Nguyên Châu
Cho đến bây giờ, mặc dầu hơn một phần ba năm tháng của đời
người lướt qua, song, mỗi khi nghĩ về quê hương-nơi tôi sinh ra và lớn lên, tôi
không khỏi bồi hồi xúc động, nhớ nhung.
Tôi hay nhớ về quê cũ ở vùng ngoại ô hẻo lánh trên một
vùng cát trắng xóa với rừng dương bát ngát, và bên kia là phá Tam giang hiền
hòa, thơ mộng trữ tình có con thuyền lướt nhẹ trôi-nơi gió đồng mặc sức đuổi
nhau trên những con đường làng mảnh như kẻ chỉ, nơi có cái nắng chiều vàng ửng,
có đôi má hồng của người em gái và bụi đỏ đường thôn. Ở đó, tôi có thể nghe lúa
thì thào những điều quen lạ về quê cha đất tổ, văng vẳng điệu hò buồn rười rượi
mẹ ru em ngủ; lòng bồi hồi nhìn những giọt mồ hôi của bao người nông dân rơi vào
lòng đất cho hoa thơm trái ngọt đầy cành. Sau những lũy tre làng xanh như màu
nước sông Hương, những buổi chiều Hè được hóng ngọn gió nồm mát mẻ, được tiếp
xúc với ngọn khói lam chiều cay nồng dưới mái tranh mái ngói, bên hoàng hôn
buông xuống theo tiếng sáo mục đồng, với từng đôi cò trắng xuống đồng bay vào
giấc mơ bình yên và no ấm. Tất cả, được hòa quyện thành một bức tranh quê tràn
đầy hương sắc, sinh động, đánh thức lòng
người viễn xứ.
Xuân về, Hạ đến, Thu qua, và Đông tới. Uống ngụm nước
giếng làng giữa đêm giao mùa yên ả, tôi thoảng nhớ hình ảnh người mẹ hiền tảo
tần dưới nắng mưa để kiếm tiền nuôi con ăn học; tiếng kĩu kịt của chiếc đòn gánh
trên đôi vai của mẹ, tôi vẫn nhớ, đã mở ra những chân trời mờ ảo, tinh khiết quê
tôi. Chính vì lẽ ấy, đã khiến cho những người con xa xứ như tôi đang sống nơi
đất khách quê người không khỏi cảm xúc, hoài vọng về một thời mà cha ông đã gầy
công xây dựng; quặn lòng với những nỗi nhớ, niềm đau trước những tình cảnh ngang
trái mà người thân của chúng tôi đã và đang hứng chịu, vì đã can đảm nói lên sự
thật, nhất là nói lên những sai lầm để sửa chữa, biết can đảm nói lên sự thống
khổ, nỗi khao khát, niềm hy vọng của đồng bào; thực hiện những thử thách, và cơ
hội mới để bảo vệ nét đẹp văn hóa dân tộc, tìm Công lý-Tự do-Ấm no và Hạnh phúc
cho con cháu Lạc Hồng. Tôi cảm giác dường như sự bình an và hạnh phúc chung
quanh mình ngày càng ngắn ngủi và mong manh trước hiện cảnh của thế giới đầy
thách thức: động đất, núi lửa, bão lụt, nhiễm phóng xạ... Tâm hồn của chúng tôi
quá đơn điệu; bàn tay chúng tôi quá nhỏ bé, biết lấy gì để nắm giữ và hành động.
Nhật Bản:
tan hoang sau cơn sóng
thần, động đất
ttrong bối cảnh nỗi lo nhiễm phóng xạ
Từ biệt quê hương yêu dấu, dưới không khí làng quê thoang
thoảng, mùi hương cau tỏa ngát đã gieo vào tâm hồn tôi với niềm biết ơn cùng bao
nỗi vấn vương, bỏ lại sự yên tĩnh bên ánh tà dương còn đọng lại trên miền quê
hoang dã. Năm lên mười lăm, tôi có duyên được tu học tại Huế. Huế, nơi đây, như
tôi được nghe và biết, trong gần 400 năm (1558-1945), là Trung tâm chính trị và
văn hóa của Đàng Trong, rồi trở thành kinh đô của cả đất nước trong một thời.
Biết bao tinh hoa của mấy thế kỷ đã hội tụ về núi Ngự sông Hương thơ mộng hữu
tình này để tạo nên nơi đây một mô thức văn hóa kiểu mẫu, rồi đặc tính văn hóa
này đã lan tỏa khắp nơi trong cả nước. Ngày nay Huế đã được UNESCO công nhận là
di sản văn hóa của nhân loại; di sản đó tuy không hoành tráng bằng Vạn lý trường
thành của Trung Quốc, bằng đền Angco-Vat của Campuchia, nhưng hệ thống di sản đó
khác hẳn các di sản khác, đó là, nó được nằm trong một đô thị di sản. Với phong
cách riêng, với kiến trúc tinh tế của các công trình điêu khắc và mỹ thuật
phương Đông được kết hợp hài hòa với thiên nhiên tuyệt mỹ, cũng như được
an bài theo đúng các nguyên tắc về phong thủy, đã góp phần tạo nên sắc thái nghệ
thuật của Huế, đã hòa quyện và nuôi dưỡng nhau để trở thành một vùng đất của
thơ, một bầu trời của nhạc, một thế giới của tâm hồn. Huế là chiếc nôi của Phật
giáo Việt Nam một thời, nơi có hàng trăm ngôi chùa tọa lạc giữa những thung lũng
của vùng đồi tĩnh mịch hay trong các thôn làng hẻo lánh như Quốc Ân, Từ Hiếu,
Thuyền Tôn, Tra Am... bên cạnh những ngôi chùa nổi tiếng, gắn liền với lịch sử
như Linh Mụ, Diệu Đế, Túy Vân, Từ Đàm, Linh Hựu Quán (hiện nay là Nhà thờ Tây
Linh, Huế)... Khung cảnh ấy vẫn như thế, (tuy nay có thay đổi chút ít) dù lịch
sử đã xoay vần, chuyển hướng. Dường như ngày nay, ai đó đã có ý làm biến thái đi
những hình ảnh thiêng liêng, vàng son này. Chúng tôi cảm thấy hổ thẹn cho
chính mình, ... trước những bậc tiền bối của chúng tôi-Người có tầm nhìn
vĩ mô, có trí tuệ mẫn tiệp và con tim khoan dung, nhưng quả cảm, có niềm tin và
sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng đã chọn; đã dấn thân, gánh vác những trách
nhiệm lớn lao, giữ tấm lòng son với Đạo và quê hương đất nước, không phụ lòng
lịch sử... Có thể nói, nhờ ảnh hưởng tinh thần văn hóa Phật giáo, mà người dân
Huế mới có nếp sống tâm linh thuần hậu, có nhịp sống thanh thản, trầm tư trong
an hòa tịch lặng và gần gũi với thiên nhiên, chứ không phải rộn ràng, và náo
nhiệt như các thành phố anh em khác. Là người yêu Huế, quý trọng di sản, thì cần
ý thức rõ cái gì là đẹp và cái gì là thiện, thì khi đó chúng ta mới có trách
nhiệm trong việc giữ gìn, chăm chút, tô điểm, phát triển, nhất là kiến thiết các
vị trí khá nhạy cảm trong quần thể di tích văn hóa. Ngày còn nhỏ, tôi chưa nhận
thức được điều đó. Nhưng càng lớn khôn, tôi mới dần dần cảm thấy cái
“thâm trầm và thi vị” của Huế. Nhiều khi, tôi ước ao được trở thành một
họa sĩ giỏi để vẽ nên cái thần thái hồn thiêng sông núi của đất Thần
kinh, vẽ nên những bức tranh thủy mặc tinh tế, trầm hùng, và khí khái của chùa
chiền, cung điện, lăng tẩm của một Cố đô Huế huyền thoại; vẽ nên tiếng chuông
chùa thăm thẳm và thanh thoát trong đêm yên lắng, để làm thức tỉnh cho những ai
đang còn ngái ngủ, cho những ai đang còn mơ mộng hão huyền, những ai đã và đang
đánh mất những giá trị về truyền thống đạo đức tâm linh của Dân tộc, cũng như để
xua tan đi tất cả những nỗi buồn tê tái, phủi sạch bụi hồng sau một ngày mệt
nhoài giữa đường đời phù sa lầy lội, hòa nhập vào chốn cô tịch, náo nhiệt của
kiếp sống hiện tại trước ngưỡng cửa sinh hoạt trong lãnh vực kinh tế, văn hóa và
giáo dục thời hội nhập.
Trên con đường đi tới cuối cuộc đời, đến lúc nào đó, trong
tâm tưởng, trong đời sống của con người, ai ai cũng có nhu cầu nhớ lại những kỷ
niệm vui buồn, được mất, thăng trầm của chính mình, … để rồi tiếp tục chuẩn bị
hành trang đi vào dòng đời lẩn quẩn của một kiếp người.
Ngày tháng trôi qua, những hình ảnh
về quê hương yêu quý ấy, thực sự đã nhắc nhở, gợi lại về tuổi thơ ấu, những
chuỗi ngày dài kỷ niệm trên quê hương đầy ấm áp, đơn sơ và hạnh phúc. Tôi đã để
lại tất cả những gì thuộc về ngày kia, đó là những kỷ niệm sâu lắng, đã khắc đậm
trong ký ức, có lẽ sẽ mãi mãi không bao giờ quên trước một mùa xuân vui tươi,
thấm đẫm tình người.³