Thấy Núi Không Là Núi | Nguyên Giác
thay nui
Thấy Núi Không Là Núi | Nguyên Giác
Nguyên Giác
Có một thiền ngữ nổi
tiếng, thường được nhắc tới trong nhà thiền. Thiền
sư Thanh
Nguyên Duy Tín đời Tống nói: “Hồi
30 năm trước, khi lão tăng còn chưa tham
thiền, thấy núi là núi, thấy sông là sông. Về sau, gặp được thiện
tri thức, có chỗ hội nhập, thấy núi không là núi, thấy sông không là
sông. Bây giờ được chỗ dứt sạch, thấy núi chỉ là núi, thấy sông chỉ là sông.” Thực
ra, ba giai đoạn này không riêng gì của Thiền
Tông. Chúng
ta sẽ gặp trong tất cả các lời dạy của Đức
Phật.
Khi chúng
ta thấy núi là núi, thấy sông là sông, lúc đó chúng
ta lâp lại những kiến
thức học từ xã
hội, gia
đình. Những quy
ước thế
gian rằng ngọn núi trước
mắt ta gọi là núi, con sông nơi bến đò thì gọi là con sông. Chúng
ta học từ quy
ước, từ kiến
thức quá
khứ của tập thể cộng
đồng, và gọi như thế.
Tới một thời
gian, chúng
ta học Bát
Nhã Tâm Kinh, nhìn thấy rằng Sắc chính là Không. Nghĩa là, Sắc (những cái
được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được tư lường) chính
là Không. Những cái được thấy cũng như ảnh trong gương tâm, chúng chuyển
biến liên
tục, không có thực
thể, không thể được níu kéo, tức là không có tự ngã, nên gọi là vô
ngã. Những cái được nghe chỉ là âm
thanh tới bên tai, chúng chuyển
biến liên
tục, không có thực
thể, không thể được níu kéo, tức là không có tự ngã, nên gọi là vô
ngã. Và do vậy, những cái được thấy, được nghe chỉ là Không. Tương
tự, với những cái được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được tư lường. Tất
cả Sắc
không khác với Không.
Đức Phật từng lấy thí
dụ rằng, những âm
thanh của đàn tỳ
bà nghe rất tuyệt
vời, nhưng là do rất nhiều duyên mới hình thành được. Thân đàn là gỗ chặt
từ cây rừng về rồi cưa, bào, chuốt, đóng thành cây đàn. Cây rừng phải được trồng
nhiều năm để có sớ gỗ thích
nghi, phải có mưa, gió, nắng cho cây lớn. Người nhạc sĩ phải học nhiều
năm để sáng
tác ca
khúc, và để sử
dụng cây đàn. Khi chúng
ta ưa
thích tiếng đàn, chúng
ta chặt cây đàn làm trăm mảnh cũng không tìm
ra tiếng đàn.
Tương tự, Kinh
Na Tiên Tỳ Kheo từng dẫn ra trường
hợp một cỗ xe, rồi chỉ ra rằng không thể chỉ nơi nào thực sự có thể gọi
là cỗ xe. Tương
tự, Cư
sĩ Tâm
Minh Lê Đình Thám từng dẫn ra trường
hợp một cái bàn rồi chỉ ra rằng không thể chỉ ra nơi nào để gọi là cái
bàn.
Đức Phật khi dạy pháp Tứ
Niệm Xứ, nơi phần quán
thân, đã nói trong Kinh DN 22 rằng, theo bản dịch của Thầy Minh
Châu, trích:
"...một Tỷ
kheo quán
sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên cho
đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất
tịnh sai
biệt: “Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân,
xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng,
phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch,
nước ở khớp xương, nước tiểu.”
Như vậy vị ấy sống quán
thân trên nội thân; hay sống quán
thân trên ngoại
thân; hay sống quán
thân trên cả nội thân, ngoại
thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh
khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán
tánh sanh
diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an
trú chánh
niệm như vậy với hy
vọng hướng đến chánh
trí, chánh
niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không
chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ
kheo, như vậy vị Tỷ
kheo sống quán
thân trên thân." (ngưng trích)
Nghĩa là, người tu nhìn thấy thân chỉ như một bọc da chứa đủ thứ bất
tịnh, nhìn thấy tánh sanh
khởi nơi thân, nhìn thấy tánh diệt tận nơi thân, liên
tục thấy tánh sanh
diệt trên thân, không thấy có gì là tự ngã và do vậy sống không nương
tựa, không
chấp trước một vật gì trên đời. Đó là thấy thân không phải là thân, mà
chỉ là một bọc da, và thấy chỉ là những chuyển động sanh
diệt nơi thân. Kinh
Kim Cang viết rằng, những gì có sanh
diệt thì không thể gọi là có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng
sanh, tướng thọ
giả. Đó chính là thấy núi không phải là núi, thấy sông không phải là
sông.
Trong Kinh SN 22.95, Đức
Phật dạy rằng Sắc chính là Không, theo bản dịch của Thầy Minh
Châu:
"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có
sắc gì thuộc quá
khứ, vị
lai, hiện
tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa
hay gần; vị Tỷ-kheo thấy sắc, chuyên
chú, như lý
quán sát sắc. Do vị Tỷ-kheo nhìn chuyên
chú, như lý
quán sát sắc, sắc ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không,
hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong
sắc được? ..[...]
Ví như, này các Tỷ-kheo, một ảo
thuật sư hay đệ
tử một ảo
thuật sư, tại ngã tư đường bày trò ảo
thuật. Một người có mắt nhìn chuyên
chú, như lý
quán sát trò ảo
thuật ấy. Do người ấy nhìn chuyên
chú, như lý
quán sát, ảo
thuật ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là trống rỗng, hiện rõ ra
là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong ảo
thuật được?" (ngưng trích)
Thế rồi chúng
ta sẽ tới lúc nhận
ra rằng, cái thấy tối
hậu sẽ là cái thấy Như
Thị. Hòa
thượng Thích Phước
Hậu (1866 - 1953) để lại lời dạy cho tăng
chúng Việt
Nam bài thơ:
Kinh điển lưu
truyền tám vạn tư
Học hành không thiếu cũng không dư
Đến nay tính lại đà quên hết
Chỉ nhớ trên đầu một chữ Như.
Đức Phật có một số bài
kinh dạy về pháp chữ Như này. Trong Kinh AN 4.24, Đức
Phật dạy rằng cái nhìn của bậc Như
Lai là, khi thấy, nghe, cảm
thọ, nhận
biết thì đừng tưởng tượng (ngài Bodhi dịch là "do not misconceive" đừng
nghĩ sai về; trong khi ngài Sujato dịch là "do not conceive" là đừng nghĩ thêm
ra) hay đừng hình
dung gì thêm, dù là tưởng tượng hay hình
dung về cái được thấy, cái không được thấy, cái sẽ được thấy, và cái
người thấy. Cái tuyệt
vời của Kinh này là, Bodhi và Sujato dịch bằng 2 chữ trái nghịch nhau
nhưng đều diễn
tả được ý của Như
Lai. Bản dịch của Thầy Minh
Châu như sau, trích:
“Như vậy, này các Tỷ-kheo, Như
Lai là vị đã thấy những gì cần thấy, nhưng không có tưởng tượng điều đã
được thấy, không có tưởng tượng những cái gì không được thấy, không có tưởng
tượng những gì cần
phải thấy, không có tưởng tượng đối với người thấy. Đã nghe những gì cần
nghe, nhưng không có tưởng tượng điều đã được nghe, không có tưởng tượng những
cái gì không được nghe, không có tưởng tượng những gì cần
phải nghe, không có tưởng tượng đối với người nghe...” (ngưng trích)
Rồi tới bài
Kinh Bahiya Sutta, Đức
Phật nói rất đơn
giản về pháp
Như, rằng: “Thế này, Bahiya,
ông nên tu
tập thế này: Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được
nghe sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ
tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri.’ Cứ thế mà tu
tập đi, Bahiya.
“Khi với ông, này Bahiya, trong cái
được thấy chỉ là cái được thấy… [nhẫn tới]… trong cái được thức tri chỉ là cái
được thức tri, thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘với đó.’ Này Bahiya, khi ông
không là ‘với đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘trong đó.’ Này Bahiya, khi
ông không ‘trong đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không ở nơi này, cũng không ở nơi
kia, cũng không ở chặng giữa. Thế này, chỉ thế này, là đoạn tận
khổ đau.”
Nghe xong, ngài Bahiya chứng
quả A
la hán. Xin chú ý rằng, trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy. Có
nghĩa là, thấy, nghe, trực tiếp, không phải thấy và nghe qua lý
luận, không qua kiến
thức thế
gian, không qua thói
quen đặt tên của xã
hội, của quá
khứ, của quy
ước. Đó là cái thấy trực tiếp, cái thấy mà không gọi tên. Chỉ tạm gọi là,
thấy núi là núi, thấy sông là sông, nhưng không phải là thấy núi và sông qua
những hình
ảnh và lý
luận của quá
khứ mà chúng
ta mang nặng.
Cái thấy, cái nghe lúc này sẽ là cái thấy và nghe của tịch lặng, của tức khắc
sinh và tức khắc diệt, như chim bay trên bầu trời, không chút dấu vết nào còn
trong gương tâm. Và tạm gọi rằng thấy núi là núi, thấy sông là sông.
THAM KHẢO:
. Kinh DN 22: Tứ
niệm xứ, quán tánh sanh
diệt nơi thân
https://suttacentral.net/dn22/vi/minh_chau
. Kinh SN 22.95: thấy pháp
hữu vi như trò ảo
thuật
https://suttacentral.net/sn22.95/vi/minh_chau
. Kinh AN 4.24: khi thấy, nghe... đừng tưởng tượng, đừng hình
dung gì thêm
https://suttacentral.net/an4.24/vi/minh_chau
. Bài Pháp Khẩn Cấp: Bahiya Sutta: cái được thấy chỉ là cái được thấy
https://thuvienhoasen.org/a14273/bai-phap-khan-cap-bahiya-sutta