Bác Tâm Thành Phạm Đăng Siêu: Sống Vì Người

bac tam thanh

Lời đầu truyện:

(với lòng tôn vinh và tán thán công đức của vị Bồ tát tại gia Phạm Đăng Siêu, ngoài những sự kiện chính thức- người viết xin phép được lồng vào truyện những chi tiết mang tính hư cấu trong ít nhiều hoạt cảnh để thêm chút thi vị, rất mong được sư cảm thông của đại gia đình Phạm Đăng vả các bậc trưởng lão độc giả)

 

 

 

SỐNG VÌ NGƯỜI

 

Ngược dòng thời gian vào mùa hè năm 1920 cả thành phố Huế như cong mình hứng chịu cái nắng chang chang với cái nóng khủng khiếp; mọi người ai cũng ngại phải đi lại trong không gian oi ả, chỉ có các chú ve sầu là siêng năng trong dàn nhạc hợp tấu bản trường ca mùa phượng nở.

Từ phía Phu Văn Lâu đi ngược lên qua cầu Bạch Hổ chưa đầy trăm mét chúng ta thấy về phía tay phải một tòa phủ đệ trang nghiêm với chiếc cổng tam quan trầm mặc đứng giữa một vòng la thành kín đáo, phía trên vòm cổng là tấm bảng khắc bốn chữ “Đức Quốc Công” uy nghi bề thế - đây là phủ đệ và Từ đường của quan Đại thần Quốc trượng Phạm Đăng Hưng – bậc nghiêm phụ của Thái hậu Từ Dũ - vị hoàng phi sủng ái của vua Thiệu Trị.

Vào khoảng 12 giờ trưa của một ngày đầu tháng tư, từ cánh cổng phụ bên trái của phủ “Đức Quốc Công” một cậu bé vào khoảng 8 tuổi mặt mày thông tuệ và đặc biệt là đôi mắt sáng như hai vì sao lách mình ra khỏi cửa phủ, hai tay cậu khư khư ôm một cái hũ đất (loại hũ hình trái ấu đựng nước mắm Phú Quốc) chạy như bay băng qua con đường lớn trước mặt phủ và cậu men xuống bờ sông Hương ngồi bệt trên bãi cỏ thở dốc vì cái hũ quá nặng so với sức vóc và tuổi tác; song trong đôi mắt trong veo ta thấy như cậu đang cười.

Với tâm trạng phấn chấn cậu ôm cái hũ đất đi lần xuống mặt nước thận trọng dò dẫm lội ra xa; khi nước sông ngập ngang đầu gối cậu nhẹ nghiêng miệng hũ sát mặt nước – từ trong hũ một bầy cá Tràu độ 10 con to bằng bắp tay cậu bé trôi ra khỏi miệng hũ lao vào dòng nước tung tăng líu ríu quanh chân cậu trước khi hòa nhập vào “thế giới tự do”. Cậu bé toét miệng cười sung sướng, cầm chiếc hũ không nhẹ hẫng trên tay cậu lội vào và ngồi bên mép sông nghịch nước mặc kệ nắng trên đầu và sức nóng lan tỏa cả không gian quanh người.

 

Cậu Hai ơi! Cậu Hai ơi! Cậu đang chơi ở mô về ngay ông bà đang cho tìm cậu… Ông Độ, người lão bộc lâu năm của phủ “Đức Quốc Công” đang đi trên đường cái mắt nhìn bốn phía miệng không ngớt lời kêu tên cậu.

Hai, vâng cậu bé ấy có tên gọi theo thứ tự trong nhà vì cậu là con thứ 2, bây giờ chúng ta gọi cậu bé nầy là Hai nhé.

Nghe tiếng gọi giật giọng của người lão bộc, Hai từ mé nước tất tả chạy lên:

- Con ở đây nè ôn!

Người lão bộc mừng rỡ vì đã tìm ra vị tiểu chủ, ông ôm cậu vào lòng miệng lẩm bẩm: “May quá, may quá, mà cậu Hai đừng xưng con với tui mà bị “quở” chừ.”

- Không, con cứ xưng như rứa đó, ôn đừng sợ, mà con bị “quở” chứ có phải ôn mô.

- Thôi, thôi, đừng lý sự nữa, tui biết rồi, đi mau về kẻo bị la tề.

Hai ôn con rón rén bước vào cổng phủ đi vòng qua dãy hành lang để vào nhà sau, bước lên bậc cấp để vào nhà, Hai thấy cha mẹ đã ngồi trên trường kỷ tự bao giờ. Hai vòng tay cúi đầu:

- Bẩm thầy mẹ con mới về.

- Con đi mô suốt buổi trưa làm thầy mẹ lo lắng?

- Dạ con… con…

Mẹ cậu ngắt lời:

- Đi thả cá phải không? Con có biết số cá mạ “rộng” trong hồ là để nấu “ám” cho Thầy con thời không, con to gan quá mà, thừa lúc cả nhà nghỉ trưa là con bỏ cá vô cái hũ trốn đi thả, đây là lần thứ mấy rồi biết không?

Hai cúi đầu thật thấp trước cơn giận của mẹ cha và từ tốn:

- Thưa thầy mẹ - bởi con thấy thương bầy cá quá, con xin lỗi thầy mẹ con đã không nghỉ trưa.

Cha Hai nhìn con dịu giọng:

- Thầy mẹ biết con tuy còn bé nhưng đã có tấm lòng nhân hậu, biết thương mọi vật, mọi loài; điều đó là rất tốt, nhưng cũng gây trở ngại cho nhà bếp đấy con ạ, thực đơn của Thầy Mẹ dùng cho ngày nầy là phải chuẩn bị từ hôm qua.

Hai nhìn cha mẹ ái ngại:

- Răng thầy mẹ ưa ăn chi thứ cá phải gõ đầu nó rứa, con thấy tội nghiệp chúng nó không chịu nổi!

Mẹ Hai mỉm cười:

- Vì không chịu nổi nên chờ mọi người nghỉ trưa lén lấy chứ chi nữa, đây là lần thứ 5 thầy con “thời” hụt món cá Tràu nấu ám.

Hai thấy mẹ không còn giận nữa nên cậu bé sà vào bên mẹ cất giọng tha thiết:

- Mẹ ơi! Cho nhà bếp đổi món khác đi mẹ, chứ thầy mẹ thời cái món mà phải chặt đầu lột da thì tội quá, chắc bị rứa tụi cá nớ đau lắm mẹ há.

Mẹ Hai nhìn con rưng rưng:

- Con tui mới tí tuổi mà đa cảm quá, ừ thì mẹ sẽ đổi món cho thầy để con khỏi chạy dang nắng rồi cảm sốt thì khổ lắm.

- Không cảm sốt chi hết, mẹ còn cho mua cá nớ là con còn đi thả, mẹ đừng cho làm món đó, ăn vào là mang tội nhiều lắm…

- Biết rồi “ông cụ non” à! Thôi con ra nói ôn Độ tắm rửa thay áo quần vào phòng học bài hoặc là ngủ đi con.

Hai nhăn mặt:

- Con tự tắm được rồi mẹ nờ, đừng bắt ôn Độ tắm cho con nữa, ôn già rồi tội ôn.

Mẹ Hai lẩm bẩm: Cấy chi cũng tội, thằng ni sau lớn tha hồ cực thân…

Tuổi thơ của Hai cứ thế êm đềm trôi bên gia đình thân yêu, bên thầy, bên bạn, bên lớp học yêu thương. Hai sớm cảm thông và chia sẻ nỗi buồn khổ của những người xung quanh, là cậu Ấm nhưng Hai chẳng bao giờ để cho kẻ hầu người hạ trong đại gia đình Phạm Đăng phải chăm sóc phục vụ, tự cậu lo toan mọi việc cho bản thân, cậu lại còn lén cha mẹ đỡ đần việc “lau bàn quét bụi” dùm cho người lão bộc đã gần giáp lục tuần, có món ăn chi ngon phần cậu, Hai thường giấu mẹ đem cho các trẻ em nghèo nhà ở sau phủ đệ, nhiều lúc còn chia cả giấy bút cho các bạn cùng lớp. Cậu gần gũi và thân ái với tất cả mọi người – không phân biệt sang hèn cao thấp,… Học hành vào loại giỏi, thông thạo hai ngoại ngữ Pháp, Hán nhưng lúc nào cũng khiêm tốn…

Năm Hai lên 16 tuổi, nỗi đau lớn nhất của một đời người đã đến với Hai, đến quá sớm làm Hai không gượng nổi - đó là sự ra đi vĩnh viễn của người mẹ yêu kính, điểm tựa to lớn của người con không còn – Hai hụt hẫng trong nỗi trống vắng, trong sự thiếu thốn bàn tay từ mẫu và Hai mất thăng bằng một thời gian, sự học hành có phần sa sút, chểnh mảng vì suốt ngày thương nhớ mẹ…

***

Bằng ý chí tự lập, ngoài 20 tuổi Hai đã chọn cho bản thân con đường đi đầy vất vả là lao động ngoài đường phố (đi bán nhật báo) để tự nuôi thân và huấn luyện sự kiên trì chịu khó, đây là công phu rèn luyện cho sự hội nhập vào những cảnh ngộ khốn cùng sau nầy và chính vì sự “hành thân hoại thể” mà theo quan niệm của các gia đình phong kiến Huế thì Hai mắc vào tội “làm xấu hổ gia đình, bôi tro trát trấu vào gia tộc” - một gia tộc có người con gái đang là “mẫu nghi thiên hạ”. Sau nhiều lần can ngăn khuyên bảo, Hai vẫn từ chối cuộc sống được bảo bọc trong nhung lụa, và bước công danh đầy hứa hẹn trước mắt để dấn thân trên bước đường khổ hạnh, cha Hai đã cương quyết đăng báo từ con. Nguồn tin nầy đã làm ngỡ ngàng cho dư luận Huế lúc bấy giờ, không khí phiền muộn bàng bạc trong gia đình gia tộc Phạm Đăng, cha Hai bị nhiều áp lực nên phải làm cái việc “từ con”, song lòng cụ nhớ thương con vô cùng, ông càng khổ tâm trước bao lời hỏi han của bà con bạn hữu, nhìn ánh mắt vừa sẻ chia vừa diễu cợt của mọi người ông tự hỏi: Mình làm vậy đúng hay sai (?)

Sau nhiều tháng năm dấn thân trên bao nẻo đường đời bằng sự lao động chân chính Hai đã tìm ra chân lý của cuộc đời, với vốn sống và sự trải nghiệm qua bao lần va chạm tình đời, tình người Hai quyết định đem tình thương và lòng vị tha phụng sự mọi loài mọi vật, trên đền ơn Tam bảo dưới chia sẻ niềm đau cho đồng loại chúng sinh, bởi Hai là một người con Phật chân chính, là đệ tử được thọ trì tam quy ngũ giới từ hòa thượng Kim Cang tức ôn Chơn Kim trú xứ chùa Bảo Lâm.

Trong một buổi đi cứu trợ đồng bào bị thiên tai tại một vùng quê thơ mộng dọc bờ sông Hương có một ngôi làng mang tên Lương Quán, người thanh niên đầy từ tâm này đã gặp cô thôn nữ Nguyễn Thị Thừa và hai người đã nên duyên chồng vợ, năm ấy ông vừa tròn 27 tuổi, bây giờ ta gọi người thanh niên nầy là ông Hai và cô thôn nữ là bà Hai.

Bà Hai là một lực đẩy, một thiện hữu tri thức trong bước đường hành đạo của ông Hai. Sự thành công trong nhiều hạnh nguyện của ông Hai đều có sự trợ lực của bà, ông thường nói về bà với sự hàm ơn là – nhờ bà mà ông hành trì được hạnh nhẫn nhục… Cuộc sống vì mọi người của ông Hai không vì vướng bận gia đình vợ con mà gián đoạn giải đải, trái lại sự hoạt động từ thiện xã hội của ông càng mở rộng, có những lớp học dành cho bao con em không có điều kiện đến trường mà ông là thầy giáo tại gia, ông vận đông mọi gia đình tổ chức “hũ gạo tình thương” để giúp đỡ hàng tháng cho những người nghèo khó cũng như hương thắp và dầu lửa để cúng dường cho các chùa ở miền quê hẻo lánh không có thập phương hộ độ, xẻ áo nhường cơm cho bao gia đình nghèo khổ, không hề phân biệt thành phần tôn giáo, chính trị tả - hữu gì cả. Ông Hai cùng các thành viên cộng sự thường tổ chức những cuộc đàm đạo với các người bạn thuộc các thành phần tôn giáo như Thiên Chúa và hội Thông Thiên Học tại tỉnh nhà để tìm hiểu, để lý giải những vấn đề vi diệu về mọi giáo pháp, về sự liên quan giữa con người và vũ trụ, về sự tái sinh, về luật nhân quả,…

Ông Hai với tâm niệm xả thân vì đạo pháp, là một sứ giả hòa bình – ông như một người phi chính phủ - lúc đất nước đang còn phân chia Nam – Bắc, ông vẫn ung dung thị hiện hàn gắn những vết thương từ thực thể đến tâm hồn của chiến sĩ hai miền mà không bị ai làm khó dễ, với một con người như ông Hai đạo cao long hổ phục, đức trọng quỷ thần kinh; đi đâu, đến đâu ông cũng bằng phong thái an nhiên tự tại, đơn sơ xuề xòa, khiêm tốn vị tha. Với bậc bề trên tôn túc trưởng lão giáo phẩm uy nghi ông Hai một lòng quý kính quy phục, năm vóc kính cẩn tôn vinh.

Thời gian và lòng kiên nhẫn của ông Hai đã được đền bù – gia đình đã hiểu hạnh nguyện cao cả của ông nên đã dang tay đón người con hiếu để trở về. Người mẹ yêu kính của ông đã mỉm cười mãn nguyện bên kia thế giới bởi đã có được phước báu vô lượng khi thai thành và dưỡng dục người con tuyệt vời. Tuy lý tưởng vì mọi người quên mình đã là cách đền ơn mẹ - nhưng ông không khỏi đau lòng vì thời gian dành cho mẹ mình quá ít thì đã bị quy luật vô thường giã hợp chi phối.

Bằng tâm niệm hồi hướng phước báu cho mẹ để đền công ơn sinh dưỡng ông Hai càng làm việc từ thiện tích cực hơn, năng nổ hơn; cuối thác đầu gành trèo non lội suối ông đều không quản ngại ngoài sự thán phục việc làm của ông thì cũng có kẻ cho ông là người điên – ông vẫn mỉm cười im lặng trước mọi lời lẽ xúc phạm ông lặng lẽ:

“Tặng đời một chuỗi thương yêu

Nắng mưa gồng gánh mọi điều gian nan”

 

Càng lớn tuổi ông càng chạy đua với quỹ thời gian còn lại không bao nhiêu - mà sự nghiệp phụng sự còn đòi hỏi ở ông nhiều công sức - vì thế ông như không có khái niệm sáng tối trưa chiều, ông dốc toàn sức lực cho công tác từ thiện.

Đạo nghiệp viên thành khi ông bước qua tuần bát thập và an nhiên rũ áo từ giã cõi tạm để về miền an lạc vào cuối mùa xuân năm Giáp Tuất ngày 12 tháng 3 (Dương lịch nhằm ngày 22 tháng 4 năm 1994) để lại niềm thương tiếc cho gia đình, cho các con của ông đã thiếu vắng mẹ từ năm 1964 và giờ lại mất đi người cha khả kính. Hàng tứ chúng Phật tử mất đi một bậc chân tu tại gia đạo hạnh, cả xứ Huế u buồn ngày đưa tiễn ông Hai đi về miền cực lạc.

  Người đi rồi nhưng âm hưởng vẫn còn vang vọng, lòng nhân từ và hình ảnh Người còn in mãi trong lòng những người con Phật ở đất Thừa Thiên Huế, và trong lòng bao kẻ khổ sở bất hạnh một thời đã đón nhận sự chia sẻ thương yêu của Người vẫn lưu giữ hình dáng người đàn ông gầy gò trong trang phục chiếc áo dài lương đen bạc phếch bởi sương nắng của thời gian. Người đàn ông ấy là vị Bồ Tát tại gia pháp danh Tâm Thành, húy danh Phạm Đăng Siêu.

Nam mô Tâm Thành Phạm Đăng Siêu Bồ Tát

Nam mô công đức lâm bồ tát ma ha tát.

(Viết xong trên giường bệnh Bệnh viện Bộ Quốc phòng 175, Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh)

 

Ninh Giang Thu Cúc

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle