Đức Phật độ sinh
duc phat do sinh
Đức Phật độ sinh
Thích Hạnh
Chơn
Có thể nói sự ra đời của Thái tử Tất Đạt Đa - người
sau này trở thành Đức Phật Thích Ca - là sự ra đời vĩ đại. Bởi sự xuất hiện của
Ngài “vì hạnh phúc cho đa số, an lạc cho
đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư thiên và loài
người”.
Phật giáo về sau thường dùng thuật ngữ “độ sinh”, nghĩa là cứu giúp, cứu vớt
chúng sinh, để diễn đạt lại ý trên nhưng được hiểu với nhiều tầng nghĩa khác
nhau tạo, nên hình ảnh Đức Phật cũng khác nhau. Bài viết này xin được thảo luận
về khái niệm “độ sinh” và Đức Phật đã độ sinh như thế nào. Bài viết sẽ trình
bày sơ lược về Đức Phật Thích Ca lịch sử, khái niệm độ sinh và cách thức độ sinh
của Đức Phật Thích Ca, và trách nhiệm người xuất gia kế thừa truyền bá Chánh pháp.
Giới thiệu về Đức Phật
Thích Ca lịch sử
Trong Phật giáo, Đức Phật Thích Ca lịch sử là vị giáo
chủ khai sáng đạo Phật nên bất cứ ai theo đạo Phật đều công nhận và tôn kính
Ngài. Ngài là Thái tử Tất Đạt Đa thuộc dòng tộc Sakya, mang họ Cồ Đàm (Gotama).
Cha là vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và
mẹ là hoàng hậu Maya. Năm 16 tuổi, Ngài tuân theo lời vua cha cưới công chúa Da
Du Đà La (Yasodhara) làm vợ và có một
người con trai tên La Hầu La (Rahula).
Theo Bắc truyền, năm 19 tuổi Ngài xuất gia tìm đạo. Trải qua 5 năm tầm sư, 6
năm tu khổ hạnh, 49 ngày thực hành thiền, Ngài chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác, tức thành đạo hay thành Phật năm 30 tuổi. Theo Nam truyền, năm 29 tuổi
Ngài xuất gia tìm đạo. Trải qua 6 năm tu khổ hạnh, 49 ngày thực hành thiền,
Ngài chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác năm 35 tuổi.
Ngoài Đức Phật Thích Ca, Phật giáo Nam truyền còn ghi
nhận bảy vị Phật bao gồm ba vị thời quá khứ, ba vị thời hiện tại cùng với Phật
Thích Ca là bảy vị; ghi nhận 24 vị Phật thời
quá khứ đã thọ ký cho tiền thân Đức Phật Thích Ca;
ghi nhận 28 vị Phật gồm 27 vị Phật quá khứ và Đức Phật Thích Ca.
Phật giáo Bắc truyền ghi nhận có 3.000 vị Phật gồm ba thời quá khứ, hiện tại, vị
lai, mỗi thời 1.000 vị Phật;
ghi nhận có 11.100 vị Phật trong kinh Vạn
Phật từ quá khứ cho đến
vị lai. Tuy nhiên, phổ biến chỉ có Phật
A Di Đà ở cõi Cực lạc phương Tây và Phật Dược Sư ở cõi Lưu ly phương Đông. Cả
hai Đức Phật A Di Đà và Dược Sư đều được cho là do Đức Phật Thích Ca giới thiệu
nhưng thiếu thông tin xuất thân, gia thế cụ thể.
Khái niệm độ sinh và
cách thức độ sinh của Đức Phật Thích Ca
Theo lịch sử Phật giáo, Đức Phật Thích Ca khi mới ra đời
có tên là Tất Đạt Đa hay Sĩ Đạt Ta (Siddhattha
Gotama). Có lẽ khi Thái tử mới ra đời dù được một số kinh miêu tả các hiện
tượng siêu hình như sinh ra từ hông mẹ, đi bảy bước trên hoa sen, nói bài kệ,
được chư thiên rải hoa và thổi nhạc cúng dường… thì sự ra đời đó cũng chưa được
gọi với khái niệm là Phật đản sinh. Nếu giả thuyết là đúng thì khái niệm Phật đản
được sử dụng sớm nhất sau Phật thành đạo, tức giác ngộ Vô thượng Bồ-đề, hay được
sử dụng khá lâu sau đó. Trong thời gian còn là Thái tử, Ngài nhiều lần ưu tư về
nổi khổ của con người và chúng sinh, và phương cách chấm dứt, vượt thoát khổ
đau. Chính tâm ưu tư tìm con đường giải thoát khổ đau mà Ngài đã từ bỏ gia
đình, từ bỏ cuộc sống hạnh phúc thế gian để xuất gia tìm đạo, sống cuộc đời tu
sĩ. Để được xuất gia, Ngài được cho đã xin vua cha giải quyết bốn vấn đề nan giải
là làm sao trẻ mãi không già, làm sao khỏe hoài không bệnh, làm sao sống hoài
không chết, và làm sao hết khổ đau.
Bản thân người viết chưa tìm thấy đoạn kinh nào trong
Tam tạng ghi lời phát nguyện của Thái tử Tất Đạt Đa rằng sau khi Ngài thành Phật
sẽ cứu độ, ban phát, tiếp dẫn… con người nói riêng và chúng sinh nói chung. Nói
cách khác, người viết chưa tìm thấy đoạn kinh miêu tả, trình bày lời phát nguyện
cứu độ, cứu giúp chúng sinh theo cách ban phát của Thái tử trước khi thành đạo.
Ngay cả sau khi thành đạo, Đức Phật cũng không nói Ngài sẽ cứu độ chúng sinh hết
khổ theo kiểu ban phát. Bởi vậy, Ngài thành Phật nhưng vẫn ở cõi Ta-bà được cho
là có năm điều ô nhiễm (ngũ trược)
thêm 45 năm rồi tịch diệt. Đức Phật Thích Ca có tuổi thọ tại cõi Ta-bà là 80
năm. Tính đến nay, Đức Phật đã nhập vô dư Niết-bàn đã 2.569 năm.
Đức Phật là bậc có mười đức hiệu và
cũng là bậc A-la-hán: “Một người, này các
Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một người không hai, không có đồng
bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người
ngang hàng, không có đặt ngang hàng, bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Người
ấy là ai? Chính là Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác…”. Từ bậc A-la-hán trở lên được
Đức Phật dạy trong rất nhiều bài kinh là: “Sinh đã tận, phạm hạnh đã
thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa”.
Mặc dù không phát nguyện cứu độ chúng sinh theo cách
ban phát nhưng Đức Phật Thích Ca lại là bậc độ sinh vĩ đại. Đức Phật tuyên bố phương
cách độ sinh được ghi lại trong kinh Trung
bộ là: “Này các Tỷ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ
và sự diệt khổ”.
Giáo pháp
Tứ diệu đế (Bốn Thánh đế) giải thích chi tiết lời dạy đó gồm có bốn bước là chỉ
ra khổ, nguyên nhân khổ, sự an lạc khi chấm dứt khổ và con đường chấm dứt khổ. Đức
Phật dạy: “Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Bốn
Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm”.
Vì vậy, Đức Phật chưa bao giờ nhận mình là vị thần tối cao ban phát khi có ai đến
cầu khẩn hay đọc tên của mình. Đức Phật chỉ thừa nhận là bậc đạo sư, tức vị thầy
dẫn đường: “Người hãy nhiệt tình
làm/ Như Lai chỉ thuyết dạy/ Người hành trì thiền định/ Thoát trói buộc ác ma”.
Trước khi nhập vô dư Niết-bàn, Đức Phật dạy Ngài Ananda: “Này Ananda, sau khi Ta diệt độ, các người
hãy tự mình là ngọn đèn của chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không
nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ
nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác…”.
Đức Phật Thích Ca và Tăng đoàn sống
theo hạnh khất thực, nhận bốn thứ gọi là Tứ thánh chủng, gồm thức ăn, y áo, nơi
ở và thuốc men. Ở xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ và với lối sinh hoạt của Đức Phật và
Tăng đoàn, sự kiện lễ bái cầu nguyện để đạt ý nguyện về vật chất không thấy ghi
chép. Sự đạt ý nguyện về vật chất như giàu sang, tiền tài, quan vị… có thể xảy
ra là nhờ tôn kính cúng dường Đức Phật và Tăng đoàn, tức tạo phước. Sự cầu nguyện
để được hết khổ, giải thoát chứng Thánh quả, vãng sinh về cõi Phật hoàn toàn
không xảy ra vào thời Đức Phật.
Nói tóm lại, độ sinh hay cứu độ, cứu
giúp theo lời dạy của Đức Phật Thích Ca là giáo dục, giáo hóa, nghĩa là giúp
chúng sinh tự cứu bằng cách thực hành lời Đức Phật dạy hay đi con đường Đức Phật
dạy để tự giác ngộ giải thoát; không có bóng dáng của việc làm thay, tu thay,
giác ngộ thay. Thực tế không ai có thể làm cho mình hết tham, hết giận, hết buồn,
phát trí tuệ, giác ngộ… ngoại trừ chính bản thân mỗi người.
Trách nhiệm người xuất
gia
Người xuất gia theo truyền thống Đại thừa vừa học từ lời
dạy của Đức Phật Thích Ca vừa học theo cách của các Đức Phật được giới thiệu
nên phải vận dụng sao cho phù hợp đem lại lợi ích thiết thực. Ở xã hội Việt
Nam, chư Tăng Ni ở hình thức nào đó vẫn sống bằng cách khất thực nhưng phải
thích nghi bằng những cách khác nhau như phục vụ nghi lễ, tổ chức khóa tu… Khi
khất thực có dư, Tăng Ni chia sớt cho bạn đồng tu như cúng dường cho các chùa ổn
định sinh hoạt, xây dựng cơ sở, cúng dường ủng hộ trường Phật học, giúp đỡ cho
người nghèo… Người xuất gia phải nương tựa vào Chánh pháp do Đức Phật Thích Ca
giảng dạy, lấy Pháp và Luật làm thầy,
làm kim chỉ nam để thực hành. Đó là nền tảng vững chắc để tiến lên thực hành
“phương tiện quyền xảo” qua Phật giáo tín ngưỡng dìu dắt những người sơ cơ vào
đạo. Hiện nay, có một khoảng trống lớn trong việc truyền bá Phật giáo của Tăng
Ni là dẫn dắt tín đồ vào đạo rồi không truyền dạy Phật pháp cho họ. Vì vậy, tín
đồ không hiểu giá trị đạo Phật hay hiểu sai nên tu theo niềm tin, có khi mê
tín. Muốn làm được điều này thì Tăng Ni phải học hiểu và thực hành Chánh pháp
trước. Giả sử Tăng Ni dạy tín đồ bớt tham mà bản thân mình còn tham nhiều thì lời
dạy chỉ là nói suông khó thuyết phục họ. Cho nên, Tăng Ni dạy bớt tham thì bản
thân phải có thực hành bớt tham trước.
Đức Phật đản sinh là khởi đầu, thành đạo và chuyển
pháp luân mới thật sự làm cho Chánh pháp lưu truyền trong nhân gian. Đức Phật
Thích Ca giới thiệu pháp học và pháp hành và nếu ai chịu học, chịu thực hành thì
sẽ thành tựu. Kính mừng Phật đản là dịp để những người con Phật nhìn lại đánh
giá sự tu học của bản thân. Sự tiến bộ trong tu học là thiết thực tri ân và thiết
thực cúng dường lên Đức Phật Thích Ca.
Xem https://quangduc.com/a66597/28-vi-phat-toan-giac,
truy cập ngày 23-4-2025.
HT.Thích Minh Châu dịch , Kinh Tăng chi, tập 4, phẩm Một người,
tr.23, NXB.Hồng Đức, 2020.
HT.Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Đại
bát Niết-bàn, tr.298, NXB.Hồng Đức, 2020.
HT.Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Đại
bát Niết-bàn, tr.298, NXB.Hồng Đức, 2020.