Nhân dịp tham dự Lễ Hội Về Nguồn và Hiệp Kỵ Chư Lịch Đại Tổ Sư, tổ chức tại
Tu viện Viên Đức Ravensburg - Đức Quốc. Tôi hân hạnh đuợc Thầy Bảo Lạc tặng cho
thi phẩm Trầm Hương.
Xin thành kính cảm niệm công đức của Thầy, đồng thời có đôi lời cảm tưởng sau
khi đọc thi phẩm nầy.
Một đoạn trong lời mở đầu, thi nhân viết: “Lâu lắm rồi từ năm 1985 thi
tập đầu tiên “Cho cây rừng còn xanh lá” mãi tới nay hơn 20 năm lần nầy thi tập
“Trầm Hương” mới có dịp tái ngộ độc giả, phải nói là nguồn thơ quá khiêm tốn
không mấy dồi dào cho lắm...” (trích Lời mở, trang 6).
Thử tìm hiểu nguyên nhân gián đoạn, cũng như nguồn thơ tiếp tục ra sao giữa
hai thi phẩm. Với hy vọng có thể tăng thêm cảm xúc trong khi thưởng thức. Theo
nguồn thơ trong “Trầm Hương” thì thi nhân đã chia thì tập nầy ra nhiều “thể tài”
khác nhau:
1)
Thoáng suy tư (chiêm nghiệm về Phật pháp).
2)
Thiên nhiên tuyệt vời (cảm nhận về sự hòa hợp với thiên
nhiên).
3)
Hạnh nguyện (noi theo hạnh người xưa)
4)
Sắc tâm (luận về tâm vương, tâm sở).
5) Tình đạo pháp (điếu văn
cảm niệm công đức chư tôn Thiền Đức viên tịch).
Về mặt gián đoạn có thể thi nhân xuất thân là một vị Tăng sĩ, đã vượt thoát
khỏi những ràng buộc của thế gian, xem tất cả những chuyện buồn vui của thế cuộc
như mây bay gió thoảng; hoặc giả nguồn thơ của thi nhân chỉ là một giọt sương
buổi sớm, một tia chớp cuối ngày. Chỉ để lại một thoáng trầm tư nhưng muôn sau
còn vang vọng, ngàn kiếp vẫn long lanh. Nên không cần phải trung thành với con
tim, đang thao thức đi nhặt những tiếng lòng kết thành chuổi hạt, để cống hiến
cho người đời thế gian thưởng lãm.
Cũng có thể vì hoàn cảnh sang trang nên
cần phải trở lại để chu toàn nguyện ước chưa thành, nên đành phải dấu lại những
cảm xúc vào một góc khuất, chờ đợi. Cũng có thể không phải những lý do trên làm
ngăn ngại, ly cách. Vì trong thực tế của bình diện sáng tác thì từ “Cho cây rừng
còn xanh lá” cũng cần phải đợi một thời gian mới có “Trầm Hương” chứ. Vã lại
Trầm Hương được tích tụ những gì có được không phải chỉ thuần túy là hương trầm
toát ra từ cây rừng, mà còn phảng phất nhiều hương thơm siêu việt khác. “Như
hương Bát Nhã, hương Thiền và hương của Người Đức Hạnh, những thứ hương có thể
bay theo chiều gió ngược, không phai”.
Từ ta chiêm nghiệm pháp nầy
Tâm kinh Bát Nhã phả đầy ngát hương.
(Nghiệp thức, trang 14)
Như vậy nguồn thơ của thi nhân chẳng
những không gián đoạn, mà vẫn còn bàng bạc trong muôn một thời khắc, đang tuôn
tràn và dâng lên đến trăng sao tâm sự. Để có thể nhìn xuyên suốt muôn cảnh núi
sông mây nước. Như trong một chuyến hành hương Trung Quốc, trước cảnh hùng vĩ
của Nga Mi, tác giả trong lúc ngồi cáp treo đưa lên đỉnh, đã xúc cảnh tạo thành
những vần thơ thanh thoát và đạo vị:
Kim đỉnh ngàn năm mây trắng bay
Phổ Hiền Bồ Tát hạnh sâu dày
Nga mi Phật tích hằn in dấu
Thánh địa danh sơn tải đạo mầu.
(Thánh địa Nga Mi, trang
36)
Nguồn thơ phát xuất từ những giây
phút “chiêm nghiệm pháp nầy”. Nhờ vậy mà hồn thơ nở thành trăm hoa, để dâng tặng
hương thơm cho đời.
Ta là một bông hoa
từ lòng đất nở ra
mang hương thơm đi khắp
xông ngát nẽo gần xa
(Đất nở
hoa, trang 23)
Từ một một tấm lòng phụng hiến, từ một ước nguyện “vô vi”, thơ đã được “biểu
hiện” thành hương hoa cho đời thưởng thức. Thi nhân đã cảm thấy được nguồn hạnh
phúc, nhờ vào việc đem đến lợi lạc cho chính mình và cả cho tha nhân. Để rồi
nguyện suốt đời “làm đất trồng hoa” đem đến sự vui tươi, hạnh phúc và hòa bình
cho nhân loại.
Ta muốn được là đất
để người ươm gieo hạt
cho nở chồi cây xanh
xây hạnh phúc hòa bình
(Đất nở hoa)
Một hạnh nguyện tuy đơn sơ, nhưng đã khởi từ vô lượng kiếp, từ niệm pháp đến
nhiếp pháp, đến nguyện hành là cả một chuổi dài không tưởng.
Từ muôn kiếp xưa xa
nhờ nhân duyên xuất thế
học hạnh người xuất gia
hạnh của đất nở hoa
(Đất nở hoa)
Nhờ những hạnh nguyện ấy, nên tâm hồn của thi nhân, cuộc sống của con người
mới hài hòa với thiên nhiên, dầu sống với môi trường nào cũng cảm thấy thân
thương hạnh lạc:
Buổi sáng nơi công viên
cảnh vật thật bình yên
rộn lên niềm phơi phới
vươn sức sống triền miên
con người cùng cảnh vật
hòa quyện giữa thiên nhiên
........................................
Cõi trời hay cõi thế
cảnh Phật hay cảnh tiên
không, đây chỉ cõi tạm
lắng xuống những lụy phiền
tâm mê trừ dứt đoạn
sạch vọng tưởng đảo điên
hòa nhau trong sinh thái
niềm an lạc vô biên
dừng chân trong giây phút
buổi sáng dạo công viên
điều hòa thân tâm tịnh
thưởng ngoạn chân cảnh thiền.
(Hoà giữa thiên nhiên, trang 28)
Và tất cả những kết quả ấy cũng nhờ vào công phu hôm sớm, nhờ những hành
hoạt thường xuyên, với một hạnh nguyện đem lại cho tha nhân lợi lạc.
Kinh kệ khóa trình mỗi sớm mai
Chuông hồi cảnh thức khách trần ai
(Thời khóa công phu).
Người xưa thường nói: “Có lên núi
cao mới thấy hết những gò đống; có ra biển khơi mới biết được ao hồ nông sâu”.
Có công phu mới cảm nhận được những điều vi diệu của Phật pháp...
Có ba thái độ đi chùa
ngỡ ngàng, xa lạ, vui đùa giải khuây
xem chùa là chuyện của thầy
vòng ngoài ngắm cảnh ai hay làm gì
(Đi chùa, trang 16)
Đây là cái thấy và diễn tả tâm
trạng, từ suy nghĩ đến hành động của người Phật tử mới đến chùa lần đầu. Tuy
bình dị nhưng uyên áo vô cùng, vì tâm lý nầy chắc chắn ai trong chúng ta cũng đã
bắt gặp một lần. Cảm nghĩ ban đầu ấy sẽ đi dần vào tiến trình làm quen với sinh
hoạt của chốn thiền môn.
Thiện nam tín nữ tu trì
Gặp nhau niệm Phật A Di chào mừng
Hai tay chắp lại ung dung
Thân thương hòa ái vô cùng thiết thân
(Đi chùa, tiếp theo)
Tiến trình nầy cũng như những giọt nước từ nguồn cao, từ từ chảy ra sông
biển. Không tránh khỏi những giây phút ngập ngừng của buổi ban đầu, dần dần đi
đến đồng cảm. Như trong Luật Sa Di có nói đến 7 cách lễ lạy: “1)-Ngã mạn lễ.
2)-Cầu danh lễ. 3)-Thân tâm cung kính lễ. 4)-Phát trí thanh tịnh lễ. 5)-Thông
nhập Pháp giới lễ. 6)-Chánh quán tu thành lễ. 7)-Thật tướng bình đẳng lễ”.
Người Phật tử ban đầu đến chùa cũng lẫn quẩn với hai cái lễ đầu tiên (Ngã
mạn lễ và Cầu danh lễ). Rồi dần dà mới làm quen với: “Thân tâm cung kính lễ.!”.
Rồi mới tiến dần đến cái lễ rốt ráo: “Thật tướng bình đẳng lễ”
Tuy xa đồng cảm như gần
Chùa ta xây dựng ân cần từ đây
tới lui học đạo lâu ngày
thấm nhuần kinh kệ giải bày tâm tư
bây giờ ai cũng xem như
chùa chung bá tánh riêng tư đâu còn
từ đây vào thẳng bên trong
tự tin cảm thấy cõi lòng an nhiên
(Đi chùa, tiếp theo)
Đến đây mới cảm thấy niềm ấm áp của mái chùa, điều vi diệu của pháp mầu và
hồn thiêng che chở.
Mái chùa che chở hồn thiêng
Trẻ già, trai gái đồng nguyền tiến tu
Sớm chiều kinh kệ công phu
Xây đời an lạc đắp bù gia công
Quá trình tu tạo nhân trồng
Tương lai bồi đắp cha ông đạo nhà
Mái chùa đầm ấm thiết tha
Cháu con giữ lấy món quà tâm linh.
(Toàn bài đi chùa).
Với bài thơ đi chùa nầy, thi nhân đã dẫn dắt chúng ta đi từ... và đến... để
thấy được “chùa hay là cả một công trình hoằng hóa của Người từ lâu nay”. Nhờ
vào công phu sớm tối, và nhất là nhờ vào một tấm lòng, với chí nguyện cao cả,
cũng như học hạnh người xưa :
“Nhất bát thiên gia phạn.
Cô thân vạn lý du.
Kỳ vi sanh tử sự.
Giáo hóa độ xuân thu”.
(Khất
sĩ).
Song Thu dịch:
“Một mình dạo khắp ta bà.
Ôm bình bát pháp mọi nhà xin ăn.
Chỉ vì sinh tử đảo điên.
Xuân Thu giáo hóa gieo duyên độ đời”.
Vẫn tiếp tục không ngừng với nguyện lực
ấy, mong đem nguồn đạo để tưới tẩm cho đời vốn cằn khô sỏi đá, héo úa cõi lòng
vì thi nhân cũng như chúng ta đã một lần đánh mất quê hương, mang thân phận lưu
đày ngoài chốn xa vạn dặm.
Lần bước noi dấu chân
Dù xa cách vẫn gần
Cà sa ba cánh mỏng
Tháng ngày nhẹ lâng lâng
Nơi nào cần con đến
Phật pháp gọi con đi
Gian nguy nề sá gì...
Với ước mong sẽ có một ngày:
Đông phương bừng tươi sáng
Đạo pháp quyện trời Tây...
(Đạo pháp quyện trời Tây, trang 17)
Đó là tất cả “một tấm lòng với thơ, một chí nguyện với đạo, và một tình
thương với Quốc gia Dân tộc”.
Đường giải thoát nguyện bước lên
Đơm hoa Bát nhã kết nên Sen hồng
(Pháp mầu, trang 15)
“Trầm Hương” là một thi phẩm, nhưng
không phải để thưởng thức những vần điệu của thơ, không phải để đào sâu nội dung
của ý, và cũng không phải để giải trí trong chốc lát cho khuây khỏa nỗi niềm. Mà
ngược lại, Trầm Hương là phương thức biểu hiện những phương pháp thực tập, để
đạt được kết quả nhờ vào kinh nghiệm đã trải, nhờ vào công hạnh tự giác, giác
tha với ước mong đem lại cho chúng ta nguồn hạnh phúc đích thực, viên mãn .
Vì thế nên muốn thưởng thức Trầm Hương, thì cần phải “tương tác với thi
nhân”, phải thực hành những điều có thể tạo nên, chuyển thành “Tâm Hương” để
dâng lên cúng dường đấng “Toàn Giác” và hồi hướng công đức cho chúng sanh khắp
cả mọi miền pháp giới.
***
Tôi cũng đã bắt chước người xưa, pha một ấm trà, đốt một tuần nhang, và mở
Trầm Hương ra đọc. Để cầu mong nhờ sự phụ họa của ngoại cảnh, sự kết hợp của
những phương tiện liên quan, có thể làm tăng thêm nguồn cảm xúc. Nhưng trong
chiều hướng thưởng thức hiện tại, người đọc cũng chỉ như một Phật tử đến chùa
lần đầu tiên, chạy lòng vòng phía ngoài chỉ để bẻ hoa hái trái vườn chùa, với
thái độ :
“Ngỡ ngàng, xa lạ, vui đùa giải khuây” ...
Nhưng cũng với một niềm hy vọng là, có được “một đôi điểm đồng cảm với tác
giả”, để từ đó làm căn bản cho một ước nguyện xin được giới thiệu với độc giả
bốn phương: “Trầm Hương” như những bài pháp thực tiển, một lời khuyên chân
thành, một hạnh nguyện cao cả, một phương pháp thực tập qua những đối chiếu với
thiên nhiên, với phong cảnh, với linh cảm, với tất cả nguồn trầm tư phương
Đông..., hầu đem lại cho chúng ta nguồn hạnh lạc.
Trần Đan Hà
Nguồn: PSN 7.3.2011