ALEXANDER L. MAYER
ác tác phẩm luận giải Phật giáo đã trải
qua một thời kỳ hơn 2000 năm. Sự phát triển phong phú của nó, chỉ một phần nhỏ
cũng đã tồn tại qua những thăng trầm lịch sử và phản ánh thật sát những phương
diện giáo lý cùng nhiều lĩnh vực văn hóa và sự phát triển tôn giáo, xã hội.
Trong ý nghĩa rộng
nhất, có lẽ với khả năng của mình, mọi người quan niệm rằng tất cả kinh điển
Phật giáo, đều qua sự giải thích: Kinh đề cập
đến tuệ giác của đức Phật và về
Đạo. Luận (A-tỳ-đạt-ma) giải thích về giáo lý được nêu lên
trong Kinh.
Văn hệ Đại thừa (Mahāyāna) là nhằm luận giải ý nghĩa về tánh Không (s: śūnyata;
e: emptiness) bàng bạc sâu thẳm trong giáo lý. Các
luận giải trau chuốt tinh vi
về cú nghĩa (e: meaning; s: artha), có nghĩa là đòi
hỏi sự chú ý đặc biệt. Các tác phẩm luận giải – bên cạnh các pháp môn tu tập khác, là thuộc
về phương thức duy trì và truyền bá giáo pháp. Về ý nghĩa lịch sử văn hóa,
tầm quan trọng của văn học luận giải chứa đựng trong nó khả năng phản ánh nền
văn hóa nói chung và khuynh hướng tôn giáo, được xem
như nơi gặp gỡ để phát triển kỹ năng phiên dịch và tạo ra những yếu tố nền tảng
của tri thức.
Tán Ninh
đại biểu của truyền thống dịch kinh Trung Hoa, giải thích ý nghĩa của Luận giải
Phật giáo qua tác phẩm của ông nhan đề Tống Cao Tăng truyện
rằng: Thành đạo giả, pháp dã. Tải pháp giả, kinh dã. Thích kinh giả, sớ dã. (成道者法也。 載法者經也。釋經者疏也。) Thành đạo là nhờ vào pháp. Truyền bá giáo pháp là nhờ kinh. Giải thích kinh là nhờ vào sớ (luận) giải.
(Đại chánh tạng, quyển 50, kinh số 2061, trang 735b).
Luận giải, qua định nghĩa, được đặt theo hướng xuôi
theo dòng chảy của truyền thống và do vậy, không bao giờ có thể thay thế cho
kinh được. Thế nên khi ưu tiên đề ra ý nghĩa (s: artha) trước ngôn
cú (s: vaccana), luận giải hy vọng sẽ lập lại và đưa ra ánh sáng những ý
nghĩa ẩn chứa trong kinh.
Văn học luận giải Ấn Độ
Giáo pháp từ khởi thủy
được gọi là luận giải. Thế nên môn đệ lúc ấy không chỉ học
những điều mà đức Phật thường kêu gọi mọi người hãy chiêm nghiệm thật sâu sắc
lời dạy của ngài; ngoài ra, đức Phật còn có một vài đệ tử, như ngài Xá-lợi-phất,
cũng có khả năng tương đương để truyền dạy giáo pháp một cách trọn vẹn. Nhưng ở giai đoạn này vẫn còn là dạng khẩu truyền. Chỉ đến
khi Tam tạng kinh điển Phật giáo được kết tập, chư Tăng
mới bắt đầu viết luận giải. Trong tiến trình chú giải kinh
điển, các trường phái phiên dịch phát sinh. Hai dòng luận giải chính ở
Đông Nam Á hiện còn lưu hành là luận của Thượng tọa bộ (Theravāda) được viết
bằng tiếng tiếng Pāli, và luận của phái Nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivāda) và Căn
bản Nhất thiết hữu bộ (Mūla-Sarvāstivāda) được viết bằng tiếng Sanskrit. Dòng
sau được truyền sang Trung Hoa. Thêm vào đó, một số luận giải
của các trường phái khác cũng còn được lưu hành.
Vào đầu thế kỷ thứ 5, ngài Phật Minh,
trên nền tảng luận giải của Tích Lan (Sinhala) cổ xưa – đã soạn một loạt luận
giải từ tạng kinh Pāli. Trong số đó là hai bộ luận giải thích về giới luật:
Thiện kiến luật chú 善見律注序(P: Samantapāsādikā; E: The All-Pleasing)
và Giới bản chú 戒本注 (Kaṅkhāvitaraṇī; e: Overcoming Doubt).
Thiện kiến luật chú đã được Tăng-già Bạt-đà-la (Saṅghabhadra)
dịch sang tiếng Hán năm 489 với nhan đề Thiện kiến luật Tỳ-bà-sa.
Giới bản chú là luận giải về Giới luật (Ba-la-đề-mộc-xoa;
波羅提木叉 s: Prātimokṣa). Cũng như trường hợp tạng Luật, khi tạng Kinh được kết tập, một số
các luận giải về các bộ kinh ấy lại được biên soạn. Trong số đó, các tác
phẩm luận giải đặc biệt quan trọng là của ngài Phật Minh từ trong Nikāya: 1: Cát
tường duyệt ý luận 吉祥悅意論; p: Sumaṅgalavilāsinī). 2. Phá trừ nghi
chướng luận 破除疑障論; p: Papañcasūdanī). 3. Hiển dương tâm
nghĩa luận 顯揚心義論; p: Sāratthappakāsinī). 4. Mãn túc hy
cầu luận 滿足希求論; p: Manorathapūraṇī). 5.
Paramāṭṭhajotikā. Và các tác phẩm chú giải về A-tỳ-đạt-ma:
1.
Thù thắng nghĩa luận
殊勝義論 (p: Atthasālinī). Chú giải Pháp tụ
luận 法聚論
2.
Saṃmohavinodanī.
3.
Pañcappakaraṇāṭṭhakathā.
Về phía Nhất thiết hữu
bộ, các tác phẩm luận giải của phái này phần lớn chỉ được lưu giữ ở Trung Hoa. Bộ luận quan trọng nhất là Phát trí
luận (發 智 論; s:
Jñānaprasthāna; e: Foundations of Knowledge) do ngài Già-đa-diên-ni tử (迦多延尼子 Kātyāyanīputra), biên soạn vào khoảng
năm 50 ttl., trong đó liên quan đến sáu bộ luận:
1. Pháp uẩn túc luận (法 蘊 足 論; s:
dharmaskandha):
2. Tập dị môn túc luận (集 異 門 足 論; s: saṅgītiparyāya):
3. Giới thân túc luận (界 身 足 論; s: dhātukāya):
4. Phẩm loại túc luận (品 類 足 論; s: prakaraṇa):
5. Thức thân túc luận (識 身 足 論; s:
vijñānakāya):
6. Thi thiết túc luận (施 設 足 論; s:
prajñaptiśāstra).
Bộ luận chính Đại Tỳ-bà-sa (Mahā
Vibhāṣā; e: Great Exegesis) được kết tập trong một hội nghị do vua Ca-nị-sắc-ca
(迦膩色迦 Kaniṣka) triệu tập, cũng có liên quan đến bộ Phát trí
luận. Sáu trong bảy bộ luận thuộc tạng A-tỳ-đạt-ma này đã được ngài Huyền
Trang dịch sang tiếng Hán.
Văn học luận giải Trung Hoa
Dù rất khó để xác
định mốc khởi đầu, nhưng giới nghiên cứu Phật học cho biết rằng ngài Chi Khiêm và ngài Khang Tăng
Hộilà những người đã biên soạn luận giải vào giữa
thế kỷ thứ 3. Nhưng văn học luận giải có lẽ đạt được sự quan trọng chỉ vào thời
của ngài Đạo An (312-385). Từ văn học truyện
ký (biographical lilerature), có thể thu thập các dấu hiệu một thời hưng thịnh của văn học luận
giải trước đó. Đại biểu cho dòng văn học luận giải sớm nhất này là các tác phẩm
Yin chi
ru jing của Chan Hui, Nhân Bản Dục Sanh Kinh Chú
của Đạo An, Chú Duy Ma Cật
Kinh của Tăng Triệu, Fanwang jing
Pusa jie của Pháp Hiển.
Vào đầu thế kỷ
thứ5, một dòng luận giải mới được phát sinh. Ngài Đạo An
và Trúc Đạo Sinh
đóng vai trò chính trong dòng chuyển tiếp này. Các bộ chú giải về kinh Niết-bàn
của Fayao (420-477) và chú giải kinh Pháp hoa của Trúc Pháp Sùng
(Cả hai bản này đều đã thất lạc) và luận giải về kinh Pháp hoa
của Trúc Đạo Sinh là những đại biểu sớm nhất của trường phái luận giải mới này.
Hai bộ luận giải đồ sộ từ nửa cuối thế kỷ thứ 6 nay vẫn còn lưu hành: Một là bộ
sưu tập các chú giải về kinh Niết-bàn (gồm 70 quyển)
của ngài Bảo Xướng (Baoliang), bộ khác là sưu tập chú giải về kinh Pháp hoa của
ngài (Fayun; 467-529)
nhan đề Fahua jing yiji, năm 529. Cả hai bộ luận này đều đóng một vai trò
quan trọng trong việc thành lập các tông phái Phật giáo Trung Hoa, và cả hai bộ
luận giải đều thể hiện vai trò trọng yếu trong thể loại văn học này, cụ thể là,
mối liên quan rõ rệt hay ẩn tàng của văn học luận giải trước đây.
Dòng thứ ba của văn học luận
giải Phật giáo Trung Hoa bắt đầu với các luận sư đời
Tùy (589-618) và tiếp theo bởi một chuỗi dài các luận
sư kiệt xuất đời Đường (618-907), những vị đã phát triển vị trí học thuyết của
tông phái mình trong phạm trù nỗ lực hệ thống hóa các luận giải, để sau đó phát
sinh những tông phái luận giải như Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, và Pháp
tướng tông. Đại biểu nổi bật đáng lưu ý của dòng này là ngài Huệ Quang (Jingying
Huiyuan; 523-596), Đại sư của Địa luận tông (Dilun) và Trí Tạng (Jizang;
549-623) của Tam luận tông; Đại sư Trí Khải (Zhiyi;
538-597), Quán Đảnh (Guanding; 561-632) và Trạm Nhiên 湛 然 Zhanran (711-782) của
Tông Thiên Thai. Pháp tướng tông có ngài Viên Trắc 圓 測 (Wǒnch'u; Cao Ly;
613-696); Khuy Cơ (632-682); Huệ Chiểu 慧沼 (Huizhao ?-714) và Trí Châu (Zhizhou;
679-723); Hoa Nghiêm tông có Đại sư Trí Nghiễm 智 儼 Zhiyan, ngài Nguyên Hiểu 元 曉
(Wǒnhyo; Cao Ly; 617-686), ngài Pháp Tạng (Fazang 643-712), ngài Trừng Quán (Chingquan
738-840), và Cư sĩ Lý Thông Huyền (Li Tongxuan; ?-730), và Mật tông có ngài Nhất
Hạnh (Yixing; 683-727).
Các bộ luận lớn thường chú giải về những bộ kinh lớn. Thế nên cùng một bộ
kinh được chú giải bằng những bộ luận rất dài. Như kinh
Kim Cang, kinh Pháp Hoa, kinh Bát-nhã là những bộ kinh thường được chú giải nhất
ở Trung Hoa. Có vào khoảng 80 bộ luận giải tiếng Hán
cho mỗi bộ kinh này hiện còn lưu hành ở Trung Hoa. Bên cạnh đó, kinh Hoa
Nghiêm, kinh Duy-ma-cật, kinh Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà, kinh Viên Giác, kinh
Niết-bàn, kinh Lăng-già, và kinh Phạm võng... thu hút rất nhiều sự chú tâm để
chú giải. Những bộ luận giải hiện đang còn lưu hành được xem
như là nguồn tư liệu quan trọng nhất về những thông tin trong sự hình thành và
phát triển tư tưởng Phật giáo Trung Hoa.
Luận giải, tính phức hợp của truyền
bá giáo pháp và bối cảnh của luận giải.
Sự phát triển của nền văn học luận giải Phật giáo Trung Hoa được ảnh
hưởng bởi thực tế của việc hoằng truyền giáo pháp không có tính hệ thống. Trong hầu hết mọi
thời, các bộ kinh lớn từ các nguồn xuất phát khác nhau là điều hợp lý để phản
ánh các giai đoạn khác nhau của việc phát triển giáo lý Phật học. Tính đa
dạng này phát sinh từ việc phiên dịch của Thiền tông vào thế kỷ
3 và 4 các kinh điển về tư tưởng Bát-nhã và Như Lai tạng, vào đầu thế kỷ
5 bởi một loạt các tác phẩm luận giải về Trung quán luận và A-tỳ-đạt-ma của Nhất
thiết hữu bộ; và vào thế kỷ thứ 6, 7 với sự truyền bá A-tỳ-đạt-ma và Du-già hành
tông có hệ thống của ngài Huyền Trang. Tình trạng này tất yếu phải tạo nên một
phương pháp cho phép tích hợp một cách có hệ thống các giáo pháp thích nghi qua
một tiêu chuẩn chung (phán giáo). Tiền đề của các phương pháp này là các
kinh điển có thể được ấn định cho các từng bậc khác nhau trong việc giáo hóa của
đức Phật, là giáo pháp ấy đều nhắm vào các thính chúng khác nhau tùy theo căn cơ
thuần thục của họ, và tạo nên ý nghĩa mở ra cho mọi cấp độ khác nhau. Trong ý nghĩa thực tiễn của luận giải, các luận giải này được phiên
dịch thành các nguyên tắc về phiên dịch. Trước nhất trong những luận này là Tứ y về chú giải kinh điển Phật học, đó là:
1.
Nhấn mạnh về nghĩa hơn là
câu chữ.
2. Nhấn mạnh về liễu nghĩa hơn là không
liễu nghĩa.
3. Nhấn mạnh về trí tuệ hơn là thức.
4. Chú trọng về pháp hơn là về con người.
Một số luận sư Trung Hoa cho thấy rằng luận giải của mình là xuất
phát từ lời giảng, và luận giải thường được các môn đệ ghi chép lại trên có cơ
sở từ các lời giảng, thế nên chúng ta có thể cho rằng hai lĩnh vực chính của
luận giải là giảng nói và phiên dịch. Có chứng cứ hiển nhiên từ động Đôn Hoàng cho thấy văn cảnh thuyết
pháp trong phiên dịch kinh điển, và nền tảng này dường như hoàn toàn không bao
giờ mất đi. Trong bối cảnh phiên dịch từ ngôn ngữ Ấn Độ hoặc Trung Á sang
Trung Hoa, các bản dịch không thể nào bị tách rời vì dịch giả thường được giải
thích Kinh văn: trong khi dịch, và sự giải thích ấy thường bám sát theo chính
Kinh văn. Thế nên, chẳng hạn, các luận giải của Tăng Triệu về văn hệ Bát-nhã
ba-la-mật-đa là căn cứ vào chú giải của mình và của ngài Cưu-ma-la-thập, hoặc
luận giải của ngài Khuy Cơ là được tạo nên từ bối cảnh phiên dịch hàn lâm của
ngài Huyền Trang.
Phân loại các luận giải
Dạng cổ xưa nhất của văn học luận giải Trung Hoa là Chú (zhu), chỉ còn ba
bộ trong số này hiện còn đang lưu hành, có lẽ nó xuất phát từ bối cảnh truyền
giảng. Chú là dạng giải thích trực tiếp từng dòng đan chéo với nhau giữa
hai hàng chữ trong chính văn. Những luận giải này được đề tựa qua sự giới
thiệu bằng phiên dịch đề kinh và giảng giải toàn bộ kinh cùng nêu ra lý do của
việc tạo luận. Dạng luận giải đơn giản này được thay thế bởi Sớ giải (shu),
hình thành từ thế kỷ thứ 6 đến giữa thế kỷ thứ 9. Sớ giải thể
hiện trọn vẹn nhất truyền thống học thuật và tu tập, trình bày các biểu tượng
của văn học luận giải đang thịnh hành và đề ra một mức độ hầu như là rất tinh tế
nên ít thích hợp cho hàng cư sĩ tại gia không chuyên nghiệp.
Hai khía cạnh đặc biệt
chính của sớ giải, chính là phương pháp phân đoạn (kepan) và dẫn nhập đề
tài. Dẫn nhập đề tài đề cập đến phạm vi của
luận giải và vấn đề then chốt của Luận giải Phật giáo. Phần dẫn nhập gồm hai
nhóm đề tài chính:
1. Giáo điều (mục tiêu của giáo pháp, ý
nghĩa của nhan đề, tư tưởng chủ đạo của tác phẩm, điều mà giáo pháp mong đợi ở
thính chúng, mối liên hệ đối với các giáo lý khác).
2. Tính chất lịch sử: sự truyền thừa của
tác phẩm và lịch sử của sự truyền bá, gồm cả nơi chốn và những quy ước, lịch sử
quá trình phiên dịch và năng lực vi diệu của luận.
Loại dẫn nhập mang
tính luận giải này ảnh hưởng không chỉ trong văn học luận giải Trung Hoa, mà cả
trong các đề mục chính của luận giải Phật giáo.
Do đó, ngài Thế Thân (thế kỷ thứ 4), một Luận sư tiêu biểu của nền văn học luận
giải Ấn Độ, đã tóm tắt trong tác phẩm của ngài nhan đề Vyākhyāyukti (chỉ còn lưu hành ở Tây Tạng): xác định mục tiêu của giáo
pháp (prayojana), xác định ý nghĩa toàn diện (piṇḍa), ý nghĩa chi
tiết (padārtha), xác định kết quả nội tại (anusaṃdhika), phản
chứng đối phương (codyaparihāra), đứng trên phương diện thanh âm, ngôn cú
(śabda) và nghĩa (artha) mà trình bày sự viên mãn của luận (yukti).
Các Luận sư Trung Hoa phân loại hai đề mục đầu tiên của ngài Thế Thân là dẫn
nhập đề tài độc lập, ba đề mục tiếp theo
được sáp nhập vào chính văn của luận.
Ngài Thế Thân cho rằng tất cả lời dạy
của đức Phật đều là viên mãn, mọi kinh điển đều là lời Phật dạy, chỉ có những
lời viên mãn là cần yếu và xứng đáng được chú giải, và mọi người không thể nào
hiểu được kinh luận trừ phi người ấy hiểu được mục tiêu của một giáo pháp nhất
định. Cụ thể, mọi người phải hiểu được kinh luận với ý nghĩa
nêu ra cho thính chúng, đặc biệt là khi thính chúng không thấy rằng mình đủ
trình độ để hiểu ý nghĩa sâu hơn của kinh.
Điều giả định sau này là yếu tố căn bản trong việc xác định quyền tự do của một
nhà luận giải phải có khi giải thích kinh điển.
Phân tích về sự phân
đoạn
Các luận giải mang
tính học thuật của Trung Hoa còn được đánh giá qua phương pháp phân đoạn (kepan),
qua đó tác giả ấn định cho kinh luận một chuỗi những thuật ngữ chú giải. Khía cạnh hiển nhiên của phương pháp này, vốn đạt được tầm
mức quan trọng sau thế kỷ thứ 5, cốt ở chỗ phân đoạn mỗi bộ Kinh thành 3 phần:
1: Phần giới thiệu (Tự): nêu lên bối
cảnh thuyết kinh (nơi chốn, thính chúng, nhân duyên).
2. Phần chính (Chánh tông): Phần nội
dung chính của kinh.
3. Phần khuyến tấn: (Lưu thông): Diễn tả
tâm hoan hỷ của người nghe và sự phát nguyện sẽ hoằng truyền giáo pháp.
Bộ ba phần của kinh
văn này có lẽ đã phát xuất từ Phật địa kinh luận (Fodi Jing lun;
T. 1530.26:291 c).
Dù phân tích về phân đoạn liên quan đến việc dịch thuật qua ngài Đạo
An, nhưng những mô thức của ứng dụng hiện đang còn lưu hành có thể tìm
thấy trong Pháp hoa Kinh nghĩa sớ của ngài Pháp Dung. Trong phần
đầu từ bộ ba phần của bộ kinh, các bộ luận giải có tính học thuật còn được phân
ra thêm những lớp khác, bao gồm những thuật ngữ chú giải, (có khi đến vài trăm),
là để giải thích rõ văn kinh. Một dạng chú giải thuật ngữ được phân biệt rõ từng phần của kinh như
là lúc đối thoại giữa người giảng kinh và đối tượng đương cơ.
Vì hầu hết các kinh đều là hình thức đối thoại giữa đức Phật và chúng đệ tử, nên
rất hợp lý khi các nhà luận giải phải làm trong bước đầu tiên là phân đoạn tiến
trình giảng kinh. Thực vậy, trong một số luận giải
trước đây vào đời Đường, tiến trình chú giải được xây dựng trên nền tảng cuộc
đối thoại.
Nên biết rằng một tiến trình chú giải có thể bao gồm vài trăm thuật ngữ, người
đọc ngày nay có thể ngạc nhiên, vì chẳng có mấy người đọc có thể
theo
dõi được cấu trúc mô tả giải thích của luận giải. Để khắc phục
tình trạng này, một đồ biểu mô tả cấu trúc luận giải được phát triển. Dù
như thể ở trong một tình trạng khác, hầu hết các phương pháp phân đoạn (kepan)
và các biểu đồ đi theo đều bắt nguồn từ bối cảnh thuyết
pháp, và không phải là một sản phẩm của văn hóa bản địa dạng trứ tác. Thực tế,
cấu trúc phân đoạn (kepan) đã chỉ điểm cho thời gian lùi về sau, thời kỳ
sớm nhất của luận giải Phật giáo, khi chúng được xem như giúp trí nhớ cho việc
giải thích bằng khẩu ngữ.
Sau đời Đường, mô dạng
cấu trúc phân đoạn (kepan)
được thay thế bằng các phương pháp khác, và phần dẫn nhập tổng quát mang tính
học thuật được thay thế bằng dạng thức mới và đơn giản hơn. Thể loại văn học luận giải như là toàn
thể từ đời Tống (960-1279) về sau cho thấy một tiến trình đơn giản hóa, một sự
biến đổi có thể do kết quả một phần nào đó từ sự xuất hiện của kỹ thuật in ấn
mới.
Tiến trình đơn giản hóa này cũng là một
phần của sự biến đổi lớn trong phạm trù xã hội của luận giải. Trong khi trước
đời Tống, các Luận sư chủ yếu là Tăng sĩ Phật giáo, thì từ đời Tống về sau, phần
đáng kể của nền văn học luận giải là được trứ tác bởi các Cư sĩ. Thêm vào đó,
Thiền tông và tuyên bố của họ về đốn ngộ vốn không cần nhờ vào ngôn ngữ, lập nên
sự hỗ trợ trong ý niệm nền tảng tuyệt đối vô ngôn của các pháp, là điều có thể
thúc đẩy về thực chất của sự phát triển xa hơn cho kinh luận chính thống. Dù
những yếu tố này, và dù có có nhiều thừa nhận rằng thể loại luận giải Phật giáo đã đi qua đỉnh
điểm của nó hàng thế kỷ, nhưng những luận giải về giáo pháp đạo Phật vẫn còn đang
được viết tiếp.®
Thích Nhuận Châu
dịch từ Encyclopedia of Buddhism;
Mac Millan
RefferenceReference. USA.
2003, do R.E. Buswell chủ biên.
Tán Ninh
贊寧 Zanning (919-999)
Đại sư họ Cao, pháp danh là Tán Ninh,
nguyên quán ở Bột Hải, vào cuối đời Tùy dời đến ở huyện Đức Thanh thuộc quận Ngô
Hưng. Ông sinh năm Kỷ Mão (919), niên hiệu Trinh Minh thứ 7 đời nhà Lương. Ông
xuất gia trong khoảng năm Thiên Thành (926 - 930) đời Hậu Đường. Vào đầu năm
Thanh Thái (934) ông vào núi Thiên Thai thọ giới Cụ túc, học luật Tứ phần, tinh
thông luật của Nam Sơn (Đạo Tuyên). Sau đó Ngô Việt Trung Ý
Vương tấn phong Tán Ninh làm Lưỡng nhai Tăng Thống, hiệu là Minh Nghĩa Tôn Văn
Đại Sư.
Theo Thích Thị Kê cổ, quyển 4
thì Tán Ninh viên tịch tháng 2, mùa xuân, năm Hàm Bình thứ 2 (999), hưởng thọ 80
tuổi, đến tháng 3 nhập tháp tại chùa Thiên Thọ. Sách Tương Sơn Dã lục,
quyển hạ viết: “Tăng Lục Tán Ninh có học thức sâu rộng, thông bác mọi việc xưa
nay, viết hàng trăm quyển sách, Võ Xưng Vương Nguyên, Từ Kỵ Tỉnh Huyền hễ có
nghi ngờ điều gì đều đến hỏi ông, và hết sức thán phục ông”.
佛鳴 Buddhaghoṣa; Còn
gọi là Phật Âm 佛音, Giác Âm覺音, phiên âm là
Phật-đà-cù-san sa 佛陀瞿沙. Một Ðại luận sư
của Thượng tọa bộ (p:
theravāda). Sư sinh trong một gia đình Bà-la-môn tại
Ma-kiệt-đà (magadha),
gần Giác Thành (bodh-gayā). Sau khi đọc kinh sách đạo Phật, Sư theo Phật giáo,
đi Tích Lan học giáo lí của Thượng tọa bộ dưới sự hướng dẫn của Tăng-già Ba-la
(p: saṅghapāla thera). Sư viết 19 bài luận văn về Luật tạng (s, p: vinayapiṭaka)
và về các Bộ kinh (p: nikāya). Tác phẩm chính của Sư là Thanh tịnh đạo
(p: visuddhi-magga), trình bày toàn vẹn quan điểm của phái Ðại tự (p:
mahāvihāra) trong Thượng tọa bộ.
支 謙 c: Zhi Qian (223-253) Ngài sống vào thế kỷ thứ 3, nhưng
niên đại không được ghi chép lại chính xác. Ngài trước tên là
Cung Minh, người xứ Nguyệt Thị (Scythians), vào đầu đời Tùy đến cư trú ở Hà
Nam.
Ngài thông thạo đến sáu ngôn ngữ khác nhau, theo học với ngài Chi Lượng, đệ tử của ngài Chi-lâu-ca-sấm 支樓迦讖. Ngài học nhiều biết rộng, người đương
thời tôn xưng ngài với các ngài Chi Lượng và Chi-lâu-ca-sấm là Tam Chi,. Sau gặp loạn lạc, ngài phải lánh sang nước Ngô, được vua
Ngô Tôn Quyền dùng lễ tiếp đón, tôn xưng là “Bác sĩ”, mời dạy cho thái tử
Tôn Lượng học. Từ niên hiệu Hoàng Vũ thứ nhất triều Ngô (222) cho đến giữa niên
hiệu Kiến Hưng (253), hơn 30 năm ngài dành hết tâm huyết, sức lực vào việc phiên
dịch kinh điển sang Hán ngữ. Kinh điển do ngài dịch đều được người đương thời
khen ngợi là văn phong ý tứ rõ ràng, thanh nhã. Đến năm thái tử nhà Ngô tức vị,
tức là năm 262, ngài vào núi Long Sơn ẩn tu, y theo ngài Trúc Pháp Lan nghiêm
trì giới luật. Ngài thị tịch trong núi. Năm sinh, năm mất
đều không được rõ, chỉ biết ngài thọ được 60 tuổi.
Theo Lương Cao Tăng Truyện, ngài dịch được 49 bộ kinh. Theo
Lịch Đại Tam Bảo Ký thì số kinh ngài dịch được là 129 bộ.
Tuy nhiên, con số còn truyền lại được đến nay trong Đại Tạng Kinh là 54 bộ.
康 僧 會 (c : Kang
Shenghui; ?-280). Cao tăng Việt Nam.
Sư sinh tại Giao Chỉ, cha mẹ mất lúc lên mười, thông thạo chữ Phạn và Hán, là
người phiên dịch kinh đầu tiên ở Việt Nam như Lục độ tập kinh, Cựu tạp
thí dụ kinh ;
sáng tác các tác phẩm Phật giáo đầu tiên của Việt Nam như Lục độ yếu mục,
Nê-hoàn phạm bối, chú giải kinh An-ban thủ ý. Sư được xem là người khởi
nguyên Thiền tông Việt Nam. Cuối đời, Sư sang Nam Kinh (Trung Quốc) và mất tại
đây năm 280.
Đạo An
道安 (312 – 385).
C: Ren ben yu sheng jing shu (1
quyển). T. 33,
Tăng Triệu 僧 肇; C: sēngzhào; J:
sōjō; 374 hoặc 378-414;
Ngài là luận sư xuất sắc nhất của Trung Quốc ở đầu thế kỉ thứ năm và
cũng là người đầu tiên trong Phật giáo Trung Quốc nắm vững và trình bày hoàn hảo
giáo lí tính Không của Long Thụ. Tác phẩm nổi tiếng nhất là Triệu luận (肇 論) và Bảo tạng luận (寶藏 論). Sư cũng soạn bài tựa cho kinh Duy-ma-cật, bài tựa cho kinh Trường
A-hàm, bài tựa cho Bách luận.
Sư là người Kinh Triệu, xuất thân từ một gia đình
nghèo. Sư có nghề viết
mướn nên có điều kiện đọc rất nhiều sách và rất chú tâm đến các lời dạy của hai
vị Lão Tử, Trang Tử. Sau khi nghiên cứu kĩ quyển Ðạo đức kinh của Lão Tử, Sư tự
than: “Hay thì hay lắm nhưng còn trụ nơi hư vô, chưa đến chỗ tột cùng.” Sau khi
đọc được kinh Duy-ma-cật sở thuyết (s: vimalakīrtinirdeśa-sūtra) – bản dịch của
Cưu-ma-la-thập (s: kumārajīva) – Sư hoan hỉ nói: “Nay mới biết được chỗ về!” Sư
nhân đây phát tâm xuất gia, trở thành tăng sĩ và đến với Cưu-ma-la-thập tại Cô
Tàng, xin được theo
học ý chỉ. Sau khi Cưu-ma-la-thập dời về Trường An, Sư
cũng theo thầy về đó để phụ giúp trong việc dịch thuật. Nơi
Cưu-ma-la-thập, Sư ngộ được giáo lí Trung đạo, giáo lí tính Không của Long Thụ.
Sư nổi tiếng với tính cách của một tư tưởng gia và văn sĩ là nhờ bốn
quyển sách, gọi chung lại là Triệu luận (肇 論), bao gồm: Bát-nhã
vô tri luận (般 若 無 知
論), Bất chân không luận (不 真 空 論), Vật bất thiên
luận (物
不 遷 論) và Niết-bàn vô danh luận (涅槃 無 名 論). Trong đó, Sư nêu tính thống nhất của tương đối và tuyệt đối, của
hiện tượng và bản thể, chúng vừa không rời nhau, vừa đối nghịch nhau. Tác phẩm của Sư hết sức uyên bác và có trình độ văn chương cao, là
những tổng hợp thật sự của tư tưởng Trung Quốc và Ấn Ðộ.
Faxian (337-418)
Tứ y: e: fourfold
prop; s: atvāri pratisaraṇāni,藏 rton-pa-bshi:
Bản tiếng Anh không ghi điều nầynày.