Chín tầng thiền định trong Phật giáo
chin tang
Chín tầng thiền
định
trong Phật giáo gồm:
Sơ thiền,
Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ,
Phi tưởng
phi phi tưởng
xứ và Diệt tận
định.
1.
Sơ thiền
gồm
có năm chi: tầm,
tứ, hỷ, lạc và nhất tâm
(định
tâm).
Ví như,
khi
hành giả chọn
hơi thở
vào ra để
thực tập
định
tâm,
thì tâm suy tìm
hơi thở
vào ra
là
tầm, tâm theo dõi, bám sát hơi
thở
vào ra là tứ, tâm nhớ
đến
hơi thở
vào ra là niệm, tâm an trú nhất
như
nơi
hơi thở
vào ra là định,
tâm nhận biết
được
hơi thở
vào ra
cũng như thân tâm là tuệ
hay
chánh kiến, tâm vui
thích
là hỷ thọ, tâm an lạc là lạc thọ.
Đây gọi
là Sơ thiền.
2.
Nhị thiền gồm có 3 chi:
hỷ thọ, lạc thọ và nhất tâm.
Hành giả
an trụ trong
định
tâm
của
Sơ thiền
để
tiếp tục tu tập
nên định
tâm được
tăng tiến.
Vì
định
tâm
được
tăng
tiến nên
định
tâm
này chỉ còn tương
ưng hỷ
thọ và lạc thọ.
Đây gọi
là Nhị thiền.
3.
Tam thiền gồm có 2 chi: lạc thọ và nhất tâm.
Hành giả an trụ
trong định
tâm
của Nhị
thiền
để
tiếp tục tu tập
nên định
tâm
được
tăng
tiến.
Vì
định
tâm
được
tăng
tiến nên
định
tâm này chỉ còn tương
ưng với
lạc thọ.
Đây gọi
là Tam thiền.
4.
Tứ thiền gồm có 1 chi: nhất tâm
và
tương ưng với
xả thọ.
Hành giả an trụ trong
định
tâm của Tam
thiền
để
tiếp tục
tu tập
nên định
tâm
được
tăng
tiến.
Vì
định
tâm
được
tăng
tiến nên
định
tâm này chỉ còn tương
ưng với
xả thọ.
Theo Kinh, khi hành giả
đạt
được
Tứ thiền
thì
lúc đó thức
thứ sáu sẽ
không tập khởi.
Bốn tầng
định
tâm nói trên là y vào năm thiền
chi để
giải thích sự
tăng tiến
của
các định
tâm, chứ ở trong các
định
tâm đó vẫn
có tuệ, niệm, tinh tấn…
5.
Không vô biên xứ
định
là
trạng
thái định
tâm
rộng lớn
đồng
nhất với không gian vô biên.
Có
nghĩa là,
hành giả an trụ
trong định
tâm
của
Tứ
thiền
để
tiếp tục tu tập
nên định
tâm
được
tăng
tiến.
Vì
định
tâm
được
tăng
tiến
nên định
tâm
này rộng lớn
đồng
nhất với không gian vô biên.
Đây gọi
là Không vô biên xứ
định.
6.
Thức vô biên xứ
định
là trạng
thái định
tâm rộng khắp cả toàn thể vũ trụ.
Nghĩa là, hành giả an trụ
trong định
tâm
của
Không
vô biên xứ
để
tiếp tục tu tập
nên định
tâm
được
tăng
tiến.
Vì
định
tâm
được
tăng
tiến
nên định
tâm
này
rộng khắp cả toàn thể vũ trụ.
Đây gọi
Thức vô biên xứ
định.
7.
Vô sở hữu xứ
định
là trạng
thái định
tâm rộng khắp cả toàn thể vũ trụ
nên
không còn một
tướng
trạng sở hữu.
Có
nghĩa là,
hành giả an trụ
trong định
tâm
của
Thức
vô biên xứ
để
tiếp tục tu tập
nên định
tâm
được
tăng
tiến. Vì
định
tâm
được
tăng
tiến
nên định
tâm
này
rộng khắp cả toàn thể vũ trụ
nên
không còn một
tướng
trạng sở hữu.
Đây gọi
là
Vô sở hữu xứ
định.
8.
Phi tưởng
phi phi tưởng
xứ
định
là trạng
thái định
tâm vượt
qua Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ.
Định
tâm này vẫn
chưa đoạn
trừ
được
hoàn toàn tưởng
uẩn (tập
đế),
mà chỉ còn lại một phần tập
đế
vi tế. Từ
đây, hành giả
an trụ
trong định
tâm
này để
tiếp tục tu tập
cho đến
khi đạt
được
Diệt tận
định.
Vì vậy, trong Trung A-hàm, kinh Thuyết
Vô Thường,
Đức
Phật dạy:
Phi tưởng
phi phi tưởng
xứ
định
chỉ còn lại
các hành tàn dư (tập
đế
vi tế).
9. Diệt tận
định
(hay Diệt thọ
tưởng
định)
là loại
định
đoạn
trừ hoàn toàn Tập
đế.
Hành giả an trụ
trong định
Phi tưởng
phi phi tưởng
xứ
để
tiếp tục tu tập nhằm
đoạn
tận hoàn toàn tập
đế
tàn dư nên đạt
được
Diệt tận
định
và thành tựu quả vị A-la-hán. Vì thế, trong Tạp A-hàm, kinh Chỉ Tức,
Đức
Phật dạy: Diệt thọ
tưởng
định
sẽ tĩnh chỉ thọ
và tưởng.
Trong Trung A-hàm, kinh
Đại
Câu Hy La,
Tôn giả dạy: “Tỳ-kheo
nhập diệt tận
định
trước
hết diệt thân hành, kế
đến
khẩu hành và sau hết là ý hành.”
Theo các Kinh nói: Đức
Thế Tôn và bậc thánh A-la-hán thuộc về câu phần giải thoát mới
đạt
được
Diệt tận
định,
còn bậc thánh A-la-hán thuộc về tuệ giải thoát vẫn
chưa đạt
được
định
này.
Chín tầng thiền
định
này là sự tu chứng,
nên người
viết
chưa hiểu
hết
được
mà chỉ hiểu
được
phần nào về mặt từ ngữ
cũng như về
ý nghĩa thật của chúng.
Thích Thắng Giải