giúp hành giả xử lý nỗi
khổ niềm đau và đồng thời cũng chế tác được niềm vui hạnh phúc của mình.
Làng Mai hay nói đến tính tương tức
giữa cái này và cái kia. Chúng ta hay đưa ra hình ảnh của sen và bùn.
Nếu không có bùn thì sẽ không có sen. Nhìn vào sen ta thấy bùn và nhìn vào bùn
ta thấy được khả năng làm ra sen. Khổ đau và hạnh phúc cũng vậy.
Trong vị ngọt của hạnh phúc, nếu quán chiếu kỹ và tiếp xúc sâu thì mình có thể
nhận diện được vị đắng của khổ đau.
Nhưng đôi khi vị đắng của khổ đau lại làm cho vị ngọt của hạnh
phúc sâu đậm hơn. Như lúc nấu chè, thỉnh thoảng nếu bỏ
thêm vào chút muối, vị mặn của muối sẽ làm cho vị ngọt của chè đậm đà hơn.
Nếu quán
chiếu kỹ thì ta thấy, hạnh phúc tùy thuộc vào tâm của mình hơn là tùy thuộc vào
hoàn cảnh. Những gì xảy ra cho mình tùy thuộc
vào cách mình nhìn sự việc đó, tùy theo cách mình nhìn
mà nó trở thành niềm vui hay nỗi khổ. Ví dụ buổi sáng thức dậy sớm để đi ngồi
thiền đó là niềm vui hay nỗi khổ? Mình mở cửa, đi ra, bước
từng bước chân tới thiền đường. Khi ấy mình có hạnh phúc hay không có
hạnh phúc không phải tại vì có cái cửa, có thiền đường, có con đường từ cửa tới
thiền đường, có hai chân và có giây phút đi ra thiền đường, mà nó tùy vào cách
mình nhìn vào sự kiện đó. Nếu có chánh niệm, có ý thức thì
mình có thể có hạnh phúc trong khi mở cửa, được tiếp xúc với không khí trong
lành mát lạnh của bên ngoài, đó là một niềm vui. Bước chân đi cũng có thể trở thành một niềm vui.
Bằng không thì đang ngủ ngon mà phải thức dậy là đau khổ, bước ra ngoài tiếp xúc
với cái lạnh là đau khổ, phải bước chân tới thiền đường cũng là đau khổ.
Nhưng nếu nhớ lại hai tuần trước mình lên cơn sốt phải nằm trên giường không đi
đâu được, môi khô miệng đắng, đầu đau như búa bổ, lúc ấy mình ao ước được đi ra
ngoài. Bây giờ hãy đưa ký ức đó trở về, đem bối cảnh của quá
khứ trở về với giây phút hiện tại thì mình sẽ thấy được mở cửa bước ra ngoài là
một niềm hạnh phúc.
Do đó hạnh phúc hay khổ đau là do tâm chứ không phải do cảnh.
Quý vị đã
từng thấy một xác chết chưa? Một người thân
chết nằm trên giường hay một con thú, một con chim đã chết. Dù là một em
bé năm, sáu tuổi cũng đã có cơ hội thấy một cái chết. Con chim chết nằm cứng đơ
không bay được nữa, một người già hay một em bé chết cũng nằm cứng đơ không cử
động được. Dù có làm cách nào đi nữa thì con chim kia
cũng không bay được, cái xác kia cũng không ngồi dậy, bước đi hay chạy nhảy
được.
Trong thời gian Tăng thân ở San
Diego, một số các thầy, các sư cô được xem một cuộc triển lãm gọi là Body World,
trong đó người ta trưng bày toàn là xác chết, xác chết của người thật, đó là
những người đang còn rất trẻ, còn khỏe mạnh nhưng bị bệnh gì đó mà chết. Có những thân hình rất đẹp của những người thanh niên vạm vỡ.
Triển lãm trưng bày hàng trăm xác chết đứng trong những tư thế khác nhau. Có
người đang đứng trong tư thế trượt tuyết, có người đang đứng trong tư thế chơi
bóng rổ, ... Người ta dùng thủ thuật ướp xác để giữ cho
xác chết được nguyên vẹn. Chúng ta có thể nhìn được những bắp
thịt, thỉnh thoảng người ta xẻ một miếng trên thân thể xác chết để mình thấy
được phía trong. Thăm triển lãm này mình được tiếp xúc trực tiếp với
những hình hài thật của con người. Có những người còn trẻ lắm
nhưng đã chết. Đi xem một cuộc triển lãm như thế trong vòng một hai giờ, cũng giống
như ta được thiền quán về cái chết suốt một hai giờ đồng hồ. Đến khi đi
ra khỏi triển lãm thì những hình ảnh đó sẽ đi theo
mình, mình biết thế nào mai mốt mình cũng sẽ chết, không chết vì bệnh thì cũng
chết vì già. Tất cả mọi người sinh ra đều phải chết.
Khi bước đi một bước mà mình nhớ lại hình ảnh của những xác chết kia thì mình
thấy rất rõ là mình đang còn sống, đang cử động, đang bước được những bước chân
thì đó là những gì rất mầu nhiệm. Tự nhiên mình trân quý những
bước chân và mình thấy hạnh phúc.
Thở vào, mình để ý tới hơi thở vào,
đem tâm trở về với thân, thật sự có mặt trong giây phút hiện tại, bước một bước,
mình tiếp xúc được với sự thật là mình chưa chết, mình vẫn còn sống. Mình bước
một bước và nói: “Tôi bước cho anh đây. Anh cứng đơ không bước được”. Bước được một bước tại vì mình còn là một cơ thể đang sống, mình
thấy đây là một sự thật rất là mầu nhiệm.
Trong khóa tu
tại Mỹ, lúc ấy tôi đang ở tu viện Bích Nham thì nghe tin Sư thúc (*) nhập diệt. Tôi đã đi thiền
hành cho Sư thúc. Sư thúc đã nhập tháp không còn đi được nữa và tôi đã đi
cho Sư thúc, Sư thúc đã bước đi bằng đôi chân của tôi, những bước chân như vậy
rất mầu nhiệm và tôi trân quý những bước chân mà mình đang bước.
Bước một bước là thấy được tất cả sự mầu nhiệm của một cơ thể còn sống, đó là
một niềm vui, một lạc thọ.
Nhưng trong lạc thọ ấy mình tiếp xúc được cùng một vị với khổ
thọ.
Chính cái thấy về cái chết đã làm nổi bật lên cái thấy về cái
sống. Nhìn kỹ một bông sen mình tiếp xúc được với bùn. Trong lạc
thọ mình đang có, có chất đắng của khổ thọ ở trong, nhờ vậy mà lạc thọ càng rõ
ràng hơn.
Cả tháng nay
mỗi khi tôi thực tập mười động tác chánh niệm, tôi đều làm cho tất cả những xác
chết trong phòng triển lãm ấy. Mỗi khi tôi đưa
tay lên tôi quán tưởng tất cả những xác chết ấy cùng đưa tay lên một lượt
với tôi. Tôi tiếp xúc với từng cảm thọ xảy ra trong từng bắp
thịt. Quý vị thử đi! Thử đưa tay lên giùm họ đi,
đưa tay dài thẳng lên, rồi từ từ buông xuống, hết sức là mầu nhiệm.
Tôi đã quán chiếu như vậy suốt mười mấy phút tập thể dục của mình. Cũng như khi tôi đi thiền hành cho Sư thúc, trong vị ngọt của lạc
thọ có chứa đựng vị đắng của khổ thọ, trong sen có bùn.
Bây giờ hình hài của Sư thúc nằm trong tháp, Sư thúc không đi thiền hành với
mình nữa thì mình đi cho Sư thúc. Tôi nhớ lúc Sư thúc qua Làng Mai lần
đầu, tôi đã đưa Sư thúc đi thiền hành khắp nơi, xóm Hạ, xóm Mới, xóm Thượng, Sơn
Hạ. Sư thúc nói: “Đất chùa bên này lớn hơn cả cái xã Thủy Xuân bên chùa Tổ”.
Sư thúc đã nếm được pháp môn thiền hành, đã thấy được pháp lạc khi đi từng bước
chân. Có hình chụp Sư thúc đang nắm tay tôi đi thiền hành, rất đẹp. Sư thúc còn có cơ hội qua làng lần thứ hai và cũng đi thiền hành
trên những con đường đó, rất mầu nhiệm. Bây giờ mình đi cho Sư thúc. Đi cho Sư thúc thì bước chân thiền hành của mình có phẩm chất hơn.
Mình đi cho bất kỳ ai cũng được.
Mình cũng có
thể đi cho mình, tại vì một ngày nào đó nếu không vào tháp thì mình cũng vào một
chỗ khác thôi. Trong giai
đoạn này mình đi cho mình ở những giai đoạn kia.
Quý vị làm được không? Tôi đã làm rồi, rất là hay! Mình đừng đợi người
khác đi cho mình, bây giờ mình đi cho mình đi! Quý vị có hiểu
tôi muốn nói gì không? Đừng đợi sau khi mất, nằm xuống
đó rồi sẽ có người đi cho mình. Bây giờ mình phải tự đi
cho mình đi. Như vậy mỗi bước chân sẽ đem lại an lạc và hạnh phúc, rất là mầu
nhiệm.
Qua đó chúng ta khám phá ra một điều: trong vị ngọt của hạnh phúc luôn luôn có
vị đắng của khổ đau.
Trong khi
chơi đá bóng mà muốn có hạnh phúc thì mình phải nghĩ tới thời gian mình đau liệt
giường liệt chiếu, không cựa quậy được. Mình nhảy lên, tung quả bóng lên rất hạnh phúc tại vì chính trên bối cảnh
của khổ đau mà hạnh phúc được nhận diện rõ ràng.
Khi đã trải
qua chiến tranh giặc giã rồi thì kinh nghiệm về chiến tranh là những hình ảnh
của khổ đau. Được sống
trong hoàn cảnh không có súng đạn, không có giết chóc mình đem cái hòa bình đó
đặt trước bối cảnh của chiến tranh thì hòa bình hiện lên rõ ràng như một cái gì
rất đáng quý. Nếu không thì chúng ta không biết trân quý hòa
bình. Mình trân quý hòa bình từng giờ từng phút.
Trong thời chiến tranh, lâu lâu người ta chấp nhận đình chiến trong vòng 24 giờ
đồng hồ. Trong 24 tiếng đó nhiều người trong và ngoài nước thở được.
Mình tưởng tượng cây cối cũng không có sợ hãi, dám vươn lên, mọc thêm, chứ đừng
nói gì đến chim chóc và con người. 24 giờ hòa bình đó rất là
nhiều, rất là hạnh phúc. Nếu ai đã đi ngang qua chiến tranh như chiến
tranh Việt Nam ngày trước hay chiến tranh Iraq thì mình biết một ngày đình chiến
vô cùng quý giá. Mình ước mong tại sao người ta không đình chiến thêm 24 giờ đồng hồ
nữa?
Quý vị sinh
ra vào thời bình, quý vị không thấy được sự quý giá của 24 giờ đình chiến.
Tôi nhớ hồi đó, tôi bôn ba đi tranh đấu cho hòa bình, mỗi khi
có 24 giờ đình chiến tôi thấy khỏe nhẹ vô cùng. Tôi biết trong giờ phút đó đồng bào ở nhà không có ai chết, súng đạn
im hơi được 24 giờ. Mình hỏi tại sao loài người lại dại
dột như vậy? Tại sao không kéo dài đình chiến trong vài
ngày nữa? Có những thanh niên chưa biết chiến tranh là
gì, chưa biết khổ đau của chiến tranh là gì nên họ không có khả năng thưởng thức
và thấy được giá trị của hòa bình.
Trong Kinh Niệm Xứ, phần quán niệm về
tâm trong tâm, chúng ta đọc: “Mỗi khi có tâm hành giận phát hiện thì hành giả
biết có tâm hành giận đang hiện hữu. Mỗi khi có tâm hành tham dục phát hiện thì hành giả biết tâm hành
tham dục đang có mặt”.
Cố nhiên khi có tâm hành giận dữ hoặc đam mê phát hiện thì chúng ta phải nhận
diện để ôm ấp và chuyển hóa chúng. Nhưng kinh cũng có nói: Mỗi khi không có tâm
hành giận dữ thì mình phải ý thức rằng, không có tâm hành giận dữ trong mình. Mỗi khi không có tâm hành tham đắm thì hành giả nói, không có tâm
hành tham đắm trong tôi.
Nếu không đọc kinh với tính cách của một hành giả thì chúng ta hỏi, tại sao lại
phải nói dư ra như vậy: Khi có tham đắm thì biết là có tham đắm, khi không có
tham đắm thì biết là không có tham đắm. Khi có giận dữ thì
biết là có giận dữ, khi không có giận dữ thì biết là không có giận dữ.
Trong kinh cứ lặp đi lặp lại như vậy, mình có cảm tưởng viết như vậy là dư thừa,
nhưng kỳ thực không dư thừa chút nào. Khi quý vị không có tâm hành giận
dữ thì nghĩa là quý vị có hạnh phúc, nhưng quí vị không biết đó là hạnh phúc,
đến khi có tâm hành giận dữ phát hiện rồi thì mình mới biết rằng không có giận
dữ là hạnh phúc. Trước đây mình tưởng không có giận dữ là bình
thường, là không phải hạnh phúc. Hạnh phúc vốn là sự vắng mặt của khổ đau, cũng như hòa bình là sự
vắng mặt của chiến tranh. Khi có đam mê thì mình khổ và
khi không có đam mê là hạnh phúc nhưng mình không biết trân quý điều đó.
Trong kinh nói: “Mỗi khi không có đam mê thì hành giả phải biết rằng, trong mình
không có đam mê”. Mình phải nhớ, có đam mê thì khổ lắm.
Câu “trong tôi không có đam mê” có nghĩa “có đam mê thì khổ
lắm”.
Ở Làng Mai chúng ta hay nói tới
chuyện đau răng. Nửa đêm lúc một, hai giờ khuya tự nhiên mình đau răng quá. Mình
biết ông nha sĩ không mở cửa trước chín giờ sáng và mình phải chịu khổ từ bây
giờ cho đến chín giờ sáng. Lúc đó mình giác ngộ ra sự thật: không đau răng là
mầu nhiệm,
không đau răng là hạnh phúc. Theo nguyên tắc của kinh thì chúng ta thực tập như
thế này: Khi đau răng thì tôi biết là tôi có đau răng, khi tôi không đau răng
thì tôi phải biết là tôi không đau răng. Khi biết không đau răng thì tự nhiên
mình có hạnh phúc. Cái không đau răng chỉ được nhận diện trên bối cảnh của cái
đau răng cũng như hòa bình được nhận diện trên bối cảnh của chiến tranh mà thôi.
Khổ đau và hạnh phúc dính liền nhau rất mật thiết, không khổ đau thì không nhận
diện được hạnh phúc. Vì thế có kinh nghiệm, có ký ức về
khổ đau rất quan trọng. Nếu quý vị đã từng khổ đau, đã
từng đi qua khổ đau thì cái đó rất quý tại vì nhờ đó mà mình nhận diện được
những giây phút hạnh phúc có thể có được. Vì vậy người
hành giả phải có khả năng chế tác ra hạnh phúc, mình chỉ cần nhớ tới khổ đau của
quá khứ là có thể tiếp xúc được với hạnh phúc trong hiện tại rồi.
Mỗi giây phút của đời sống hàng ngày có thể là một giây phút hạnh phúc nếu mình
đặt giây phút đó trên bối cảnh của khổ đau quá khứ và khổ đau hiện tại trong
mình và xung quanh mình. Khi có nỗi khổ niềm đau mà
mình biết cách xử lý và ôm ấp thì, tuy khổ đau còn đó nhưng mình đã hết khổ tại
vì mình thấy rõ là mình có thể làm gì đó để xử lý khổ đau.
Có những
người khổ đau mà cứ ngồi như vậy để chịu chết, để cho khổ đau tràn ngập, chế
ngự, nghiến nát mình. Là hành giả, mình phải biết làm cái
gì đó, mình có thể nói: Đây là bùn là cái mình rất cần để nhận diện và chế tác
ra hoa sen. Chỉ cần thấy như vậy thì tình trạng thay đổi liền lập tức. Người hành giả phải có khả năng quản lý khổ đau của mình, nếu biết
quản lý khổ đau thì sẽ có khả năng chế tác hạnh phúc.
Khổ đau và hạnh phúc dính liền với nhau.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(*) HT.Thích Chí
Mậu, trụ trì Tổ đình Từ Hiếu, Huế.