Không thấy gì để tranh cãi
khong co gi de
Không
thấy
gì
để
tranh
cãi
Nguyên Giác
Đôi khi bạn rơi vào một diễn đàn Phật pháp trên
Internet,
bất ngờ lại thấy tranh cãi bộ phái, rằng chuyện Nam
tông
thế này và Bắc
tông
thế kia, rằng chuyện Thiền
tông
bên ni và Tịnh
độ
bên nớ, và những chuyện tương tự...;
khi người này nói rằng chỉ có họ đúng và người khác hẳn phải là sai. Ngay cả đôi
khi bạn mở truyền hình ra xem, cũng bất ngờ khi thấy một vị sư hay một cư sĩ
Phật tử nói những chuyện tương tự. Những tranh cãi hiện ra bất kể rằng họ cùng
thờ Đức Phật, cùng công nhận các pháp ấn, cùng tu pháp Bát
chánh
đạo,
nhưng một khác biệt nào đó đã được xem là lệch nghĩa. Dò lại kinh điển, chúng ta
thấy rằng Đức Phật nói rằng người trí sẽ không thấy gì để tranh cãi nữa, vì tâm
họ đã xa lìa cõi này.
Đức Phật nói trong kinh điển rằng cần phải hòa hợp. Truyền thống Phật giáo Việt
Nam cũng tôn trọng sự dị biệt tông phái. Thực tế, thời Đức Phật không hề có chia
tông, rẽ phái. Thực tế, thời Đức Phật cũng chưa hề có cái gì gọi là
đạo
Phật hay Phật
giáo
như chúng ta hiểu. Lúc đó, Đức Phật chỉ nói rằng cõi này là khổ, và đây là con
đường thoát khổ. Thực tế, không nói tới chuyện các bậc trí tuệ, hay những vị
Thánh,
chỉ cần tự nhìn vào tâm một người phàm như chúng ta, nhìn kỹ xem, rồi sẽ thấy
trong tâm mình không hề có vết tích gì gọi là Nam
tông
hay Bắc
tông,
thậm chí trong cái tâm tự nhìn, tự quan sát này cũng không hề có cái gì gọi là
để phải bám
víu, để tranh cãi với bất kỳ ai.
Trong một bản
kinh
được Đức Phật khi còn sinh tiền chọn đưa vào trong nhóm
kinh
nhật
tụng
để chư
Tăng
tụng hàng ngày, có
kinh
Sn 4.13
-
Mahaviyuha Sutta (Đại
kinh
về
tranh
cãi).
Nơi đây, Đức Phật nói rằng người trí tuệ, khi đã xa lìa trần gian cõi này rồi,
họ không thấy gì để cãi nhau nữa, vì tâm của họ hoàn toàn tịch lặng, không còn
một kiến (cái thấy rằng thế này, hay thế kia) nào nữa. Trích đoạn bản dịch
Nguyên Giác như sau:
912. Người trí xa lìa mọi ràng buộc với thế giới này. Khi tranh cãi khởi dậy, họ
không về phía nào. Giữa những người dao động, người trí vẫn tịch lặng. Giữa
những người nắm giữ các kiến, người trí không nắm giữ gì.
913. Rời bỏ nghiệp cũ, không tạo nghiệp mới, không theo tham dục, không dựng
giáo thuyết, lìa các kiến thủ, không dính mắc với thế giới này, người trí tuệ
cũng không tự thấy có lỗi gì.
Có một câu chuyện thường được nhắc tới trong
kinh
Pháp
cú,
nơi bài
kệ
số 6, đó là về các Tỳ-kheo
Kosambi.
Truyện
kể rằng các Tỳ-kheo
ở Kosambi đã chia thành hai nhóm. Một nhóm theo bậc thầy về
luật
và nhóm kia theo bậc thầy về
giáo
pháp và họ thường tranh cãi nhau. Ngay cả Đức Phật cũng không thể ngăn họ tranh
cãi; vì vậy, Ngài đã rời bỏ họ và dành thời gian trú ngụ trong mùa mưa, một mình
tại
rừng
Rakkhita,
gần rừng Palileyyaka. Ở đó, con voi Palileyya đã theo hầu Đức Phật.
Các đệ tử tại gia ở Kosambi, khi biết lý do Đức Phật ra đi, đã từ chối cúng
dường cho các Tỳ-kheo
còn lại. Điều này khiến họ nhận ra lỗi lầm của mình và đã hòa giải với nhau. Tuy
nhiên, các đệ tử tại gia không đối xử với họ một cách tôn trọng như trước, cho
đến khi họ thừa nhận lỗi lầm của mình với Đức Phật. Nhưng Đức Phật đã đi vắng và
đang ở giữa mùa mưa; vì vậy các Tỳ-kheo
ở Kosambi đã trải qua mùa an cư trong đau khổ và khó khăn.
Vào cuối mùa an cư, Tôn giả Ananda và năm trăm Tỳ-kheo
đã đến gặp Đức Phật và chuyển lời nhắn từ Annathapindika và các đệ tử tại gia
khác cầu xin Ngài quay trở lại. Đúng lúc đó, Đức Phật đã trở về
tịnh xá
Jetavana ở Savatthi. Các Tỳ-kheo
đã đi theo Ngài đến đó, quỳ xuống dưới chân Ngài và nhận lỗi của mình. Đức Phật
đã khiển trách họ vì đã không vâng lời Ngài. Ngài bảo họ hãy nhớ rằng một ngày
nào đó tất cả họ đều phải chết và do đó, họ phải ngừng cãi vã và không được hành
động như thể họ sẽ không bao giờ chết. Sau đó, Đức Phật đã nói bằng bài kệ 6
trong
kinh
Pháp
cú
như sau:
Bài kệ 6: Những người chưa có trí tuệ không nhận ra rằng, "Chúng ta trên thế
gian này đều phải chết" (và không nhận ra điều đó, họ tiếp tục tranh cãi). Bậc
trí tuệ nhận ra điều đó và do đó, những cuộc tranh cãi của họ chấm dứt.
Khi bài
kệ
số 6 của
kinh
Pháp
cú
đọc xong, tất cả các vị sư đều chứng được
Sơ
quả.
Điều hay của
câu
chuyện này là, tất cả các vị sư (cũng như tất cả mọi người trên cõi đời này) đều
đã từng có lúc học, nghe, biết và hiểu rằng, bất kỳ ai cũng phải chết. Nhưng khi
Đức Phật đọc bài kệ này xong, 500 vị sư
đó liền chứng
Sơ
quả. Đây là pháp
niệm
tử,
tức là
niệm
cái
chết.
Không có nghĩa là ngày mai chết hay tuần sau chết, cũng không phải sang năm
chết. Khi họ chứng quả
Thánh
như thế, nghĩa là có sự chuyển đổi sâu sắc ở thân và tâm, nghĩa là họ đã thoáng
thấy
cái
chết
ngay nơi thân tâm họ lúc đó. Đó cũng là cái chết của vô lượng nghiệp lực quá
khứ. Chúng ta cũng có thể tập được: bất kỳ lúc nào nhớ tới, hãy nghĩ rằng thân
tâm mình đang liên tục chết đi trên dòng sông vô thường. Lúc đó, bạn sẽ thấy
rằng tất cả tranh cãi vô ích khi bạn đang chết như thế. Bởi vì, người chết thì
không mở miệng được và cũng không bận tâm chuyện tranh cãi gì nữa.
Một số nơi khác trong
kinh
Phật cũng ghi lời dạy cần tránh tranh cãi. Kinh DN 30, một kinh kể về
đức
tướng của Đức Phật và về thiện nghiệp của các tiền thân của
Ngài,
khi còn là một vị Bồ-tát.
Kinh DN 30 khá dài, có một đoạn nói về sự hoan hỷ trong hòa hợp. Bản dịch
của Thầy Minh Châu trích như sau:
“Này các Tỷ-kheo, Như Lai trong bất cứ đời trước nào… trong kiếp làm
Người... Ngài sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ đã hòa hợp,
hoan hỷ trong hòa hợp, nói lời đưa đến hòa hợp. Do tác động, chất chứa, tích tụ,
tăng thịnh của nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh
lên cõi thiện thú,
thiên
giới, cõi đời này…”.
Thực tế trong đời thường của chúng ta, giữa những trận mưa thông tin của
Internet, không chắc gì chúng ta có thể làm dịu các cuộc tranh cãi. Nhưng ít
nhất, chúng ta hẳn là cũng có thể bắt chước Đức Phật để bước lui vào góc rừng
một thời gian.
Cũng có thể dùng các phương tiện khác nhau của các bộ phái dị biệt để tự mình an
tâm mình. Đó cũng là một cách nhìn của truyền thống Phật giáo Việt Nam. Quan
điểm này từng
được
tổng hợp trong sách Nhị
khóa
hiệp
giải.
Dĩ nhiên, mỗi người sẽ ứng dụng khác nhau. Cũng như trong một bữa tiệc, món ăn
trên bàn thì rất nhiều, nhưng mỗi người sẽ chỉ tự chọn những gì thích hợp với
mình để thọ dụng. Xa xưa hơn nữa, có lẽ
ngài
Huyền Trang cũng chủ trương tùy nghi lựa chọn, khi ghi lại bản Bát-nhã
Tâm
kinh
đã đưa thêm câu thần chú “Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ
đề tát bà ha” vào, cho dù quý tôn túc diễn nghĩa rằng câu thần chú này có
nghĩa là “Đã đi qua rồi, đã qua bờ bên kia, đã qua bờ bên kia rồi, hãy an vui”.
Trong bài viết nhan đề “Chân
tâm
và
vọng
tâm”
trên mạng Thư
viện
Hoa Sen, Tỳ-kheo
Thích Thắng Giải viết: “Khi chúng ta đã thực tập chánh niệm, chánh định và
chánh tuệ (hay chánh kiến) thuần thục thì không nên dừng lại ở thành tựu ấy. Bởi
vì chánh niệm, chánh định và chánh tuệ (hay chánh kiến) này là hữu lậu
-
hữu vi thì ngay lúc này chúng ta hãy buông nhẹ chánh niệm và chánh định đang trụ
nơi hơi thở, câu niệm Phật hoặc câu trì chú để trực tiếp nhận biết (trí) sự tập
khởi của năm uẩn là sắc, cảm thọ, tri giác (tưởng), tâm hành (thiện và bất
thiện) và nhận thức
-
bản chất của chúng là vô thường, khổ và vô ngã. Đó là chánh tuệ hay chánh kiến
vô lậu
-
vô vi. Đây đích thực là
Tam
pháp ấn mà ba đời chư Phật đã trao truyền”.
(ngưng trích)
Trong đoạn văn trên, chúng ta nhận thấy có đủ các bản sắc của nhiều bộ phái. Đó
là niệm Phật (hiểu là Tịnh
độ),
trì chú (hiểu là Mật
tông),
thiền
định và
thiền
quán (hơi thở, nhận ra sự tập khởi của năm uẩn, nhận ra tâm hành, nhận ra ba
pháp ấn vô thường, khổ và vô ngã).
Như thế, chúng ta có thể hình dung ra một người đang té sông, quơ tay gặp bất kỳ
bè tre nào, bè gỗ nào, bè lá nào đều có thể tiện dụng một cách không phân biệt.
Trong đoạn văn trên, có một chi tiết cho thấy căn cước của Thiền
tông
Việt Nam: “...trực tiếp nhận biết (trí) sự tập khởi của năm uẩn là sắc, cảm
thọ, tri giác (tưởng), tâm hành (thiện và bất thiện) và nhận thức”.
Tại sao phải trực tiếp nhận biết? Bởi vì phải không dựa vào lời, phải không dựa
vào lý luận. Chư Tổ Việt Nam thường nói rằng: nghĩ ngợi là xa rồi. Khi bạn nhìn
lên đám mây trôi, bạn trực tiếp nhận biết là đã xa lìa cả quá khứ (hình mây đã
trôi), xa lìa tương lai (hình mây chưa tới), xa lìa hiện tại (vì tức khắc nó đã
là hình mây quá khứ). Tương tự, khi bạn trực tiếp nhận biết khi nghe tiếng chim
kêu, là bạn đã xa lìa âm thanh của quá khứ, xa lìa âm thanh của tương lai chưa
tới và không chắc sẽ tới, xa lìa âm thanh hiện tại vì tức khắc nó đã là quá khứ.
Trong cái “trực tiếp nhận biết” không hề có tham, sân, si khởi dậy, vì tất cả
tham sân si là sản phẩm của quá khứ, của so đo, của níu kéo, của ưa hay ghét,
của muốn hay không muốn...
Trong sách Định
nghiệp
trong
Phật
giáo,
Hòa
thượng
Thích Thiện Siêu viết trong
chương
15
“Thiền
sư
Liễu Quán,
chùa
Thiền Tôn
-
Huế” về ngài Liễu Quán
như sau:
“Năm Nhâm ngọ (1702) ngài [Liễu Quán] đến Long Sơn đầu sư với Tử Dung Hòa
thượng (người sáng lập Ấn Tôn Từ Đàm hiện nay), một vị Hòa thượng có tiếng thông
thái khéo dạy người niệm Phật tham Thiền của thời này. Trước khi chấp nhận ngài
làm học trò, Hòa thượng Tử Dung đã thử nhiều lần và bắt ngài giải thích câu sau
đây:
‘Muôn
pháp quy về một, một về đâu?’.
Ngài đã tìm kiếm 8, 9 năm không ra câu giải đáp và đã thất vọng.
Một hôm,
nhân đọc
Truyền
đăng
lục,
ngài gặp câu:
‘Chỉ
vật truyền tâm, nhân bất hội xứ’
(Chỉ vật truyền tâm, chỗ mà người ngoại cuộc không hiểu được), bỗng nhiên ngài
thấy đã tìm ra câu giải đáp mà thầy mình đã đặt ra, nhưng vì đường sá xa cách,
không thể đến trình chỗ ngộ với thầy ngay được. Năm Mậu
Tý
(1708),
ngài đến Long Sơn (Huế) để đệ trình kết quả với câu:
‘Chỉ
vật truyền tâm, nhân bất hội xứ’.
Hòa thượng Tử Dung lại dạy câu:
‘Đứng
ở mé bờ cao vút buông tay, tự mình chịu lấy, chết rồi sống lại, bấy giờ không ai
có thể dối người’
(Huyền nhai tán thủ, tự khẳng thừa đương, tuyệt hậu tái tô, khi quân bất đắc).
Ngài vỗ tay cười lớn tiếng. Hòa thượng nói:
‘Không
phải vậy đâu’.
Ngài liền đọc:
‘Xứng
chùy nguyên thị thiết’.
(Cái dùi nguyên là sắt). Hòa thượng đáp:
‘Cũng
không phải vậy đâu’.
Hôm sau Hòa thượng lại tiếp tục thử ngài bằng câu:
‘Công
án ngày qua chưa giải đáp xong, hãy nói lại xem?’.
Ngài liền đọc hai câu:
‘Sớm
biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi’.
Hòa thượng tán thán”.
(ngưng trích)
Nơi đây, chúng ta chỉ ghi chú một phần thôi. Điều muốn nhấn mạnh rằng, tuy là
Thiền
tông
(bất lập văn tự, không dựng lập, dựa vào chữ viết, lời nói) nhưng đoạn văn trên
cho thấy ngài Tử Dung dạy cả niệm Phật, tham
thiền.
Niệm Phật
ở
đây có lẽ là Tịnh
độ.
Tham
thiền
ở
đây hiển nhiên là
thiền
công
án.
Nghĩa là, tất cả phương tiện đều là bè khả dụng, dù là bè gỗ, bè tre, bè lá.
Một điểm lý thú là, suốt 8 hay 9 năm chỉ chú tâm vào một câu hỏi, “Muôn pháp quy
về một, một về đâu?”.
Câu này nằm sẵn trong kinh điển rồi, và Đức Phật đã nói trong
nhiều kinh. Muôn pháp quy về một tâm. Kinh Pháp
cú
ngay mấy bài kệ đầu đã nói thế. Còn nói một sẽ về đâu, mà nói là về đâu cũng
sai, vì thực tướng các pháp là vắng lặng, không gọi là
có,
và không gọi là
không.
Khi nói chết rồi sống lại, chỉ có nghĩa là buông hết thân tâm, thấy tất cả ngũ
uẩn (sắc thọ tưởng hành thức) đều là
không,
là rỗng rang, là vô tự tánh.
Khi nói “chỉ vật truyền tâm” chỉ có nghĩa là, mượn vật để chỉ ra
tánh
biết.
Như trường hợp, có vị
Tăng
hỏi Động Sơn: “Phật là gì?” Động Sơn nói: “Ba cân gai trên vách”.
Chỉ có nghĩa là, cái
biết
nhận ra ba cân gai đang treo trên vách.
Có khi vị
thầy
nói rõ ràng hơn, khi chỉ vật truyền tâm. Đó là khi ngài Nam Tuyền thấy Đặng Ẩn
Phong tới, liền chỉ vào tịnh bình mà nói: “Tịnh bình là cảnh, ông không nên
dính vào cảnh”. Nghĩa là, không nên dính vào cái được thấy, được nghe, được
ngửi, được nếm, được cảm thọ chạm xúc, được tư lường.
Thiền sư Trần Thái Tông có sách Công phu Khóa hư cử niêm tụng, sử dụng
công án để dạy học trò. Bản dịch của Thầy Nhất Hạnh ghi công án thứ năm là,
trích:
“Cử: Thế Tôn vừa bước lên pháp tọa, Văn Thù đánh khánh bạch:
‘Hãy
lắng nghe pháp của Pháp
vương:
Pháp của Pháp
vương
là như thế’.
Niêm:
Gảy
khúc Dương Xuân trên chỗ không có tơ đồng, ngàn đời sau âm thanh mãi còn bất
tuyệt”.
(ngưng trích)
Nghĩa là, Văn Thù chỉ vào tiếng khánh (chỉ vật) và bảo hãy lắng nghe (truyền
tâm) để nhận ra
tánh
biết,
nơi vốn thực xa lìa tất cả tham sân si, xa lìa cả quá khứ, vị lai, hiện tại. Khi
nói “chỗ không có tơ đồng” chỉ muốn nói là đàn không dây, vì có dây hay không
dây cũng không dính gì tới cái nhận biết trực tiếp này của nghe. Và nơi đó, âm
thanh “mãi còn bất tuyệt” vì
cái
biết
không biến mất sau khi âm thanh biến mất. Thiền
tông
là tu nơi như thế.
Và trong cái
biết
của tâm xa lìa tham sân si này vốn không hề có bộ phái,
gọi
là Thiền
tông
cũng là tạm gọi thôi,
thì
lấy gì mà tranh cãi.
THAM KHẢO:
- Kinh Sn 4.13: Anh dịch:
https://suttacentral.net/snp4.13/en/mills
Việt dịch:
https://thuvienhoasen.org/a30606/sn-4-13-mahaviyuha-sutta-dai-kinh-ve-tranh-cai
- Kinh Pháp
cú,
bài
kệ
06:
https://www.tipitaka.net/tipitaka/dhp/verseload.php?verse=006
- Kinh DN 30, Thầy Minh Châu dịch:
https://suttacentral.net/dn30/vi/minh_chau
- Thích Thắng Giải. Chân
tâm
và
vọng
tâm:
https://thuvienhoasen.org/a33923/chan-tam-va-vong-tam
- Thích Thiện Siêu. Định
nghiệp
trong Phật giáo.
Chương 15: Thiền sư Liễu Quán:
https://thuvienhoasen.org/a6431/15-thien-su-lieu-quan-chua-thien-ton-hue
- Thích Nhất Hạnh. Bốn
mươi
ba
công
án
của
Trần Thái Tông:
https://thuvienhoasen.org/a7554/bon-muoi-ba-cong-an-cua-tran-thai-tong
.