Đức Phật độ sinh

duc phat do sinh

Đức Phật độ sinh

Thích Hạnh Chơn

 

Có thể nói sự ra đời của Thái tử Tất Đạt Đa - người sau này trở thành Đức Phật Thích Ca - là sự ra đời vĩ đại. Bởi sự xuất hiện của Ngài “vì hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư thiên và loài người[1]. Phật giáo về sau thường dùng thuật ngữ “độ sinh”, nghĩa là cứu giúp, cứu vớt chúng sinh, để diễn đạt lại ý trên nhưng được hiểu với nhiều tầng nghĩa khác nhau tạo, nên hình ảnh Đức Phật cũng khác nhau. Bài viết này xin được thảo luận về khái niệm “độ sinh” và Đức Phật đã độ sinh như thế nào. Bài viết sẽ trình bày sơ lược về Đức Phật Thích Ca lịch sử, khái niệm độ sinh và cách thức độ sinh của Đức Phật Thích Ca, và trách nhiệm người xuất gia kế thừa truyền bá Chánh pháp.

Giới thiệu về Đức Phật Thích Ca lịch sử

Trong Phật giáo, Đức Phật Thích Ca lịch sử là vị giáo chủ khai sáng đạo Phật nên bất cứ ai theo đạo Phật đều công nhận và tôn kính Ngài. Ngài là Thái tử Tất Đạt Đa thuộc dòng tộc Sakya, mang họ Cồ Đàm (Gotama). Cha là vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và mẹ là hoàng hậu Maya. Năm 16 tuổi, Ngài tuân theo lời vua cha cưới công chúa Da Du Đà La (Yasodhara) làm vợ và có một người con trai tên La Hầu La (Rahula). Theo Bắc truyền, năm 19 tuổi Ngài xuất gia tìm đạo. Trải qua 5 năm tầm sư, 6 năm tu khổ hạnh, 49 ngày thực hành thiền, Ngài chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức thành đạo hay thành Phật năm 30 tuổi. Theo Nam truyền, năm 29 tuổi Ngài xuất gia tìm đạo. Trải qua 6 năm tu khổ hạnh, 49 ngày thực hành thiền, Ngài chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác năm 35 tuổi.

Ngoài Đức Phật Thích Ca, Phật giáo Nam truyền còn ghi nhận bảy vị Phật bao gồm ba vị thời quá khứ, ba vị thời hiện tại cùng với Phật Thích Ca là bảy vị[2]; ghi nhận 24 vị Phật thời quá khứ đã thọ ký cho tiền thân Đức Phật Thích Ca[3]; ghi nhận 28 vị Phật gồm 27 vị Phật quá khứ và Đức Phật Thích Ca[4]. Phật giáo Bắc truyền ghi nhận có 3.000 vị Phật gồm ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, mỗi thời 1.000 vị Phật[5]; ghi nhận có 11.100 vị Phật trong kinh Vạn Phật[6] từ quá khứ cho đến vị lai. Tuy nhiên, phổ biến chỉ có Phật A Di Đà ở cõi Cực lạc phương Tây và Phật Dược Sư ở cõi Lưu ly phương Đông. Cả hai Đức Phật A Di Đà và Dược Sư đều được cho là do Đức Phật Thích Ca giới thiệu nhưng thiếu thông tin xuất thân, gia thế cụ thể.

Khái niệm độ sinh và cách thức độ sinh của Đức Phật Thích Ca

Theo lịch sử Phật giáo, Đức Phật Thích Ca khi mới ra đời có tên là Tất Đạt Đa hay Sĩ Đạt Ta (Siddhattha Gotama). Có lẽ khi Thái tử mới ra đời dù được một số kinh miêu tả các hiện tượng siêu hình như sinh ra từ hông mẹ, đi bảy bước trên hoa sen, nói bài kệ, được chư thiên rải hoa và thổi nhạc cúng dường… thì sự ra đời đó cũng chưa được gọi với khái niệm là Phật đản sinh. Nếu giả thuyết là đúng thì khái niệm Phật đản được sử dụng sớm nhất sau Phật thành đạo, tức giác ngộ Vô thượng Bồ-đề, hay được sử dụng khá lâu sau đó. Trong thời gian còn là Thái tử, Ngài nhiều lần ưu tư về nổi khổ của con người và chúng sinh, và phương cách chấm dứt, vượt thoát khổ đau. Chính tâm ưu tư tìm con đường giải thoát khổ đau mà Ngài đã từ bỏ gia đình, từ bỏ cuộc sống hạnh phúc thế gian để xuất gia tìm đạo, sống cuộc đời tu sĩ. Để được xuất gia, Ngài được cho đã xin vua cha giải quyết bốn vấn đề nan giải là làm sao trẻ mãi không già, làm sao khỏe hoài không bệnh, làm sao sống hoài không chết, và làm sao hết khổ đau.

Bản thân người viết chưa tìm thấy đoạn kinh nào trong Tam tạng ghi lời phát nguyện của Thái tử Tất Đạt Đa rằng sau khi Ngài thành Phật sẽ cứu độ, ban phát, tiếp dẫn… con người nói riêng và chúng sinh nói chung. Nói cách khác, người viết chưa tìm thấy đoạn kinh miêu tả, trình bày lời phát nguyện cứu độ, cứu giúp chúng sinh theo cách ban phát của Thái tử trước khi thành đạo. Ngay cả sau khi thành đạo, Đức Phật cũng không nói Ngài sẽ cứu độ chúng sinh hết khổ theo kiểu ban phát. Bởi vậy, Ngài thành Phật nhưng vẫn ở cõi Ta-bà được cho là có năm điều ô nhiễm (ngũ trược)[7] thêm 45 năm rồi tịch diệt. Đức Phật Thích Ca có tuổi thọ tại cõi Ta-bà là 80 năm. Tính đến nay, Đức Phật đã nhập vô dư Niết-bàn đã 2.569 năm.

Đức Phật là bậc có mười đức hiệu[8] và cũng là bậc A-la-hán: “Một người, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một người không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người ngang hàng, không có đặt ngang hàng, bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Người ấy là ai? Chính là Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác…”[9]. Từ bậc A-la-hán trở lên được Đức Phật dạy trong rất nhiều bài kinh là: “Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa[10].

Mặc dù không phát nguyện cứu độ chúng sinh theo cách ban phát nhưng Đức Phật Thích Ca lại là bậc độ sinh vĩ đại. Đức Phật tuyên bố phương cách độ sinh được ghi lại trong kinh Trung bộ là: “Này các Tỷ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ”[11]. Giáo pháp Tứ diệu đế (Bốn Thánh đế) giải thích chi tiết lời dạy đó gồm có bốn bước là chỉ ra khổ, nguyên nhân khổ, sự an lạc khi chấm dứt khổ và con đường chấm dứt khổ. Đức Phật dạy: “Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Bốn Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm[12]. Vì vậy, Đức Phật chưa bao giờ nhận mình là vị thần tối cao ban phát khi có ai đến cầu khẩn hay đọc tên của mình. Đức Phật chỉ thừa nhận là bậc đạo sư, tức vị thầy dẫn đường: “Người hãy nhiệt tình làm/ Như Lai chỉ thuyết dạy/ Người hành trì thiền định/ Thoát trói buộc ác ma[13]. Trước khi nhập vô dư Niết-bàn, Đức Phật dạy Ngài Ananda: “Này Ananda, sau khi Ta diệt độ, các người hãy tự mình là ngọn đèn của chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác…”[14].

Đức Phật Thích Ca và Tăng đoàn sống theo hạnh khất thực, nhận bốn thứ gọi là Tứ thánh chủng, gồm thức ăn, y áo, nơi ở và thuốc men. Ở xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ và với lối sinh hoạt của Đức Phật và Tăng đoàn, sự kiện lễ bái cầu nguyện để đạt ý nguyện về vật chất không thấy ghi chép. Sự đạt ý nguyện về vật chất như giàu sang, tiền tài, quan vị… có thể xảy ra là nhờ tôn kính cúng dường Đức Phật và Tăng đoàn, tức tạo phước. Sự cầu nguyện để được hết khổ, giải thoát chứng Thánh quả, vãng sinh về cõi Phật hoàn toàn không xảy ra vào thời Đức Phật.

Nói tóm lại, độ sinh hay cứu độ, cứu giúp theo lời dạy của Đức Phật Thích Ca là giáo dục, giáo hóa, nghĩa là giúp chúng sinh tự cứu bằng cách thực hành lời Đức Phật dạy hay đi con đường Đức Phật dạy để tự giác ngộ giải thoát; không có bóng dáng của việc làm thay, tu thay, giác ngộ thay. Thực tế không ai có thể làm cho mình hết tham, hết giận, hết buồn, phát trí tuệ, giác ngộ… ngoại trừ chính bản thân mỗi người.

Trách nhiệm người xuất gia

Người xuất gia theo truyền thống Đại thừa vừa học từ lời dạy của Đức Phật Thích Ca vừa học theo cách của các Đức Phật được giới thiệu nên phải vận dụng sao cho phù hợp đem lại lợi ích thiết thực. Ở xã hội Việt Nam, chư Tăng Ni ở hình thức nào đó vẫn sống bằng cách khất thực nhưng phải thích nghi bằng những cách khác nhau như phục vụ nghi lễ, tổ chức khóa tu… Khi khất thực có dư, Tăng Ni chia sớt cho bạn đồng tu như cúng dường cho các chùa ổn định sinh hoạt, xây dựng cơ sở, cúng dường ủng hộ trường Phật học, giúp đỡ cho người nghèo… Người xuất gia phải nương tựa vào Chánh pháp do Đức Phật Thích Ca giảng dạy, lấy Pháp và Luật làm thầy[15], làm kim chỉ nam để thực hành. Đó là nền tảng vững chắc để tiến lên thực hành “phương tiện quyền xảo” qua Phật giáo tín ngưỡng dìu dắt những người sơ cơ vào đạo. Hiện nay, có một khoảng trống lớn trong việc truyền bá Phật giáo của Tăng Ni là dẫn dắt tín đồ vào đạo rồi không truyền dạy Phật pháp cho họ. Vì vậy, tín đồ không hiểu giá trị đạo Phật hay hiểu sai nên tu theo niềm tin, có khi mê tín. Muốn làm được điều này thì Tăng Ni phải học hiểu và thực hành Chánh pháp trước. Giả sử Tăng Ni dạy tín đồ bớt tham mà bản thân mình còn tham nhiều thì lời dạy chỉ là nói suông khó thuyết phục họ. Cho nên, Tăng Ni dạy bớt tham thì bản thân phải có thực hành bớt tham trước.

Đức Phật đản sinh là khởi đầu, thành đạo và chuyển pháp luân mới thật sự làm cho Chánh pháp lưu truyền trong nhân gian. Đức Phật Thích Ca giới thiệu pháp học và pháp hành và nếu ai chịu học, chịu thực hành thì sẽ thành tựu. Kính mừng Phật đản là dịp để những người con Phật nhìn lại đánh giá sự tu học của bản thân. Sự tiến bộ trong tu học là thiết thực tri ân và thiết thực cúng dường lên Đức Phật Thích Ca.

 

 



[1] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng chi, tập 04, phẩm Một người, tr.23, NXB.Hồng Đức, 2020.

[2] Xem thêm https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_vị_Phật, truy cập ngày 23-4-2025.

[4] Xem https://quangduc.com/a66597/28-vi-phat-toan-giac, truy cập ngày 23-4-2025.

[7] Ngũ trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược.

[8] Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật - Thế Tôn.

[9] HT.Thích Minh Châu dịch , Kinh Tăng chi, tập 4, phẩm Một người, tr.23, NXB.Hồng Đức, 2020.

[10] HT.Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Đại bát Niết-bàn, tr.298, NXB.Hồng Đức, 2020.

[11] HT.Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Ví dụ con rắn, tr.167, NXB.Hồng Đức, 2020.

[12] HT.Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Đại bát Niết-bàn, tr.261, NXB.Hồng Đức, 2020.

[13] Pháp cú số 276.

[14] HT.Thích Minh Châu, Kinh Tương ưng bộ, tập 3, Thiên đại, phẩm Ambapali, kinh Bệnh, tr.1110, NXB.Hồng Đức, 2020.

[15] HT.Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Đại bát Niết-bàn, tr.298, NXB.Hồng Đức, 2020.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle