Lịch sử phát triển tư tưởng về Phật thân trong Phật giáo Đại thừa,
về một phương
diện,
nhắm thỏa mãn
nhu cầu tâm linh
tôn
giáo; về phương
diện khác,
để
nỗ lực giải quyết một vấn đề hết sức gay cấn mà nhà
tư tưởng
lúc nào cũng phải đối diện. Tuy vậy,
cả hai phương
diện ấy phản ánh hai xu hướng
thực hành, tức thể nghiệm,
khác nhau, chứ thực chất cả hai nằm chung
trên một bình diện.
Một vấn đề căn bản kích thích các xu hướng tư tưởng tôn giáo
và triết học khác nhau, là vấn đề bản nguyên hay bản thể của vũ trụ hay thế giới.
Trên mặt lý
luận và nhận thức,
bản nguyên và bản thể là hai vấn đề riêng biệt. Những câu hỏi và giải thích về bản nguyên
luôn
luôn
dẫn tư tưởng và nhận thức đi vào
ngõ cụt. Chẳng hạn,
một nạn vấn danh tiếng được đặt ra
cho
nhà tính không luận rằng, tiền đề tính không
nói
“tất
cả các pháp đều không,” bản thân
của tiền đề ấy có phải là một pháp
hay không? Nếu nó
cũng
là một pháp, thì
tiền đề không được xác
lập, vì không
thể minh chứng bằng hiện thực. Nhưng
nếu nó không phải là một pháp, nó không
tồn tại hiện
thực, và như vậy trở thành vô nghĩa.1 Tuy không thể minh chứng bằng
hiện thực, nhưng
có thể thể nghiệm bằng tâm linh. Vì thể nghiệm ấy siêu
việt lý trí,
do đó được xem như là thể nghiệm thần bí. Triết học có tham vọng
tiến đến chân lý phổ quát
và khoa
học nên thường cố tình tránh
né vần đề bản nguyên,
mà tập trung
nổ lực tư duy trên
vấn đề bản thể.
Đại thừa Phật giáo phát triển quan niệm Phật thân cũng là để giải quyết cùng lúc cả hai
vấn đề, bản nguyên và
bản thể.
Phật thân
vừa là bản nguyên
vừa là bản thể của tồn tại,
của vũ trụ. Đỉnh cao của tư tưởng
này là kinh Pháp hoa, ở đó Phật thân và Phật tính được nhận thức bằng lý tính duyên khởi.2
Khởi thủy, vì đức Phật được nhận thức như là một con người,
cho
nên
thân Phật cũng vẫn là một tổ hợp của năm uẩn như các con người hay các
chúng
sinh
khác. Nhưng khi các luận
sư A-tỳ-đàm đặt vấn đề thân
Phật hữu lậu hay vô lậu, thì một khái
niệm mới về Phật thân đã thành hình. Chính Duy-ma-cật
cũng đã khẳng
định với A-nan: thân
Phật
là vô lậu. Thế nhưng, khẳng
định ấy không thể là xác
quyết một chiều. Thân Phật được nhận thức là hữu lậu hay vô lậu tùy theo tính chất nhiễm hay tịnh trong
tương quan
với Phật quốc. Đây là
chỗ dẫn khởi mối nghi ngờ của ngài Xá-lợi-phất.
Sau khi nghe Phật diễn giải quá trình biến chuyển tâm tư của Bồ-tát,
với đoạn kết nói rằng, tùy theo
sự thanh tịnh của tâm mà Phật quốc của Bồ-tát thanh tịnh. Nếu thế, ngài
Xá-lợi- phất tự hỏi, phải chăng đức Thích
Tôn
khi hành
Bồ-tát
đạo đã không tu tập tâm chất trực,
v.v., cho
đến các Ba-la-mật, các
trợ đạo và các thiện nghiệp đạo,
do đó mà quốc độ của Ngài không thanh
tịnh.
Nghi ngờ của ngài Xá-lợi-phất không những được Phật giải đáp, mà cả đến Loa Kế Phạm thiên vương vốn chỉ là phàm
phu cũng có thể khẳng định rằng
quốc
độ của Phật Thích-ca
không uế trược,
xấu xí
như
Xá-lợi-phất thấy.
Thế giới mà ngài Xá-lợi-phất đang
thấy là xấu xa ấy,
thực chất,
trong
cái nhìn
của Loa Kế Phạm vương, cũng
xinh đẹp huy hoàng như thiên
giới của trời Đại Tự tại.
Đây
không phải là do ở
chỗ Loa Kế Phạm vương có sở đắc trong
Thánh đạo cao
hơn ngài Xá-lợi-phất.
Bậc Thánh thấy nó
xấu xí, trong khi đó phàm phu
thấy nó thanh tịnh; sở kiến bất đồng là do nghiệp cảm bất đồng. Phàm
phu
thấy nó xinh đẹp nên sinh
tâm
đắm trước.
Thánh giả thấy nó bất tịnh nên có tư tưởng thoát ly. Siêu việt trên
sở kiến của Thánh
và phàm, đức Phật khẳng định thế gian này vốn thanh tịnh; tự tính thanh tịnh.
Để
xác
chứng điều này, bằng
thị hiện thần thông, Ngài hiển thị cho Xá-lợi-
phất thấy tất cả sự trang nghiêm
và thanh tịnh của thế giới
Ta-bà này.
Tuệ Sỹ
1 Nāgārjuna, Vigrahavyāvartani, k.1 : sarveṣāṃ
bhāvānāṃ
sarvatra
na vidyate
svabhāvaścet/ tvadvacanam
asvabhāvaṃ na nivartayitum
svabhāvam alam, “Nếu tự tính của các sự hữu không
tồn tại một cách
phổ
quát,
thì
phát
biểu ngài là vô thể, không thể bác bỏ tự
tính.”
2 Pháp hoa, phẩm ii “Phương tiện”: thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường
trụ 是法住法位世間相常住. Pháp trụ (dharmasthiti) và pháp
vị
(dharmaniyāmatā), là hai từ chỉ lý tính duyên khởi, Cf. Pali, Paccaya, S.
ii.
25: sā dhātu dhammaµµhitatā
dhammaniyāmatā
idappaccayatā.