Vài suy nghĩ về vấn đề hoằng pháp trong thời đại hiện nay

VÀI SUY NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ HOẰNG PHÁ

VÀI SUY NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ HOẰNG PHÁP

TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY

TT. Thích Tâm Hạnh - Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã

TÓM TẮT

Nghĩa chính của khế kinh là khế lý và khế cơ. Việc giáo hóa lợi sinh cũng phải như thế. Tức là phải đúng chân lý Phật Tổ chỉ dạy và phù hợp với bối cảnh, con người hiện thời.

Trước một thời đại không ngừng phát triển, nhân loại ngày càng văn minh, việc hoằng pháp lợi sinh cũng phải thích ứng kịp thời mới có thể mang lại lợi ích cho nhân loại. Thích ứng để giúp con người hướng thiện, hướng thượng chứ không phải chạy theo sự đổi mới của xã hội, đắm nhiễm ngũ dục lục trần, hoặc đi ngược lại với giá trị đạo đức và sự giác ngộ giải thoát.

Hiện nay, nhịp sống nhanh vội, con người không có đủ thời gian và không gian để kịp tĩnh tâm soi lại. Đồng thời, sự cám dỗ của ngũ dục lại ngày một tinh vi, hấp dẫn và lôi cuốn mạnh mẽ. Đây là thách thức lớn cho việc hoằng hóa trong thời đương đại.

Do vậy, mỗi nhà hoằng pháp phải khéo thành toàn bản thân từ việc học, tu và rèn luyện, mới đủ trí tuệ, định lực và đức hạnh để hoàn thành bổn phận, trách nhiệm của mình.

Từ khóa: Hoằng truyền Chánh pháp, sứ giả Như Lai, giảng sư, thân giáo, khẩu giáo.

DẪN NHẬP

Lý tưởng và bổn phận của hành giả tu hành là thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh. Đây vừa là niềm vui, vừa là sứ mệnh cao cả của người xuất gia đệ tử Phật.

Hoằng pháp là hoằng truyền Chánh pháp của Phật Tổ, giúp cho nhân sinh khai tuệ hết mê, bớt khổ, an vui. Việc truyền đạt này phải đảm bảo đầy đủ hai yếu tố: trên thì khế với diệu chỉ Phật Tổ đã khai thị, dưới phải phù hợp với bối cảnh xã hội và căn cơ người học đương thời.

Trước một thời đại văn minh như hiện nay, chí ít chúng ta cần có cách hướng dẫn phù hợp với tư duy ngày càng tiến bộ của con người. Do đó, chúng tôi thầm nghĩ, việc hoằng pháp trong thời kỳ đương đại, cần quan tâm đến một vài vấn đề thiết thực.

NỘI DUNG

1. Thân giáo - khẩu giáo

1.1.       Nhận định chung

Truyền đạt Chánh pháp để người học nhân đó được khai mở tâm trí, chuyển hóa nội tâm, làm thay đổi cuộc sống bản thân theo hướng tích cực, cao hơn là đạt đến giác ngộ, giải thoát; tức là giáo hóa.

Giáo hóa trong nhà Phật có hai: thân giáo và khẩu giáo. Có khi không phải do lời nói, mà qua nghi dung bình dị, thoát tục của quý tôn đức, khiến cho người khác thoáng thấy, bỗng dưng thân tâm ngưng đọng, lạc an. Hoặc có người vừa trông thấy liền sinh lòng tịnh tín, hướng về học pháp, tu tập.

Tuy nhiên, khi tu tập, muốn không bị sai lạc để đưa đến kết quả như nguyện thì cần phải thông hiểu Chánh pháp. Vì vậy, quý tôn đức phải giảng dạy, hướng dẫn cho người học. Thế thì, hai giá trị trên phải hòa làm một, cùng có trong một sứ giả hoằng truyền Chánh pháp, tức ngôn hạnh tương ưng. Khẩu tuyên thuyết Chánh pháp, nhưng thân hành cũng phải đúng như pháp thì mới cảm kích được người nghe, khiến cho thân tâm họ được điều phục, mang lại lợi ích thiết thực.

1.2.       Tri hành hợp nhất, nói và làm không khác

Đạo Phật dạy người học “ngôn hạnh tương ưng” hoặc “tri hành hợp nhất”, đúng nghĩa một hành giả tu Phật; tiến đến “hạnh giải tương ưng”, nối gót chư vị Tổ đức.

Hành giả là người nói điều mình sống chứ không chỉ nói điều mình hiểu; có như thế, mới mang lại lợi ích cho cả người nói lẫn người nghe. Muốn vậy, một vị giảng sư cần trau dồi tối thiểu ba việc: học, tu và rèn luyện để thành toàn cho bản thân, giúp việc hoằng pháp đúng với tinh thần tự lợi, lợi tha, mang lại kết quả mỹ mãn.

- Học

Đây là yếu tố không thể thiếu của một vị giảng sư nói riêng và hành giả tu Phật nói chung. Muốn đi, trước tiên phải mở mắt. Muốn tu, trước hết phải thông hiểu Chánh pháp Phật dạy. Quan trọng hơn, muốn dẫn đường cho người khác, chúng ta phải là người có đôi mắt sáng, biết rõ lối đi mới không rơi hầm, sụp hố.

Vậy nên, một vị giảng sư phải tinh thông giáo lý, tự mình thể nghiệm lời Phật dạy mới khả dĩ hướng dẫn cho người khác thông hiểu Chánh pháp, ứng dụng tu tập.

- Tu

Tụng thuộc Tam tạng giáo điển chưa hẳn đã hiểu hết; dù hiểu được nhưng chưa chắc đã suốt tột diệu chỉ Phật Tổ khai thị. Nếu không nỗ lực tu tập để chạm đến được cốt tủy ấy thì việc hoằng hóa chỉ là giảng nói bên ngoài; đối với định tuệ và sự giác ngộ vẫn chưa có phần tương ưng. Nếu thế, bản thân lấy gì để thoát khổ? Làm sao cứu khổ cho người? Muốn đạt được giá trị thiết thực này, không cách nào khác hơn là phải tự mình hạ thủ công phu.

Cố Hòa thượng thượng Thiện hạ Hoa khi tổ chức giảng sư đoàn đi lưu giảng, ngài sắp xếp luân phiên để vừa giảng, vừa có thời gian tu học. Phái đoàn mùa đông lưu giảng thì đoàn giảng sư mùa hạ ngồi lại tu học và ngược lại[1]. Nhờ vậy, chư tôn đức vừa am hiểu sâu rộng Chánh pháp, vừa không mất công phu, đạo lực tăng trưởng. Kết quả là quý ngài làm nên được Phật sự to lớn trong một bối cảnh khó khăn hơn rất nhiều so với hiện nay.

Hòa thượng Tông chủ Thiền phái Trúc Lâm hiện nay nói: “Có tu học, chúng ta mới khỏi lỗi ‘lý thuyết suông’. Có tu có học chúng ta mới có khả năng dẹp sạch phiền não của mình và dạy người dẹp trừ phiền não. Được như vậy mới hợp với đạo giác ngộ giải thoát và khơi mở sự thật để cứu khổ chúng sinh”[2]. Một hành giả thực học chuyên tu sẽ biết hướng tiến và có kinh nghiệm tự thân để hướng dẫn người khác một cách hiệu quả. Đồng thời, đức hạnh của vị này toát lên đạo phong thoát tục, khiến người nghe thấy, bất ngờ được cảm hóa tự lúc nào không rõ.

Trong kinh, chúng ta thường bắt gặp cụm từ “Đa văn Thánh đệ tử”. Tức đệ tử Phật phải là một người học nhiều, hiểu rộng (đa văn); đồng thời, có công phu chứng thực diệu lý Phật Tổ nơi chính mình (Thánh). Muốn đa văn thì phải học thông; muốn trở thành bậc Thánh thì phải hạ thủ công phu tu tập. Nếu khéo dụng tâm thì ngay khi giáo hóa cũng là lúc tu. Hoằng pháp và tu không khác, không phải hai việc. Được vậy, chính bản thân đang tiến đạo mà người học cũng được lợi lạc vô cùng.

- Rèn luyện

Bên cạnh việc học và tu, một vị giảng sư cần có điều kiện để rèn luyện thân tâm, sẽ giúp ngăn ngừa việc phát sinh các tình tệ. Cơ bản ở đây là lao động để rèn luyện bản thân, vượt qua hai cảnh thuận và nghịch. Khi lao động, hành giả vừa làm được những việc cần làm, vừa rèn luyện sức khỏe, nhưng hơn hết là đối diện và vượt qua được nóng lạnh, khó nhọc, những thử thách trái ý nghịch lòng trong cuộc sống. Không có khái niệm thụ hưởng, không cho bản thân thích hoặc không thích bất cứ gì. Nếu biết cách rèn luyện như thế, tự thân sẽ vượt qua được những thử thách, giới hạn, yếu đuối và hèn nhát của phàm tình. Nhờ vậy, chúng ta sẽ nhận ra nhiều điều rất thật. Khi đời sống luôn được trau dồi rèn luyện, hành giả sẽ chứng nghiệm được Phật đạo ngay trong đời sống hiện thực. Do đó, khi tuyên thuyết Chánh pháp, từ phong thái, lời lẽ, cho đến nghĩa lý sẽ gần gũi và chắc thật, khiến người nghe dễ hiểu, cảm ngộ và phát khởi tâm Bồ-đề.

Hiện nay, xã hội ngày càng văn minh, phát triển, tri thức được nâng cao, con người dễ dàng nhìn ra mọi thứ. Đồng thời, họ muốn thấy nhiều hơn là nghe. Nếu một vị giảng sư khuyết một trong ba yếu tố trên, việc giảng dạy sẽ thiếu sức thuyết phục. Hơn nữa, nếu không tu học và rèn luyện như thế, sẽ không tiến đạo, do vậy không có diệu dụng phát minh mới; tâm trí bị cùn nhụt thì những gì nói ra chỉ là lặp lại những điều đã cũ, bị bão hòa, khiến người học không phát tâm hoan hỷ khi nghe pháp.

Tóm lại, một nhà hoằng pháp cần đủ hai việc: thành toàn bản thân và thích ứng bối cảnh, mới đủ tư lương sẵn sàng cho việc hoằng hóa. Thành toàn tự thân tựu trung nằm trong ba phạm trù: học để suốt thông, tu mới chứng nghiệm và rèn luyện, sẽ tự làm thành cho mình. Được vậy, sẽ thành tựu cả thân giáo và khẩu giáo, cả hai trong nhau, không tách biệt. Như vậy, thành toàn bản thân là cơ sở để giáo hóa một cách trọn vẹn.

2. Định hình việc giáo hóa và hoằng pháp

2.1.  Định hình hướng tiến

Mỗi ngành giáo dục đều có một tiêu chí đào tạo, đây là tính khoa học. Phật đạo thì rõ ràng, logic, đầy trí tuệ. Khi giáo hóa, tức đã xác định được đích đến, có tầm nhìn để có phương cách hướng dẫn; có phương pháp hành trì cụ thể, mới giúp học nhân tu tiến được.

- Đích đến - Tôn chỉ

Đích đến của người tu Phật cũng chính là tôn chỉ của đạo Phật là giác ngộ giải thoát (dứt khổ), cứu độ chúng sinh. Không ai trong chúng ta chấp nhận đau khổ; muốn thoát khổ, tức muốn tu. Thế nhưng, không thể bằng cách chịu đựng sự thật là phải có một năng lực đủ lớn cho chúng ta giải thoát mọi ràng buộc, khổ đau. Chất liệu đặc biệt ấy chính là diệu lực từ sự giác ngộ bản tâm. Khi nhận lại bản tâm chính mình, tâm ấy sáng ngời và không động; đây là cội nguồn giác ngộ. Từ cội nguồn này, cho hành giả thấy biết giác ngộ[3]. Cụ thể, từ trí tuệ bất động, hành giả thấy biết các pháp đúng như thật mà không phân biệt; không phân biệt, nhưng vẫn thấy biết rõ ràng, không động.

Có trí tuệ để suốt biết, sẽ dứt mê lầm; có định lực để tự chủ, không bị vọng duyên câu thúc, sai sử. Sức mạnh này sẽ cho hành giả tự vượt thoát chứ không phải nhờ vào một sự cố gắng nào trong ấy. Lúc này, tâm tự tích cực, từ bi thương cho cái mê của chúng sinh mà phát tâm muốn độ thoát.

- Yếu chỉ - Phương châm

Đây là diệu thuật trong khi hành trì, làm sao khế với tâm tính để đạt đến tôn chỉ đã xác định, tức được giác ngộ giải thoát. Yếu tố này quyết định đến việc dụng công đúng đắn, không sai lệch, có kết quả. Tâm tính vốn vô tướng thì dụng công cũng phải khéo, không tạo nên dấu vết của phương pháp, của dụng công, hoặc dấu vết của tâm thì mới khế hợp, mới có lúc tâm này bừng sáng. Đây chính là yếu chỉ, phương châm.

Đối với học nhân sơ cơ, chưa thể chỉ thẳng thì phải dùng phương tiện hướng dẫn dần dần. Bất luận thời gian bao lâu, điều trọng yếu là phải hành trì thế nào để cuối cùng phải đạt đến tôn chỉ rốt ráo đã được xác định. Có được tầm nhìn và hướng đi chuyên nghiệp như vậy, việc hướng dẫn sẽ nhất quán, rõ ràng và hiệu quả thực thụ đối với người học.

- Phương pháp hành trì

Phương pháp hành trì phải dựa trên chân lý Phật Tổ đã dạy, đồng thời phù hợp với bối cảnh và căn cơ hiện thời. Thêm nữa, phải xác định mục đích là đạt đến tôn chỉ giác ngộ giải thoát, chứ không phải tùy thuận để đưa đến tập nhiễm trần tục.

2.2.       Tránh các sai lệch

Căn bản đào tạo chỉ nằm trong hai vấn đề chính: phải đúng và không sai. Đặc biệt là hướng dẫn hành giả tu Phật, cần phải cẩn trọng để tránh các sai lầm, để hiểu đúng, thực hành đúng, mới đưa đến kết quả như nguyện.

Muốn vậy, như trên đã nêu, một vị sứ giả Như Lai phải học thông Tam tạng Thánh giáo; dụng công tu hành suốt thông diệu chỉ Phật Tổ; khéo tùy thuận bối cảnh và phù hợp từng căn cơ. Đây là không rời đệ nhất nghĩa đế mà khéo tùy thuận tục đế, nhằm đưa người học trở lại chân đế. Nói cách khác, vị thầy không rời tự tánh giác sáng, khéo tùy thuận phong tục tập quán, những quy ước đạo đức của thế gian, để giáo hóa học nhân đạt đến giác ngộ, hết khổ, an vui.

Một cách cụ thể, phải đúng, tức đúng với Chánh pháp, mang lại an lạc, giải thoát cho mọi người. Không sai, tránh các cực đoan, sai lệch cơ bản tối thiểu dưới đây.

Không nói những điều khiến người nghe động tâm rơi vào bi lụy, nhiễm trước dục trần. Không thông qua bản ngã, hoặc nói theo chủ trương ngã kiến. Không nói pháp nhằm có lợi cho bản thân. Phải bằng trí tuệ, lòng từ bi và sự an nhẫn để tránh những lỗi lầm khi giảng nói. Cụ thể, tránh nói thiên hướng về một bên, không đúng tinh thần Trung đạo, trái với yếu chỉ Phật Tổ đã dạy. Bởi như thế, có khi nghe qua như là đúng Chánh pháp, nhưng kết quả mang lại nỗi đau, hoặc đụng chạm người khác thì lại là không phải.

Tóm lại, hễ rơi vào tướng thì trái với “thực tướng vô tướng”. Còn trong loạn động sinh diệt thì khác tự tính vô sinh. Nêu cao lợi dưỡng, đó là pháp thế gian, chưa khỏi dính mắc. Kẹt vào hai bên thì không sáng diệu đạo. Chỉ theo quan điểm thì không phải cái thấy chu viên. Phân biệt kia đây, sẽ không đạt được pháp vô tránh. Một bề chấp chỗ lặng yên thì không thể hòa quang đồng trần, không thể hoằng truyền đạo pháp rộng khắp… Tất cả như thế đều trái với sự giác ngộ.

Chỉ là quên bẳng thân tâm, tánh tự sáng ngời; nhìn các pháp đúng như thật và không động, thương cho cái mê của chúng sinh, dung được tất cả sai biệt của phàm tình, phát tâm muốn độ thoát thì việc làm sau đó tự khế hợp Phật đạo.

Như vậy, chỉ khéo tránh các sai lệch, không rơi vào tà kiến thì sẽ đúng chân lý, tức đúng Chánh pháp, đúng với tinh thần sứ giả Như Lai hoằng truyền Chánh pháp lợi lạc quần sinh.

3. Tính khoa học

Tính khoa học tức là bài giảng phải khúc chiết, rành mạch, rõ ràng, có tính thuyết phục; không mơ hồ, nửa vời, thiếu y cứ. Thời nào cũng cần như vậy, nhưng trong thời đại văn minh phát triển như hiện nay, con người yêu cầu cao hơn. Do vậy, giảng sư phải chú trọng điểm này, không thể chủ quan, ỷ lại và đưa vấn đề Phật pháp một cách hời hợt, lan man, thiếu thuyết phục.

3.1.       Điều cần thiết tối thiểu trong một bài nói chuyện

Căn bản của bài nói chuyện phải nêu được vấn đề cần nói. Trình bày vấn đề mình muốn truyền tải bằng nhiều phương cách: chứng minh, giải thích, ví dụ minh họa, đúc kết để nêu bật được phần trọng tâm… Một điều quan trọng nữa, muốn bài giảng có giá trị, phải có phương pháp thực hiện khả quan (bằng cách nào) để đưa đến kết quả. Đây là thực tế. Nhờ đó, người nghe phát khởi niềm tin, biết cách vận dụng vào đời sống thực tiễn, mang lại lợi lạc cho bản thân, gia đình và xã hội. Đây là hiệu quả.

Bên cạnh đó, yếu tố biết tôn trọng thính chúng sẽ giúp chúng ta chuẩn bị bài chu đáo. Hằng ngày để tâm nghiên tầm, kê cứu, kết hợp chuyên tâm hành trì tu tập để tinh thông nghĩa lý và thấm nhuần diệu chỉ Phật Tổ. Lên pháp tòa thì truyền đạt một cách nghiêm túc, đầy trách nhiệm; khiến người nghe cảm được tâm đạo của mình, phát khởi tín tâm, mang lại lợi ích cho người học.

Xuyên suốt tất cả các điều kiện trên, tấm lòng nhiệt huyết, hoan hỷ và tích cực của người truyền trao sẽ giúp thính chúng nhận ra, tôn trọng và tin tưởng đón nhận. Đây là sự sách tấn, khích lệ trong suốt bài pháp. Vô hình trung, chúng ta đã tự hoàn thiện hai phương diện: thân giáo và khẩu giáo.

3.2.       Lưu ý trong trình bày, truyền đạt

Sự sang chấn, gây ấn tượng nơi một người sẽ trở thành tính cách. Ban sơ, trong số đông nhận thức còn thấp thì chỉ là bản năng; nhưng trong một cộng đồng được nâng cao hơn thì gọi là văn hóa. Phát triển qua nhiều thế hệ sẽ biến thành văn minh. Có những nền văn hóa do khéo truyền đạt cho nên đã tạo được dấu ấn mạnh đi vào lòng người, khiến ai nấy đều thấy đó là tính cách của mình, là văn hóa của cộng đồng mình mà không hề biết đó chỉ là những điều bản thân nhờ được học, được huân tập mà có. Mới thấy, cách truyền đạt đóng một vai trò quan trọng.

Nếu mang tính hàn lâm thi cử quá nhiều, thông thường người học sẽ thấy thiếu đi tính thiết thực, sinh nhàm chán, dễ bị rơi vào tình trạng đối phó, khó nhớ; kết quả mang lại, phần đông chỉ dừng trên việc học hiểu con chữ, sự thấm nhuần sẽ có giới hạn. Nhưng, nếu vấn đề được chia nhỏ, khúc chiết, gãy gọn và khá gần gũi, thực tế thì sẽ thuyết phục được người học; giúp họ dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và ghi nhớ.

“Sự thật là giá trị vượt thời-không. Do đó, cố gắng trình bày càng thật càng tốt. Biết đưa chân lý Phật Tổ chỉ dạy vào đời sống thực tiễn, ứng dụng được sẽ mang lại lợi ích to lớn. Diễn đạt vấn đề một cách bình dị, gần gũi, thiết thực, thính chúng sẽ tự thấy ra giá trị cần thiết cho bản thân. Được vậy, Phật pháp sẽ đi vào lòng người, khiến ai nghe cũng được thấm nhuần, đều có lợi ích nhất định.

3.3.       Xây dựng một mệnh đề mang tính thuyết phục

Biết cách hướng dẫn để người nghe tự nhận ra chân lý Phật Tổ dạy là giá trị thực nơi chính họ. Chẳng phải điều gì đó cao vi bên ngoài, không phải bị khiên cưỡng hay do ai khuyên bảo, mà người nghe bất ngờ sáng ra điều đó nơi chính mình. Bản thân tự cảm nhận, ngộ ra, chứ không phải nhận ra một triết lý do người khác truyền thụ.

Khi hướng dẫn, nếu đưa ra trước mệnh đề như là đã sẵn, sẽ khiến thính giả chủ quan, tự nghĩ biết rồi và không tập trung nữa. Nếu đưa ra quá nhiều dữ liệu, sẽ khiến người nghe thấy mọi thứ sẵn sàng, đầu óc không làm việc, sinh ra tính ỷ lại, lười tiếp thu; có vị sẽ thấy mình bị áp đặt, khiến không mấy thích thú. Hơn hết, phải biết xây dựng mệnh đề một cách trung thực, khách quan; tối thiểu cần đủ quy trình:

Lý thuyết + Thực tiễn à Cho ra kết quả

Từ lý thuyết là chân lý Phật Tổ đã dạy, cộng với tình huống, bối cảnh thực tiễn, để đưa ra một mệnh đề có tính khả thi, mang lại kết quả tích cực. Nhờ có lý thuyết là chân lý Phật Tổ, cho nên không sợ kém khuyết; vì có thực tiễn nên không bị xa vời, viễn vông. Từ đó, đưa đến kết quả chu viên, thực tế, có tính thuyết phục cao.

Cần lưu tâm biện pháp làm thành hiểu biết cho bản thân, cũng như cách thức truyền đạt cho người học. Cụ thể, phải biết tư duy tổng hợp, học hỏi kiến thức Phật pháp và thế pháp rồi đúc kết lại. Sau đó, phân tích dữ liệu; tiếp theo là tự vấn, hỏi ngược lại để tìm lỗ hổng và tự mình giải quyết những điều còn thiếu khuyết đó. Hãy đặt nghi vấn một cách đầy trách nhiệm. Tức là tự mình đặt ra các nghi vấn khúc chiết, có tính khoa học để tự tìm cách giải quyết, khiến cho mệnh đề được sáng tỏ, sâu sắc và viên dung, chứ không phải khuyết trước hổng sau, dẫn đến bất nhất, sanh nghi ngờ rồi thối thất. Bằng cách đó, trí tuệ, tư duy và sự hiểu biết sẽ được nâng cao, đầy đủ trọn vẹn theo thời gian.

4. Khéo chỉ ra diệu lý ngay nơi mỗi người

Vị Tăng đến hỏi Thiền sư Chân Không: - Thế nào là diệu đạo?

Sư đáp: - Sau khi giác rồi mới biết[4].

Đối với diệu đạo, chỉ sau khi ngộ rồi mới biết. Nếu chưa thì dù có dùng hết lời để nói trắng ra cũng không thể nào hiểu được. Sự thật là như vậy. Thời xưa hỏi thiền hỏi đạo, chư thiền Tổ bảo “tu đi rồi biết”, học nhân lắng lòng thanh tịnh, quyết chí dụng công, tâm tính bừng ngộ, thông thống hoát toang, rõ ràng tất cả. Nhưng hiện nay, quý vị trẻ không đành như vậy muốn phải biết rồi mới tu”. Do đó, người hướng dẫn cũng cần khéo chỉ bày phải “biết như thế nào” để có thể thầm nhận lại bản tâm giác ngộ nơi chính họ.

Học Phật muốn có giá trị giác ngộ, giải khổ, phải nhận ra cái gì là những điều Phật Tổ muốn chỉ dạy ngay chính bản thân mình hiện nay. Luôn đem những hiểu biết về Phật pháp đặt ra như thế vào các tình huống trong đời sống và phải tự tìm câu trả lời cho bản thân, chúng ta sẽ nhận ra được Phật pháp sống động ngay chính nơi mình, sẽ có giá trị thực.

Khi truyền đạt Chánh pháp, tựu trung nằm trong hai phương cách: nói cho hiểu hay chỉ cho thấy?

Điển hình, khi định nghĩa thiền là tĩnh lự, làm lắng các tư tưởng gọi là thiền… Đây là nói cho hiểu. Người học đã nhận ra một lý thuyết như thế được gọi thiền. Nhưng chính lý thuyết trong đầu họ lại là những niệm lự, trái với bản chất của thiền cho nên dù có hiểu thiền, nhưng niệm lự chưa lắng thì bản thân không thể nếm được hương vị thiền thực sự.

Nếu khéo chỉ bày cho hành giả tự thầm nhận, sẽ không đưa mệnh đề ra trước. Chỉ khéo gợi ý: “Khi căng thẳng, tâm trí rối, giải quyết mọi việc không tốt. Lúc lặng an, nhận biết mọi vấn đề một cách dễ dàng, đầy đủ, nhưng bình thường, thoải mái, không tốn hao tâm lực. Cho thấy, khi tâm lóng lặng, trí tuệ sẽ phát huy đúng mức của nó. Và tâm lặng mà sáng, chính là thiền”. Liền khi ấy, người học bất ngờ sc nhận ra tính chất thật của thiền ngay đây và bây giờ, chính ở tự thân họ, họ có thiền, thiền nơi họ chứ không chỉ ở Phật Tổ. Đây là chỉ cho thấy.

Biến những diệu lý sâu mầu trở nên gần gũi, dễ nhận, đó là việc làm khéo của người hướng dẫn. Chúng ta từng nghe nói “Văn tự thiền”[5]. Đúng thực thiền thì phải đạt suốt bản tâm vô tướng, không tất cả tướng, kể cả văn tự. Đã là văn tự thì rơi vào tướng, tức không phải thiền. Tâm thiền thì không tướng, có tướng thì mất thiền, thiền và tướng (văn tự) không thể đồng thời tồn tại, nhưng ở đây lại đề cập “Văn tự thiền”, nghĩa là thế nào?

Tức là, hành giả sống bằng t tánh, lưu xuất đại cơ dụng, dùng lời nói chỉ thẳng bản tâm giác ngộ ngay học nhân. Như thế, người nói không động môi lưỡi, người nghe không rơi vào ý tư hoặc ngôn thuyên thì dù có vô vàn văn tự, nhưng vẫn vô tướng, không trệ ngại gì. Đây là lý do Thiền tông chủ trương bất lập văn tự, nhưng Thiền tạng thì số lượng sách rất nhiều.

Các thiền sư hoặc đánh, hoặc hét, cũng chỉ để chặn đứng thức phân biệt, cho hành giả thẳng đó thể hội tâm thiền. Nếu khéo chỉ bày thì không nhất thiết bao giờ cũng phải đánh hét mà dùng ngôn ngữ vẫn có thể ngăn thức phân biệt, khai thị cho học nhân trực nhận.

Trước một thời đại văn minh, cái gì cũng phải rõ ràng có lý thì mọi người mới đón nhận; văn tự là một trong những công cụ làm tốt việc ấy, không thể thiếu. Do đó, khéo dùng lời nói để khai thị người học thầm nhận lại bản tâm, chính là một trong những điều then chốt mà vấn đề hoằng pháp hiện nay cần phải đặc biệt lưu tâm.

5. Kết luận

Hoằng pháp trong thời hiện đại, xét cho cùng vẫn không ngoài mục tiêu truyền trao Chánh pháp, mở lối giác ngộ cho muôn sinh. Tuy nhiên, để thành tựu được sứ mệnh ấy, người hành đạo cần vận dụng nhuần nhuyễn cả thân giáo lẫn khẩu giáo; cần có sự thông hiểu Phật pháp, sự thể nghiệm trong công phu hành trì và tùy biến trong hoàn cảnh đương thời. Chỉ khi người hoằng pháp thật sự sống với giáo pháp, bằng diệu lực của chân tánh mới đủ khả năng truyền đạt đúng đắn, khế với diệu chỉ Phật Tổ, đưa người học đến chân trời an lạc, giải thoát. Nhờ đó, ánh sáng Phật pháp mới có thể lan tỏa sâu rộng, thắp sáng niềm tin nơi quần chúng trong thời đại đầy biến động như hiện nay.

Để truyền đạt một vấn đề tương đối hoàn chỉnh, khế lý khế cơ, có thể chạm đến tâm thức của thính giả, người thuyết giảng phải có cái nhìn tổng trì. Muốn vậy, việc truyền đạt không chỉ dừng lại ở chỗ dễ nghe, dễ hiểu, dễ cảm thông mà còn phải hướng đến những đạo lý uyên thâm, có sức sống lâu bền. Vậy thì, viết một bài văn, để rồi ngay khi viết nó đã chết; hay biên soạn một vấn đề mà nhiều người nhất thời chưa thể hiểu hết, nhưng một khi nhận ra thì nó sống mãi từ đời này qua kiếp khác? Đây là biết xác định phong cách trước khi muốn truyền đạt một vấn đề. Muốn mang lại kết quả phổ cập thì hãy nói những vấn đề gần gũi, dễ hiểu. Nhưng, để có được đội ngũ nòng cốt, thế hệ kế thừa thì phải đào tạo chuyên sâu. Nếu không để tâm, Phật pháp mai hậu sẽ bị lu mờ, diệt mất.

Tin chắc rằng, những người con Phật, những vị giảng sư hiện tại và mai sau sẽ thành toàn viên mãn trọng trách của một sứ giả Như Lai. Giữ vững đạo phong, tỏ sáng Chánh pháp; kiên tâm bền chí, bi trí tròn đầy để dẫn dắt chúng sinh hướng về con đường giác ngộ giải thoát. Đồng thời cũng là góp phần quan trọng để duy trì mạng mạch Phật pháp dài lâu.

 

v       Tài liệu tham khảo:

-          Nhiều tác giả (1960), Kỷ yếu Đại hội Giáo hội Tăng-già toàn quốc Việt Nam lần thứ 2, ngày 10 và 11 tháng 9 năm 1959, Ban Tổng trị sự Giáo hội Tăng-già toàn quốc ấn hành.

-         HT. Thích Thanh Từ (2018), Thanh Từ toàn tập, tập 35, Thiền sư Việt Nam giảng giải, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

-         HT. Thích Thanh Từ (2022), Tông môn cảnh huấn, tập 1, NXB.Hồng Đức, Hà Nội.

-         HT. Thích Trí Quảng (2023), Gia hạnh Phổ Hiền, Báo Giác Ngộ số 1185.

-         Nhiều tác giả (2024), Cái lõi, Báo Giác Ngộ số 1276.

-         Đức Hồng (Tống), Thạch môn văn tự thiền, Gia Hưng Đại tạng kinh, tập 23, No. B135.

 

 


 

[1] HT. Thích Trí Quảng (2023), Gia hạnh Phổ Hiền, Báo Giác Ngộ số 1185, tr.12. Tham khảo thêm: Nhiều tác giả (1960), Kỷ yếu Đại hội Giáo hội Tăng-già toàn quốc Việt Nam lần thứ 2, ngày 10 và 11 tháng 9 năm 1959, Ban Tổng trị sự Giáo hội Tăng-già toàn quốc ấn hành, tr.16.

[2] HT. Thích Thanh Từ (2022), Tông môn cảnh huấn, tập 1, NXB.Hồng Đức, tr.34.

[3] Nhiều tác giả (2024), Cái lõi, Báo Giác Ngộ số 1276, tr.11.

[4] HT. Thích Thanh Từ (2018), Thanh Từ toàn tập, tập 35, Thiền sư Việt Nam giảng giải, NXB.Tôn Giáo, tr.347.

[5] Đức Hồng (Tống), Thạch môn văn tự thiền, Gia Hưng Đại tạng kinh, tập 23, No. B135.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle