Đặng Công Hanh ()
Một buổi sáng mùa
thu, sau những ngày mưa tầm tã và cơn bão mới vừa thổi lướt qua thành phố, trời
trở lại trong xanh, cao vòi vọi, tiết thu se lạnh và nắng vừa mới lên trải nhẹ
những vệt sáng lung linh trên tầng lá cây trong khuôn viên tu viện. Tôi và vài
bạn đồng nghiệp đến thăm Thiền viện Bồ Đề để chiêm ngưỡng tòa Bảo Tháp, đang
trong giai đoạn hoàn thiện sau cùng. Thầy Hòa thượng viện chủ niềm nở tiếp chúng
tôi tại nhà khách với bánh ngọt, trái cây, trà xanh và cả mùi thơm của hương
trầm từ chánh điện bay phảng phất trong gió nhẹ ban mai.
Thầy viện chủ năm
nay trạc tuổi ngoài bảy mươi, trong bộ nâu sầm, với dáng đi chậm rãi đầy vẻ trầm
tư, trông Thầy dường như sức khỏe đang bị suy giảm. Có lẽ, một phần do gánh vác
việc Phật sự, phần khác lo lắng chu toàn viên mãn đại nguyện đối với chư vị Bồ
tát chư vị Phật, phát tâm Bồ đề liên tục không gián đoạn trong thanh tịnh hạnh
chưa hề ngừng nghĩ và cầu Đại Thừa đạo chưa hề mệt mỏi.
Dù ẩn mật trong sự
vắng vẻ, khiêm tốn, cô liêu, tỉnh mịch sau cánh cổng chùa, sự sống vẫn là những
đợt sóng thăng trầm giữa đại dương mộng tưởng, nhà chùa vẫn phải là chứng nhân
cho những trò đời dâu bể. Mỗi lát cắt trên dòng chảy cuồn cuộn của lịch sử, tất
yếu sẽ làm tung tóe, làm xung động mọi thứ trong “cõi người ta” vốn dĩ tự tính
là vô thường, nhưng với bản hoài của tu sĩ, lần theo dấu chân của đức Thế Tôn để
sống đời ly dục, giải thoát, bao giờ cũng ước nguyện được tự tại trong mọi hoàn
cảnh thuận nghịch, làm sao cho tầm thường được tự chủ, có tinh thần vô úy, trong
mọi thời, mọi cảnh, phát triển Bồ đề tâm tức tâm lợi tha cầu giác ngộ thành Phật
để có thể cứu giúp, để mưu cầu hạnh phúc cho tất cả chúng sinh bằng Bồ đề nguyện
và Bồ đề hạnh.
Thiền viện Bồ Đề
được kiến lập trong tâm tư đó và trong hoàn cảnh đó. Thiền viện được nuôi dưỡng
như một trẻ sơ sinh trong vòng tay ôm ấp của mẹ, không thể không bị cảm ứng bởi
sự thay đổi của nắng sớm mưa chiều, của phong ba, bão táp, đang lúc Thầy viện
chủ hãy còn là một Tăng sĩ trẻ, nho nhã văn nhân của bậc Thanh Văn.
Đến hôm nay, Thiền
viện tròn 25 tuổi, một khoảng thời gian quá ngắn đối với vô thỉ vô chung, nhưng
cũng dài đối với tồn tại của sắc thân hữu hạn con người. Thiền viện tọa lạc trên
khu đất rộng trên 3400 mét vuông mà sự sở hữu cũng là một thiện duyên của Thầy.
Ngoài ngôi Bảo Tháp vừa mới xây dựng, phần còn lại gồm chánh điện thờ Phật Thích
ca và là nơi để Phật tử đảnh lễ, một nhà khách rộng rãi và các tịnh thất chung
quanh chùa. Tất cả được xây dựng bằng vật liệu thông thường tôn, gỗ và nền bằng
xi măng. Trong vườn chùa có trồng nhiều cây cối nhất là các cây bồ đề với tàng
lá xanh rợp bóng, che mát cho những ngày nắng hạn, che lạnh trong những ngày
đông giá buốt, hòa mình vào cõi hư không tịch mặc, mầu nhiệm, hòa quyện với
âm vọng của tiếng chuông, tiếng mõ, của câu kinh cứu độ lắng vào nơi sâu thẳm
lòng người cho những ai đến đảnh lễ cầu Phật, để được giao hộ cho sự bình yên và
phúc lộc, tạo nên cảm giác sâu lắng, thoát ly những ham muốn, từ những ham muốn
kiêu sa, phóng dật cho đến những ham muốn tầm thường, nhỏ nhoi được xem là ràng
buộc của định mệnh nhân sinh.
Có lẽ từ trong sâu
thẳm thâm căn đó và tuy rằng Thiền viện ở xa phố thị, ở xa trung tâm náo nhiệt
của Thành phố, phật tử đã đến đây đãnh lễ ngày càng đông đảo. Đặc biệt mỗi tháng
vào ngày mồng một, phật tử đăng ký dự lễ Bát Quan Trai có đến hơn 700 người,
ngồi xếp trên chiếu từ trong chánh điện ra đến ngoài sân, im lặng chăm chú nghe
Hòa thượng viện chủ giảng Phật pháp và dùng cơm trưa tại chùa.
Trước nhà khách và
dưới tàng cây bồ đề, tôi chăm chú nhìn bức tượng rất lớn của Bồ - Tát Di lặc, vị
Phật tương lai. Di Lặc là vị “hóa thân thiên ngàn ức”, đôi khi là dạng một vị
Hòa thượng mập tròn đùa giỡn với trẻ con, đôi khi làm trời, làm người hướng đạo
... Người mang mọi dạng hình, đi khắp bốn phương để giáo hóa Tinh Không, như có
1 lần Di Lặc nói với Thiện Tài:
“Thiện nam tử, hãy
thức dậy! Pháp tính là như vậy. Bồ - tát biết tất cả các pháp do nhân duyên kết
tụ lại mà hiện ra, tự tính là như vậy, như huyển, như mộng, như ảnh, như bóng,
không có gì được thành tựu hết”().
Bên trái của chánh điện là tượng Bồ - tát Quan
Âm đứng đưa mắt nhìn chúng sinh, lắng nghe mọi điều than thở để đi cứu giúp.
Ngài là vị đại Bồ Tát phát tâm rộng lớn bao la như không gian. “Quan Âm tam thập
nhị ứng tùy hình” đó là 32 dạng tiêu biểu của Bồ - tát tùy cơ ứng hiện. Các
tranh hay tượng của Ngài thường trình bày Quan Âm “nghìn tay, nghìn mắt” đã nói
lên khả năng ứng hiện. Bồ - tát có thể mang hình quan văn, cô tiểu thư, võ tướng
.... nhưng với gương mặt hiền hậu từ bi gây cho ta lòng thân thiện với Ngài.
Có một lần Phật
Thích Ca trả lời Bồ - tát Vô Tận Ý hỏi về Quan Thế Âm, rằng:
“Mắt từ nhìn chúng
sinh,
Tụ phúc biển vô
lượng
Cho nên đáng đảnh
lễ”
Hơi chệch về phía
phải của chánh điện, có tượng Bồ tát Địa Tạng, đầu mang vương miện tay cầm kích
trượng có 6 vòng đại diện cho 6 lục đạo. Cũng như các vị Bồ - tát khác, Ngài ứng
hiện vô số hình tướng để đến với những ai cần Ngài. Địa Tạng là vị được xem là
người cứu hộ cho những ai không may rơi vào địa ngục, hay những kẻ nằm trong các
chỗ thác sinh tối tăm.
Ngoài ra còn có
tượng của các Bồ - tát Văn Thù và Phô Hiền. Văn Thù là vị đại trí vì Ngài là kẻ
chỉ đường tu học cho chúng sinh, Ngài luôn làm thầy của vô lượng Bồ - tát, giáo
hóa vô lượng chúng sinh. Ngài trụ trong trí huệ thâm sâu, thấy biết được tất cả
các pháp đúng như thật() , còn
Phổ Hiền là vị “Đại hạnh” vì nguyên lực cho hành động của Ngài là rộng lớn vô
biên. Văn Thù và Phổ Hiền là sự hợp nhất giữa trí huệ và hành động, đại diện
nguyên lý “tri hành hợp nhất”. Cái “tri” và “hành” là hai mặt biện chúng trong
một thể thống nhất của người tu đạo. Trong kinh sách Đại Thừa có nhắc đến 200 vị
Bồ - tát và mỗi vị ra đời là để hành động cho thế gian, nhưng tại Việt Nam năm
vị nói trên được tôn kính nhiều nhất và mỗi vị chủ đạo một hướng riêng trong
việc giáo hóa và cứu độ chúng sinh.
Vươn lên cao trên
các tàng lá xanh, ngôi Bảo Tháp đứng sừng sững uy nghiêm trong khoảng không đầy
lộng gió nhưng giữ được sự hài hòa với khung cảnh xung quanh. Phía trước là 1
khoảng trời mở tầm nhìn về phía biển mù khơi rì rầm sóng vỗ, núi Hải Vân mây
trời lãng đãng trên đỉnh màu xanh cây rừng. Nghoảnh mặt về phương nam chân trời mù mịt với
cánh chim chiều bạt gió bay về tổ lúc hoàng hôn và phía đông nhấp nhô các tòa
nhà cao tầng của Thành phố non trẻ.
Ngôi Bảo Tháp cao
khoảng 67m với 12 tầng, có sáu mặt, tường sơn vàng; mái đỏ. Trên đỉnh Tháp được
thiết kế bình hồ lô hình khối cầu màu xanh ngọc,
đứng trên tòa sân hồng tượng trưng cho
yếu tố “nước” sự luân chuyển, sự di động. Phía trên bình hồ lô là cột thu lôi có
mang cờ Phật. Tầng kế tiếp thờ xá lợi của Phật đã cung thỉnh từ Ấn Độ qua ngã
Thái Lan và về đến Đà Nẵng. Các tầng dưới bố trí 10.000 tượng Phật, mỗi vị có
một ít khác biệt rất khó hiểu. Tuy nhiên ta có thể hiểu rằng đó là hệ thống Pháp
thân, Bảo thân và Ứng thân của chư Phật đóng vai trò quan trọng trong triết lý
về vũ trụ Phật giáo.
Về phía tường ngoài,
mỗi tầng mỗi mặt đều có khắc tượng Phật hướng mắt nhìn khắp mọi phương và các
góc mái đỏ của Bão tháp có gắn tượng con rồng màu xanh.
Công trình Bảo Tháp
được xây dựng gần 2 năm, thu hút quá nhiều tâm lực đời với Thầy viện chủ và các
cộng sự trong 1 thời gian dài về nhiều mặt: từ các chi tiết về mỹ thuật, an toàn
về cấu trúc nền móng, an toàn đối với ăn ở của công nhân, kịp thời xử lý các
biến động giá cả thị trường, biến động về thời tiết gây ảnh hưởng đến tiến độ
thi công. Nổi bậc nhất trong các nổi lo là vấn đề an toàn lao động, tránh mọi
rủi ro xảy ra đối với công nhân làm việc và tất cả các lo lắng của Thầy cùng các
cộng sự cho đến hôm nay đã được mãn nguyện trọn vẹn trong niềm hoan hỷ.
Lúc xin Thầy từ biệt
ra về, mặt trời đã lên cao, tiết thu ấm áp, lòng tôi như nhủ thầm không biết
mình đã dùng con mắt gì để nhìn thấy Thầy qua các công việc quá bề bộn, quá sức
đối với một tu sĩ tuổi đẽ xế chiều. Có lẽ chỉ có cái nhìn của con mắt tình yêu
mới làm cho tôi thấy được cái vô biên trong cái hữu hạn, cái vô hình trong cái
hữu hình, mới thấy sự mầu nhiệm của đại nguyện và thấy được sự gia hộ của chư vị
Bồ - tát, chư vị Phật đối với Thầy tôi trên bước đường hành đạo.
ĐN - Mùa thu 2009