Vài suy nghĩ về tính chất bản thể luận Phật giáo trong tác phẩm Kiến tánh thành Phật lục của Thiền sư Chân Nguyên (phái Trúc Lâm)
kien tanh
Vài suy nghĩ về tính chất bản thể luận Phật giáo trong tác phẩm Kiến tánh
thành Phật
lục
của
Thiền
sư Chân Nguyên (phái Trúc Lâm)
TS. Huỳnh Quán Chi
&
Huỳnh Minh Thông
Tóm tắt:
Kiến tánh thành Phật lục của
Thiền
sư Chân Nguyên là một tác phẩm độc đáo của
Thiền
phái Trúc Lâm giai đoạn phục hưng vào thời Lê. Tác phẩm thể hiện sự uyên bác của
tác giả khi tập trung vào việc làm rõ tông chỉ của Thiền, nhưng tác phẩm có thể
sử dụng cho các tông phái khác. Ở đây chúng tôi tập trung vào vài khía cạnh nhỏ
có liên quan vấn đề bản thể và mối quan hệ bản thể - hiện tượng trong tác phẩm
này. Tác phẩm có thể xem như một sự đóng góp của tác giả vào việc tiếp nối
Thiền
phái Trúc Lâm ở nước ta.
A. Dẫn
nhập
Kiến tánh thành Phật lục
của
Thiền
sư Chân Nguyên là một tác phẩm độc đáo trong giai đoạn phục hưng
Thiền
phái Trúc Lâm. Tác phẩm tập trung vào vấn đề cốt tủy của đạo Phật: tính
Không
(śūnyatā).
Bài viết này nhằm tập trung vào vấn đề cốt lõi thuộc về bản thể luận Phật giáo
là kiến tính (kiến tánh) trong tác phẩm này.
B. Nội dung
1. Tìm về tính (tánh)
trong tư tưởng Phật giáo
1.1. Tìm về tính,
tính
Không
Quan niệm
"Trực chỉ chân tâm,
Kiến tánh thành Phật"
vốn có nguồn gốc từ lâu đời (chân
tâm ở đây đồng nghĩa với tính Không). Đến nay quan niệm này đã trở thành quen
thuộc đối với tu sĩ, cư sĩ thiền, học giả Phật giáo.
Tính (tánh) chính là Phật tính (Phật tánh).
Phật tính và tính-Không
là một, theo Từ điển Phật học. Từ điển Phật học giới thiệu về
Đạo Sinh:
“Đạo Sinh
quan niệm rằng giác ngộ là giác ngộ tức khắc (đốn ngộ), là tình trạng hợp nhất
với Chân như. Khi giác ngộ thì
luân-hồi
hay Niết-bàn không khác và chân như của chư Phật không khác với thế giới hiện
hữu.
Theo
Phật Quang đại từ điển, Phật tính: (佛性)
(Buddha-dhātu, Buddhagotra). Cũng gọi Như lai tính, Giác tính. Chỉ cho
bản tính của Phật, hoặc chỉ cho khả năng tính thành Phật,... là tính chất
giác ngộ
sẵn có, tên khác của Như Lai tạng...
“Trong Tiểu thừa, tính Không nhằm nói về thể tính của con
người và được sử dụng như một tính từ (S: śūnya). Ðại
thừa đi thêm một bước nữa, sử dụng Không như một danh từ (S:
śūnyatā), xem Không là vạn sự, vạn sự là Không,
tức mọi hiện tượng thân tâm đều không hề có tự tính (S:
svabhāva)”.
“Tính
Không, nói ngay, không mang ý nghĩa tiêu cực. Nó là một biệt danh của Chân như (tathatā),
tức
tính
Không là
Chân
như và
Chân
như là
tính
Không. Đây là chủ trương trực giác của Bát-nhã
ba-la-mật.
Bấy giờ,
Chân
như của Phật tính từ quan điểm tôn giáo,
tức là
Pháp thân.
Và
Pháp thân được trực nhận khi nào chứng nghiệm được lý vô ngã (nairātmyatā)
của các pháp (dharma)
và của nhân cách...”.
Luận án “Bồ-tát
và tánh Không
trong
kinh
tạng Pāli và
Đại
thừa”
của
Thích
nữ
Giới Hương
là một công trình thú vị về tính Không. Công trình này giúp
chúng ta có cái nhìn
bao
quát về Tính (Tánh),
tính
Không
xuyên qua kinh
tạng
Pāli và
kinh Đại
thừa.
Khái niệm “Không” trong
Kinh
tạng Pāli (tr.97-127):
“Trong
kinh điển Pāli, Trung bộ kinh (Majjhima Nikāya) đã cống hiến hai
kinh đặc
biệt quán chiếu về ‘không’ (Pāli:
Suññatā)
là: Kinh Tiểu không (Cūlla Suññata Sutta) và
Đại không
(Mahā Suññata Sutta)”.
Có 5 cách hiểu về
“không”
trong kinh tạng
Pāli:
-
“Không” như
không
thật
thể
(tr.97-100);
- “Không”
như là một thực tại
(tr.100-104);
- “Không”
như là Vô ngã
(tr.104-115);
-
“Không”
như là lý Duyên khởi hoặc con đường Trung đạo
(tr.115-120);
-
Không như Niết-bàn
(tr.120-127).
Khái niệm
“Không”
cũng có ý nghĩa là Niết-bàn. Đặc biệt trong kinh Tiểu
không
(Cūlla Suññatā Sutta) đã xác định lời tuyên bố này của Đức Phật:
"Này A-nan, nhờ an trú vào (khái niệm)
“không”
mà bây giờ ta được an trú viên
mãn nhất".
(Suññatāvihārenāhaṁ, Ānanda, etarahi bahulaṁ viharāmīti).
Và trong kinh dạy rằng có một lần Tôn giả Xá-lợi-phất đến Đức Phật sau một buổi
chiều thiền định, Đức Phật đã khen sự biểu lộ định tĩnh, siêu thoát và an lạc
của Tôn
giả Xá-lợi-phất. Ngài Xá-lợi-phất liền giải thích đó là do thành quả của
thâm nhập vào Không:
"Kính bạch Thế tôn, con bây giờ đã hoàn toàn thâm nhập vào ‘không’".
(Suññatāvihārena kho ahaṁ, bhante, etarahi bahulam viharāmiti).
Quan niệm “Không” trong
Kinh
tạng Pāli được tiếp nối trong kinh điển Đại thừa.
1.2. Lược khảo
tính
Không trong kinh điển Đại thừa
Tính Không
trong kinh điển Đại thừa gồm hai nội dung:
Khái niệm
tính
Không trong
kinh
điển Đại thừa
và mối
liên
hệ giữa Không và
tính
Không.
Có ý kiến tạm thời khái quát về tính
Không
từ những lát cắt
nhận thức:
Mười tính chất (mười lát cắt) này nhìn chung chỉ có tính tham khảo,
vì xuất phát từ cái nhìn mang màu sắc tri thức hiện đại, khô cứng, thiếu linh
động. Nó không phải là đúc kết từ một thiền sư chứng ngộ hay một người thực hành
thiền
thành công.
Khái niệm Không (Suññatā,
空)
xuất hiện đầu tiên trong kinh điển Pāli và được
phát triển trong mỗi trường phái triết học Đại thừa, bằng nghệ thuật so sánh gợi
hình như mười ví von đã minh họa khéo léo và hình tượng tính chất ảo giác
của các hiện tượng và không chấp thủ cả tính
Không
đó”.
Tính Không
(Śūnyatā) làm phong phú
thêm khái niệm
“Không”
(Suññatā) trong kinh điển pāli hoặc ngã không và pháp
không trong Tiểu thừa (Hīnayāna).
Theo
Chơn tâm trực thuyết của Thiền sư Phổ Chiếu:
Tên khác của Chân
tâm
theo tinh thần “Trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật”
(đoạn trích từ tác phẩm “Chơn Tâm trực thuyết”):
“Hỏi: Đã sinh chánh tín, nhưng chưa biết thế nào gọi là chơn tâm?
Đáp: Lìa vọng gọi là chơn. Linh giám gọi là tâm. Trong kinh
Lăng nghiêm đã nói rõ tâm này!
Hỏi: Chỉ gọi chơn tâm thôi, hay có tên riêng khác nữa chăng?
Đáp: Phật dạy, Tổ dạy lập danh không đồng nhau. Phật dạy trong Bồ-tát giới gọi
là Tâm địa, vì hay phát sinh muôn việc thiện. Kinh
Bát-nhã
gọi là Bồ-đề, vì lấy giác làm thể. Kinh Hoa
nghiêm gọi là Pháp giới, vì giao triệt và dung nhiếp. Kinh Kim cang
gọi là Như Lai, vì không từ đâu đến. Kinh Bát-nhã gọi là Niết-bàn, vì là chỗ quy
hướng của chư Thánh. Kinh Kim quang minh gọi là Như như, vì chơn thường
bất biến. Kinh Tịnh danh gọi là Pháp thân, vì là chỗ nương của báo thân
và hóa thân. Luận Khởi tín gọi là Chơn như, vì chẳng sinh chẳng diệt. Kinh
Niết-bàn gọi là Phật tính vì là bản thể của ba thân. Kinh Viên giác
gọi là Tổng trì, vì mọi công đức từ đó mà lưu xuất”.
Tuy tên gọi phong phú nhưng đây là những khái niệm rất khó giải thích trọn vẹn.
Vì mỗi từ ngữ đều có giới hạn trong một nội hàm và ngoại diên nhất định. Lấy một
cái có giới hạn để diễn đạt cái toàn thể, bản thể, là rất khó khăn.
Vì vậy mà cần đến quan niệm không đặt nặng ngôn thuyết và kiến thức, hướng đến
“vô ngôn”, đây cũng là tên của một thiền phái ở Việt Nam
-
phái Vô Ngôn Thông.
1.3. Vài nét về nghiên cứu tính
Không trên thế giới ngày nay
Tính Không là cốt lõi của Phật giáo, xuyên qua
Kinh tạng
hệ Pāi và kinh điển Đại thừa. Ngày nay, điều đó vẫn không thay đổi, đề tài
nghiên cứu về tính
Không
vẫn là đề tài hấp dẫn cho những công trình nghiên cứu của thế kỷ XX-XXI. Một số
công trình nghiên cứu tiêu biểu cho thấy
bản
thể luận Phật giáo cũng luôn là sự quan tâm nghiên cứu trong và ngoài nước.
Daisetz
Teitaro
Suzuki
(1950),
Essays in Zen Buddhism
(Thiền luận),
First
series,
Second
series,
Third
series,
Published
for the Buddhist Society, London by
Rider
& Company,
London;
T.V. Murti
(1955), The Central Philosophy of Buddhism
(Tính Không - Cốt lõi của đạo Phật),
Publisher
George Allen and Unwin Ltd;
Lau, Jeeloo, An Introduction to Chinese
Philosophy, from Ancient Philosophy to Chinese Buddhem
(Giới thiệu triết học Trung Hoa, Từ triết học cổ đại đến Phật giáo Trung Hoa)
(2006),
First published 2006 by Blackwell Publishing Ltd;
Stephen J. Laumakis (2008), An Introduction to Buddhist Philosophy (Giới
thiệu triết học Phật giáo), Published in the United States of America by
Cambridge University Press, New York;
Dinesh Panthee (2020) Ontological Beliefs in Buddhism (Cảm hứng bản thể luận
trong Phật giáo), Kathmandu University, Nepal...
1.4. Tính Không trong Đại thừa nói chung và Thiền tông nói riêng còn hàm chứa sự
kết hợp với sáu Ba-la-mật
Tính Không trong Đại thừa nói chung và Thiền tông nói riêng còn hàm chứa sự kết
hợp với sáu Ba-la-mật
(tư tưởng Bồ-tát,
Bồ-tát
hạnh) như là một sự mặc định.
“Sáu
ba-la-mật liên quan với vài khái niệm căn bản của Phật giáo thời kỳ
đầu. Thật ra, không có gì mới trong công thức của sáu ba-la-mật: tất cả mục này
được tìm thấy trong Kinh tạng Nguyên-thủy, nhưng sau này được các nhà Đại thừa
đối chiếu để làm nổi bật những điểm khác nhau giữa các ba-la-mật của Đại-thừa
với 37 phẩm trợ đạo (三十七助道品)
của Tiểu thừa và để so sánh lý tưởng Bồ-tát
của Đại thừa với lý tưởng A-la-hán của Tiểu thừa. Thật là ngạc nhiên khi thấy
các
ba-la-mật bố thí, trì giới và nhẫn nhục không có trong bổn phận tu tập của chư
Tăng Tiểu thừa, dường như rằng không bao gồm những phục vụ lợi tha và đồng
cảm xã hội.
Giai đoạn đầu, Đại thừa Phật giáo đã có công trong việc kết hợp các đức hạnh xã
hội của cư sĩ Phật tử với lý tưởng ẩn sĩ
ẩn
tu của chư Tăng trong công thức ba-la-mật.
Các nhà Đại thừa thích
công thức mới
(sáu
ba-la-mật)
này hơn là công thức 37 phẩm trợ đạo, bởi lẽ 37 phẩm trợ đạo được
xem là quá thoát tục, không hòa
vào
xã hội trong phạm vi và khuynh hướng của họ. Bố
thí và trì giới có thể chỉ đưa Phật tử đến cổng của cõi trời thọ hưởng phước
báu,
niềm vui (như Tiểu thừa đã chủ trương) mà không được xem trọng như thiền định
và trí tuệ.
Tất cả các ba-la-mật được phân chia và được xem là những thành tố
không tách rời cho việc đạt giác ngộ”.
Edward Conze,
Thirty
years of Buddhist studies: selected
essays(Ba
mươi năm nghiên cứu Phật giáo:
các
bài luận chọn lọc,
tr.54)
đã nói rằng có hai điều cống hiến lớn mà Đại thừa
đã cống
hiến cho tư tưởng nhân loại là việc sáng tạo ra lý tưởng Bồ-tát và chi tiết
hóa học thuyết tánh Không.
Theo Thiền
tông,
trước hết và
mục đích
tối hậu là: "Kiến
tính (tánh)
thành Phật (có
nghĩa
thấy
tính
thành Phật;
hay Thấy Phật
tính
thì thành Phật)”.
“Thấy
tính”
ở đây
có rất nhiều đồng nghĩa. Ví dụ “Thấy
tính”
(Kiến
tính) tương
đương với ngộ
lẽ sắc-không,
tương tự
với ngộ triết
lý có và không;
rõ
lẽ
chân như..., và còn rất nhiều cách diễn đạt khác.
“Kiến tánh thành Phật lục”
của Chân Nguyên là tác phẩm tiếp tục và làm sáng rõ khuynh hướng Bồ-tát
-
tính
Không đã trình bày ở trên. Đồng thời tập trung vào mục đích “kiến tính”
như là trung tâm của Thiền học.
2. Tìm hiểu Kiến
tính
thành Phật lục
của Thiền
sư Chân Nguyên (phái Trúc Lâm)
Ở đây chúng tôi chỉ
sử dụng bản dịch Kiến tánh thành Phật
tiếng Việt của
HT.
Thích Thanh Từ
(Kiến
tánh thành Phật giảng giải,
NXB.Văn
hóa - Văn nghệ, TP.
HCM,
2013,
tr.1-40)
và có đối chiếu với bản dịch Kiến tánh thành Phật
của
Lê Mạnh Thát
(Toàn
tập Chân Nguyên Tuệ Đăng,
tập
1, NXB.Hồng
Đức, 2018,
tr.193-240).
2.1. Tìm hiểu
về Thiền
sư Chân Nguyên
Cũng như
Thiền
sư Hương Hải, thái độ của Chân Nguyên sớm phản ứng ý thức hệ Nho giáo phong kiến
bế quan đương thời. Lúc 19 tuổi, nhân đọc hành trạng Huyền Quang, vị
Tổ
thứ ba dòng thiền Trúc Lâm
Yên
Tử mà cảm kích, liền bỏ Nho học
để tìm sang Phật học...
Thiền sư
Chân
Nguyên quê ở làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
Xuất
gia theo Phật, được ý chỉ tông ấn dòng Trúc Lâm với Thiền sư Chân Trú hiệu Tuệ
Nguyệt.
Sư lại là người học rộng, có
chí nguyện lớn, đã từng đốt ngón tay
nguyện
đem pháp cúng dường tiếp nối đèn tuệ của chư Phật.
Theo Lê Mạnh Thát,
Sư
đã có 18 công trình bằng chữ Nôm và
chữ Hán, và khắc in
nhiều kinh sách.
Triều Lê niên hiệu Chính Hòa (1680-1705),
Sư viết: “Tôi
theo khắp các kinh trong Đại tạng, mở bày tâm địa ra nơi từ chương (chữ nghĩa)
mà soạn thành một bản luận lưu truyền, đặt tên là ‘Kiến tánh thành Phật’”.
Nhằm nêu rõ nguyện lực ra đời, và giúp lo gánh vác sứ mạng Như Lai, đời đời tiếp
nối ngọn đèn Phật Tổ, làm sáng rực con mắt của trời người. Đời sau ai là người
có chí lớn, giữ gìn gia phong của Phật, phò trì tượng pháp an ổn lâu dài, thì
phước tuệ trang nghiêm tối thắng. Hoặc kẻ thấy đài Cửu phẩm hư đổ và các kinh
bản cũ mục, thì hãy khuyến hóa đàn-na, cùng nhau góp sức hưng công tu bổ lại, tự
rất mừng vui cho mình, thật đã làm được nhân duyên tốt đẹp. Nếu hay hết lòng đền
đáp ân Phật, sẽ sớm được Di-đà thọ ký”.
Chân Nguyên kính vâng theo, mở mang tâm tông của Phật. Kinh nói: “Chẳng phải
bậc Đại Thánh vô cớ mà mở ra giáo pháp, bởi có duyên từ xưa mới có thể tỏ ngộ
tông chỉ. Ai là người hội được tâm tông, thật chính là con Phật, mồi đèn nối
pháp, tiếp độ quần sanh, diệu tâm Niết-bàn, đại ấn vô tướng”.
Thiền sư Chân Nguyên nói rõ, diễn giải rõ Phật tính dưới cái nhìn triết học,
không ngại “ngôn ngữ đạo đoạn”. Tác phẩm có thể dùng cho nhiều pháp môn khác
nhau, vận dụng cả Đại tạng kinh để diễn giải Phật tánh
-
tánh Không một cách phong phú, đa dạng, có chứng nghiệm, thực chứng. Có vẻ Chân
Nguyên giống như Hoàng Long
-
Dương Kỳ - giai đoạn sau của tông Lâm Tế. Tuy nhiên,
bản luận này có tính hiện đại và có tầm rộng lớn vì các công trình triết học
Phật giáo gần đây cũng hướng về nội dung này và vận dụng Đại tạng để dẫn chứng.
2.2. Đại ý tác phẩm Kiến tánh thành Phật lục
Đại ý tác phẩm được ghi trong bài tựa:
Kiến tánh thành Phật là liễu ngộ xưa nay không một vật.
Chính
quyển luận này là Tâm tông của Phật Tổ. Chính quyển luận này là Kiến tánh
thành Phật. Diệu lý của luận này như tia lửa mặt trời, được chừng một mảy tơ
thì sáng rỡ không cùng tận. Xem học mà ngộ đạo thì như uống nước cam lồ. Người
lượng cao quán sâu thì thấu suốt đáy nguồn của pháp.
2.3. Bản thể luận Phật giáo trong Kiến tánh thành Phật
2.3.1. Chủ đề
bản
thể
Bản thể nhìn từ triết học Phật giáo có thể được diễn đạt bằng các
thuật ngữ Phật giáo: Không, Phật, Chân như, Phật tính, Pháp thân... (những thuật
ngữ Phật học này có khi được các nhà nghiên cứu
triết
học Phật giáo xem là những phạm trù bản thể luận Phật giáo cơ bản). Tuy nhiên,
nếu dùng như một khái niệm có nội hàm nhất định thì nó cũng chưa diễn đạt hết
nghĩa của tính Không, Phật tính... (tính
Không,
Phật tính là tất cả, là vạn sự, không có giới hạn, trong tính chất không có tự
ngã, xả ly, vô chấp).
“Khái niệm Không (Sūnyatā) trong quan niệm bản thể của Phật giáo là thực tại
tuyệt đối, là thực thể của vũ trụ... Không là cội nguồn nguyên khởi của mọi
thứ... không có đối lập, không có mâu thuẫn, siêu việt lên tất cả, trạng thái
‘vô
sở trụ’”.
Bản thể luận trong tác phẩm này tiếp nối
bản
thể luận trong các
thiền
phái Phật giáo thời Lý-Trần:
“Để chỉ bản thể, các thiền sư
Thiền
phái Vô Ngôn Thông đã dùng nhiều từ khác nhau, chẳng hạn như diệu thể, thể, thân
tâm, không tịch, chân tính, pháp thân, pháp, tâm, chân như, Như Lai tạng, không,
hư không, pháp tính, Phật tính...”.
So với
Thiền
phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi,
việc thể hiện chủ đề bản thể cũng có vài điểm khác biệt. “Nếu thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi
còn vay mượn nhiều khái niệm
‘vô’,
‘vô
vi’...
mang tính chất
Đạo
giáo để chuyển tải tư tưởng của mình thì
Thiền
phái Vô Ngôn
Thông
đã dùng nhiều khái niệm nhà Phật hơn”.
“Quan niệm về thế giới của Tuệ Trung
Thượng
sĩ theo Nguyễn Hùng hậu: Bản thể như nhiên tự không tịnh, Bản thể như như chỉ
tự nhiên... Như vậy, bản thể của Thượng
sĩ
cũng
chính là cái vô, cái không (Sūnyatā).
Mọi cái đều xuất phát từ bản thể này”.
Bản thể ở Nhân Tông còn thể hiện ở những khái niệm như “chân như”, “thực
tướng”, “chân không”, “bảo
vật”. Ở đây ta cũng thấy Nhân Tông không dùng khái niệm “Phật tính” hay “tính
Phật” mà dùng khái niệm “Bồ-đề”,
“tính sáng”, “tính gương”...
Vào trọng tâm của tác phẩm,
Thiền
sư Chân Nguyên xác định tánh (tính) là gì? Một số khái niệm mới được bổ sung vào
quan niệm về bản thể từ thời Lý-Trần về trước ví dụ Di Đà tự tánh, tâm vương...
Nhưng nhìn chung đây là sự kế thừa sinh động và phong phú.
“Tánh
tức là tâm, tâm tức là Phật, Phật tức là đạo, đạo tức là Thiền. Thiền nghĩa là
kiến tánh. Vì vậy đưa cành hoa mỉm cười, hội được tông yếu đó là Thiền. Bốn mắt
nhìn nhau, lãnh nhận ý chỉ, đó là Thiền. Thiền là lặng lẽ, lặng lẽ nhưng thường
soi sáng, soi sáng nhưng thường lặng lẽ, thanh tịnh trong lặng nhiệm mầu, tròn
đồng thái hư, trọn không một vật, ứng dụng tự tại; thể tự không tịch, gọi đó là
Thiền, gọi đó là Giác”.
Phật là gì? Thành Phật là gì? Kiến tánh thành Phật theo Chân Nguyên là thế nào?
Theo Từ điển Phật học, danh
từ Phật có nhiều nghĩa (4 nghĩa):
1. Phật là người đã dứt khỏi luân hồi (S: saṃsāra), đạt giác ngộ hoàn
toàn, đạt giải thoát (Niết-bàn).
2. Phật:
Nhân vật lịch sử Thích Ca Mâu Ni. Ngài sinh năm 563 TCN, con trai của một tiểu
vương của dòng họ Thích-ca (S: Śākya), ngày nay thuộc nước Nepal, gần
Hy-mã-lạp sơn.
3. Phật: Phật tính, được xem là gốc của mọi hiện tượng; mọi hiện tượng là biểu
hiện của Phật tính. Nếu phái Tiểu thừa chỉ công nhận mỗi thời đại chỉ có một vị
Phật, và vị này phải là một nhân vật lịch sử và là đạo sư giáo hóa, thì phái Ðại
thừa cho rằng có vô số Đức Phật
được biểu hiện khác nhau.
Theo khái niệm Tam thân (S: Trikāya) của Ðại thừa thì Phật tính biểu hiện
qua ba dạng chính và mỗi dạng Phật biểu hiện một tính chất của chân như.
Ba thân
của Phật (Tam thân):
a) Pháp thân: là thể tính thật sự của Phật, đồng nghĩa với Chân như, là
thể của vũ trụ. Pháp thân là thể mà Phật và chúng sinh đều có chung. Pháp thân
được xem là thường hằng, vô tướng, nhất nguyên, là thể tính chung của các vị
Phật, là dạng tồn tại thật sự của chư Phật.
Pháp thân có nhiều tên gọi khác nhau, tùy trường hợp sử dụng. Có lúc người ta
xem nó là thể tính của mọi sự (Pháp giới [dharmadhātu, dharmatā], Chân
như [S: tathatā, bhūtatathatā], Không [S: śūnyatā], A-lại-da thức
[S: ālayavijñāna]) hay xem nó là Phật (Phật, Phật tính [S: Buddhatā],
Như Lai tạng [S: Tathāgata-garbha]).
b) Báo thân (報
身;
S: saṃbhogakāya), cũng được dịch là Thụ dụng thân (受
用):
chỉ thân Phật xuất hiện trong các Tịnh độ. Báo thân là thân do thiện nghiệp và
sự giác ngộ của các Bồ-tát mà hóa hiện cho thấy - cũng vì vậy mà có lúc được gọi
là Thụ dụng thân, là thân hưởng thụ được qua những thiện nghiệp đã tạo.
Báo thân thường mang 32 tướng tốt (S. dvātriṃśadvara-lakṣaṇa) và 80 vẻ
đẹp của một vị Phật và chỉ Bồ-tát mới thấy được trong giai đoạn cuối cùng của
Thập địa (s. daśabhūmi). Người ta hay trình bày Báo thân Phật lúc ngồi
thiền định và lúc giảng pháp Đại thừa.
c) Ứng thân (應
身;
s: nirmāṇakāya, cũng được gọi là Ứng hóa thân hoặc Hóa thân): là thân Phật xuất
hiện trên trái đất, với nhân trạng, với mục đích cứu độ con người.
4. Phật: Một khái niệm chỉ cái tuyệt đối, cuối cùng của thế giới. Thể này nằm
ngoài mọi suy luận, không thể nghĩ bàn, là bản thể không hề biến hoại của Phật
tính.
Thiền
tông
chú ý đến
“kiến tính thành Phật”
theo nghĩa thứ 3, 4.
Dĩ nhiên tùy trường hợp, có những trường hợp cần thời gian hàm dưỡng, bảo nhậm
để thành công trọn vẹn.
Quan niệm về bản thể luận của Chân Nguyên như thế nào?
Trước hết Chân Nguyên dựa vào kinh, luận chính thống để làm sáng rõ “tính”:
“Do
tâm thường giác nên gọi Đại giác Thế Tôn, cũng gọi Giác vương Như Lai hay gọi là
chủ hư không. Tức tâm là Phật, trọn không có Phật khác. Tức Phật là tánh, trọn
không có tánh khác. Như nắm tay làm thành do bàn tay, tợ nước thành sóng. Sóng
tức là nước, bàn tay tức là nắm tay. Nên kinh
Hoa nghiêm nói: Nếu người muốn rõ biết/ Ba đời tất cả Phật/ Nên quán tánh
pháp giới/ Tất cả chỉ tâm tạo. [Nhược nhơn dục liễu tri/ Tam thế nhất thiết
Phật/ Ưng quán pháp giới tánh/ Nhất thiết duy tâm tạo]. Lại nói: Tâm, Phật và
chúng sanh, ba thứ này đều không sai khác. Tất cả Phật pháp, tự tâm sẵn có, thôi
đem tâm tìm kiếm bên ngoài, bỏ cha chạy đi lang thang. Tiếng Phạn gượng gọi
Phật, Trung Hoa nói là tánh giác. Tánh này chẳng lìa thân ta, nếu người đốn ngộ
được cội gốc, người này sẽ chóng được thành Phật”.
Chân Nguyên tiếp tục làm rõ Phật, Phật tính:
“Hỏi:
Thế nào là Phật?
Đáp: Phật là tiếng Phạn ở Ấn Độ, Trung Hoa dịch là giác. Giác tức là bản tánh
linh giác. Song bản tánh linh giác này vốn chân thật rỗng rang và trong lặng
(chơn không trạm tịch), tròn đồng với thái hư, nghiễm nhiên sáng rỡ, trùm khắp
cả pháp giới. Bản tánh ấy, hay ứng cơ tiếp vật, nhướng mày chớp mắt, giơ tay dở
chân, chỉ một thể tròn sáng, mà sáu căn vận dụng thì tánh giác này ứng hiện. Vì
vậy, trong kinh
Lăng-già quyển hai, Phật bảo Đại Huệ và các Bồ-tát rằng: ‘Pháp tánh không
tịch, vốn không có ngôn thuyết. Ngôn thuyết đều do bốn thứ tướng vọng tưởng mà
dấy lên’. Thế nào là bốn thứ vọng tưởng? Phật bảo Đại Huệ: Một là tướng ngôn
thuyết. Hai là mộng ngôn thuyết. Ba là quá vọng tưởng kế trước ngôn thuyết. Bốn
là vô thủy vọng tưởng ngôn thuyết”.
Từ Phật,
Tính,
Không, Chân không, Chân Nguyên còn dùng cả Tâm vương của Duy Thức tông, Di Đà tự
tánh của Tịnh Độ tông. Đây là một đạng thức tích hợp, dung hợp văn hóa các tông
phái vốn đã được đặt ra từ Phật giáo thời Trần:
“Tâm
ấy rộng bao cả thái hư; tánh ấy lượng trùm khắp pháp giới, tròn lặng sáng rực,
không có Đông, Tây, Nam, Bắc, không có bốn phía, trên dưới, không vật có thể
sánh, gượng gọi là tâm. Buông ra thì lớn không gì ngoài, thu lại thì nhỏ không
gì trong. Bởi tâm vương
ẩn hiện, gồm chứa tất cả người vật, trước trời đất, suốt xưa nay, một mình tồn
tại, một mình chiếu soi, không hình không tướng, không xanh, vàng, đỏ, trắng,
không vuông tròn, dài ngắn, không đầu đuôi trước sau, không kiếp số, bờ mé,
giống như hư không, không có mặt mày có thể nói phải quấy. Tuy không xanh, vàng,
đỏ, trắng, vuông tròn, dài ngắn, nhưng hay hiện ra xanh vàng đỏ trắng, vuông
tròn dài ngắn. Cho nên Thiền sư Xuyên Lão nói: Ma-ha Đại Pháp vương/ Không ngắn
cũng không dài/ Xưa nay không đen trắng/ Tùy chỗ hiện xanh vàng. [Ma-ha Đại pháp
Vương/ Vô đoản diệc vô trường/ Bản lai vô táo bạch/ Tùy xứ hiện thanh hoàng].
Pháp tánh vốn tùy duyên, sắc không đều chẳng ngại. Vào sông thì tùy khúc uốn
quanh; nước thì thuận theo vật vuông tròn. Như hạt châu ma-ni, ánh hiện ra năm
màu, tùy loại đều hiện, trọn chẳng biến đổi. Dù không hình tướng mà hay hiện
thành tất cả tướng, chân không mà diệu hữu, bất biến mà tùy duyên. Chân không là
ban đầu của tánh, diệu hữu là ban đầu của khí. Nên biết, núi sông, quả đất, sum
la vạn tượng, tình với
vô tình, cho đến niệm thô, niệm tế, pháp nhiễm, pháp tịnh, không một vật, một
trần nào ra ngoài tâm vương.
Đây là diệu hữu”.
“Nên
nói pháp thân thanh tịnh tức là tánh của mọi người, báo thân viên mãn tức là trí
của mọi người, hóa thân ngàn trăm ức tức là hạnh của mọi người. Pháp thân thanh
tịnh là sẵn thanh tịnh như vậy, là chí tôn từ bao thuở, thấy biết rất nhiệm mầu,
không gì sánh ngang, trong lặng chân thật thanh tịnh, không hình không tướng,
gọi đó là pháp thân thanh tịnh. Pháp thân tuy không hình không tướng mà hay hiện
tất cả hình tướng. Đã thành các hình tướng thì gọi đó là ứng thân. Ứng thân thì
có thiện ác, tốt xấu, tùy theo nghiệp báo mà thọ lấy thân. Nghiệp báo thiện tức
có tướng tốt, nghiệp báo ác tức có tướng xấu. Tùy nơi nghiệp báo mà thọ lấy
thân, gọi là báo thân. Báo thân, nghĩa là thân nghiệp báo một đời. Còn ứng thân
tức là thân ứng hiện ra. Sao gọi là thân ứng hiện ra? Tức nhân nghiệp báo cảm
thành mà ứng hiện ra có thân, gọi đó là thân báo ứng. Nghĩa là pháp thân hay ứng
vào sắc thân, ứng nơi mắt thấy sắc, ứng nơi tai nghe tiếng, ứng nơi mũi ngửi
mùi, ứng nơi lưỡi đàm luận, ứng nơi thân cảm xúc, ứng nơi ý biết pháp, cho đến
giơ tay động chân đều là ứng thân”.
Bản thể được biểu hiện qua thơ:
Di Đà tự tánh
vốn như như,
Rỗng lặng sáng tròn rực thái hư.
Cha mẹ chưa sanh, mày mặt thật,
Trở về đâu chẳng gặp y ư?
(Di Đà tự tánh bổn như như,
Không tịch viên quang thước thái hư.
Phụ mẫu vị sanh chơn diện mục,
Đông Tây quy khứ tất phùng cừ).
“Lại
nói:
- Chẳng phải không, chẳng phải sắc, ứng hóa thành muôn thứ mà chẳng lìa một chân
thật. Tâm vương
là thể như như, trong lặng thường trụ; vốn tự viên thành, dường như hư không;
ứng vật hiện hình,
như trăng trong nước. Nghĩa là tâm vương hay ứng hiện vào trong các loài, nên
nói là thức hòa hợp. Bản tánh tâm vương như gương tròn lớn
[đại viên cảnh]
hiện các thứ hình sắc. Tâm vương vốn không hình tướng, tuy không hình tướng mà
hay hiện thành tất cả các tướng, nhưng lại chẳng nhiễm tất cả các tướng. Tướng
đến thì hiện, tướng đi thì mất, tướng tụ thì có, tướng tan thì không; tướng tuy
có đến đi, tụ tan mà tâm vương vốn tự trong trẻo thường lặng lẽ. Như gương tròn
lớn hay hiện tất cả vật, tuy hay hiện tất cả vật mà chẳng nhiễm tất cả vật; vật
đến thì hiện, vật đi thì mất, vật có đến đi hiện mất, nhưng gương vốn tự sẵn vậy
chẳng động. Vì vậy đem gương tròn dụ tâm vương. Song tâm vương chẳng nhiễm các
vật, xưa nay thanh tịnh, trong lặng thường trụ, sạch trọi trơn, bày trơ trơ,
không một vật, không thể nắm bắt. Nên nói pháp thân thanh tịnh tức là tánh của
mọi người, báo thân viên mãn tức là trí của mọi người, hóa thân ngàn trăm ức tức
là hạnh của mọi người”.
“Xưng
Phật xưng Tổ, trị kẻ dưới mà
tạm mượn tên; rất diệu rất huyền, tối thượng vô tướng; thường lạc ngã tịnh, tột
lý
mà chứng biết; pháp thân vô vi, vượt lên trên Phật Tổ; tên Phật hiệu Tổ cũng là
giả
danh; pháp tánh chân không, trọn không một vật”.
Đôi khi tác giả còn dùng khái niệm “khí” trong Lão Trang và Lý học Trung Hoa
để diễn đạt cho chân không diệu hữu.
“Chân
không là ban đầu của tánh, diệu hữu là ban đầu của khí. Nên biết, núi sông, quả
đất, sum la vạn tượng, tình với vô tình, cho đến niệm thô, niệm tế, pháp nhiễm,
pháp tịnh, không một vật, một trần nào ra ngoài tâm vương. Đây là diệu hữu”.
“Ngài
nói thêm rằng từ vạn vật hữu tình vô tình trên thế
gian này cho đến các tâm niệm thô tế đều không ra ngoài tâm vương, tức là ngoài
cái tánh giác hay cái chân không. Từ cái chân không theo duyên mà hiện có đủ thứ
gọi đó là diệu hữu. Đó là ý nghĩa chân không diệu hữu theo cái nhìn của ngài
Chân
Nguyên”.
Bản thể được
Chân
Nguyên miêu tả rất phong phú, linh hoạt, phản ánh không khí văn hóa thời đại. Dù
đứng ở nhiều truyền thống triết học
-
tôn giáo khác nhau, người đọc cũng có thể cảm nhận được nội dung cao siêu, phức
tạp vào bậc nhất của
triết
học Phật giáo.
2.3.2. Mối quan hệ giữa bản thể và thế giới hiện tượng
Bản thể luận Phật giáo còn chú ý đến mối quan hệ giữa bản thể và thế giới
hiện tượng.
Bản thể và hiện tượng (hình tướng) được giới thiệu bắng pháp thân (bản thể)
- ứng thân, hóa thân (hiện tượng).
“Kinh
nói: ‘Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng’. Ứng Phật, Hóa Phật,
ba mươi hai tướng,
trăm ức hóa thân, cho đến các duyên cảnh giới trang nghiêm,
tất cả Như Lai thần thông thị
hiện,
quyền bày
phương tiện tiếp dẫn chúng sanh,
đều chẳng phải lý thật. Bởi lý rốt ráo chân thật tức là hư không, hư không tức
là
Như Lai, Như lai tức là
không tịch, không tịch tức là Pháp thân, Pháp thân tức là
Phật thân. Đây chính là thân Phật,
người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành”.
Bản thể (pháp thân, chân thân, Như Lai, tánh chân) trong mối quan hệ với hiện
tượng (muôn pháp):
Khái niệm Phật
thân
trong Đại thừa:
Học thuyết của các nhà Đại thừa thời kỳ đầu hầu hết chủ yếu được tìm
thấy trong Thập bát thiên tụng Bát-nhã Ba-la-mật (Aṣṭādasasāhasrikā
Prajñāpāramitā,
十八千頌般若波羅密),
cùng với trường phái Trung luận
(Mādhyamika,
中論)
của Đại sư Long Thọ (龍樹).
Cả hai kinh và luận này đã đưa
ra quan điểm về hai thân như sau:
Sắc thân (Rūpa-kāya,
色身
hoặc ứng thân, Nirmāṇa-kāya,
應身)
là chỉ cho thân thể,
tướng thô và tướng tế. Nói chung là thân của con người.
Pháp thân (Dharma-kāya,
法身),
có hai nghĩa: 1) Thân pháp, do con người giác
ngộ thành Phật và 2) Nguyên lý siêu hình của vũ trụ, tức Chân như (Tathatā,
真如).
Pháp
thân thanh tịnh Phật vô tướng
Tịch quang
tròn lặng đồng hư không
Hình nghi chẳng
mượn dùng tiếng cầu
Dung mạo dính gì với
sắc
pháp.
Muôn pháp đồng về biển tánh chân,
Một trần chẳng nhiễm vốn nguồn linh.
Rành rành hiển hiện chân thân Phật,
Lồ lộ Như Lai đối mặt luôn.
(Thanh tịnh pháp thân vô tướng Phật,
Tịch quang viên trạm đẳng hư không.
Hình nghi phi giả dĩ thanh cầu,
Dung mạo khởi quan ư sắc pháp.
Vạn tượng đồng quy chân tánh hải,
Nhất trần bất nhiễm bổn linh nguyên.
Đường đường hiển hiện Phật chân thân,
Lộ lộ Như Lai thường đối diện).
Mối quan hệ bản thể hiện tương khá phong phú, linh động: Bản thể (Pháp thân,
chân
không,
Phật an cư)
-
Hiện tượng (ứng thân, hóa thân, danh tướng pháp):
Ứng, hóa chư tôn chưa ra đời,
Pháp thân rỗng lặng sẵn vậy thôi.
Tự giác giác tha gọi là Phật,
Từ bi thuyết pháp lợi trời người.
Suốt tột xưa nay vốn như như,
Trong ánh tịch quang rực thái hư.
Trang trọng vượt lên danh tướng pháp,
Chân không đó Phật tự an cư.
(Ứng, Hóa chư tôn vị xuất tiền,
Pháp thân không tịch bổn như nhiên.
Tự giác giác tha danh viết Phật,
Từ bi thuyết pháp lợi nhân thiên.
Cùng kim tuyên cổ bổn như như,
Thường tịch quang trung thước thái hư.
Nghiễm hĩ việt siêu danh tướng pháp,
Chân không thị Phật tự an cư).
Môi quan hệ
bản
thể - hiện tượng
-
ba thân (Ứng thân, Hóa thân, Pháp thân):
Bản thể (chân
không, tánh,
khí,
tâm vương)
-
hiện tượng (diệu hữu). Diệu hữu này tùy duyên mà biểu hiện hình tướng, màu sắc.
Bất biến (bản thể) nhưng tùy duyên (hiện tượng). Đây cũng là mối quan hệ tánh
-
tướng, thể - dụng. Tánh là thể, tướng là dụng.
“Pháp
tánh vốn tùy duyên, sắc không đều chẳng ngại. Vào sông thì tùy khúc uốn quanh;
nước thì thuận theo vật vuông tròn. Như hạt châu ma-ni, ánh hiện ra năm màu, tùy
loại đều hiện, trọn chẳng biến đổi. Dù không hình tướng mà hay hiện thành tất cả
tướng, chân không mà diệu hữu, bất biến mà tùy duyên. Chân không là ban đầu của
tánh, diệu hữu là ban đầu của khí
(Lý khí
-
Tống
Nho
-
Lý học).
Nên biết, núi sông, quả đất, sum la vạn tượng, tình với vô tình, cho đến niệm
thô, niệm tế, pháp nhiễm, pháp tịnh, không một vật, một trần nào ra ngoài tâm
vương. Đây là diệu hữu”.
Ba thân chính là một thân
-
Pháp thân:
“Lại
nói: Sao gọi là hóa thân? Đã vào ứng thân, đi đứng nằm ngồi, thấy nghe hiểu
biết, làm mọi thứ việc lành, cho đến trăm ngàn pháp môn, phương tiện diệu hạnh,
tùy cơ biến hóa, ứng dụng không cùng, gọi đó là hóa thân. Tuy riêng có ứng và
hóa, cũng đều từ pháp thân lưu xuất nên nói: Ba thân vốn chính là một thân”.
Kinh A Di Đà và kinh Bát-nhã
có mục đích tối thượng là như nhau. Sắc và không như nhau (tinh hoa của Bát-nhã
tâm kinh).
Những triết lý này được diễn tả bằng hình tượng dễ hiểu: trăng trong nước.
“Bởi
chân Phật thì không hình, chân kinh thì không quyển, bao la pháp giới, tròn đồng
thái hư, chẳng thêm chẳng bớt, không thiếu không dư, người người sẵn đủ, kẻ kẻ
viên thành, bản tánh Di Đà, chân kinh Bát-nhã, kho báu nhà mình, nguyên là vật
tự có. Song tánh đạo không khác, sắc và không nhất như, viên dung cả pháp giới,
đối diện ở trước mắt, ứng vật hiện hình như trăng trong nước”.
Kiến giải bản thể - hiện tượng bằng kinh Pháp
hoa
và kinh Pháp bảo đàn:
“Kệ
nói: Chẳng biết báu trong áo/ Vô minh say tự tỉnh/ Trăm hài đều rã tan/ Một vật
vững sáng mãi. [Bất thức y trung bảo/ Vô minh túy tự tỉnh/ Bách hài câu hội tán/
Nhất vật trấn trường linh]. Áo là sắc thân, báu là tự tánh. Trước kia Lục tổ Huệ
Năng đốn ngộ tự tánh, tâm châu linh bảo, bèn đáp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn rằng:
‘Tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh! Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh!
Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng tự sinh diệt! Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ! Đâu
ngờ tự tánh hay sinh muôn pháp!”. Hội rằng: Tánh đủ mọi lý mà ứng với muôn sự”.
Chân Nguyên xác định mạnh mẽ Phật tánh là gì và mối quan hệ Phật tánh và sự vật
hiện tượng bằng trên 20 câu hỏi đáp đồng thời:
Tự tánh là tụng kinh, niệm Phật, đánh hét (phương tiện của Thiền tông), đi đứng
nằm ngồi, mắc áo ăn cơm, bửa củi gánh nước....
Điều này đã tiếp nối truyền thống Thiền. Mã Tổ nói: “Tức tâm tức Phật”. Cảm
Thành trả lời câu hỏi của một vị
Tăng
nghi vấn thế nào là Phật, bằng câu trả lời nguyên văn “Biến nhất thiết xứ” (徧
一切處).
Lê Mạnh Thát dịch là “Khắp hết mọi nơi”.
Ngô Đức Thọ - Nguyễn Thúy Nga dịch là “Khắp
tất cả mọi nơi”.
Tiếp tục truyền thống này, Cảm Thành hỏi Thiện Hội (Tổ Phong) về Phật. Tổ Phong
trả lời: “Biến nhất thiết xứ vô phi Phật tâm” (徧一切處無非佛心),
tức là
“Khắp
cả mọi nơi, không chỗ nào là chẳng phải tâm Phật”. Phật tâm ở đây là
chân
tâm,
chân
như, Phật tính,
chân
không, Phật tính, tính Không...
Điều này cũng gặp gỡ với
Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi
của
Lý Thừa Ân ở
Tuyên Quang:
“Chân
không tuyệt đối là trạng thái tĩnh lặng sâu xa, vượt trên mọi phân biệt thanh
tịnh và uế trược; từ đó
sinh ra diệu hữu, bao trùm trước mọi hình thể và vận động”.
(夫湛寂真空,蘊清濁未分之上;
發揮妙有,
包形器運動之先).
Bản thể luận Phật giáo ở đây thật sáng rõ, chân thực, thể hiện
tầm triết học Phật giáo của Đại Việt thời
kỳ
này thật thâm sâu, không kém các quốc gia khác.
Hơn nữa, truyền thống đó từ nhiều thế hệ chư Phật:
Xưa Đức Phật Bổn Sư Thích Ca đinh ninh dặn dò: Phật còn tại thế, lấy Phật làm
thầy. Phật vào Niết-bàn lấy giới làm thầy. Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. Tự
tánh xưa nay rỗng lặng tròn sáng, trong lặng nhiệm mầu, như như đó là chân Phật
của ta, dẫu Phật ở đời cũng không có lý khác”.
Bản thể hiện tượng thống nhất, sắc không không hai, tùy duyên mà biểu hiện, “ứng
vật hiện hình”:
“Kinh
nói: ‘Chân Phật Pháp thân giống như hư không
(śūnyatā)’.
Đây thật là Pháp thân tức hư không, hư không tức Pháp thân. Hư không cùng với
Pháp thân không có tướng khác, chư Phật cùng với chúng sanh không có tánh khác.
Chẳng ngộ tự tánh tức gọi chúng sanh, giác biết tự tánh nên gọi chư Phật. Đó là
chân Phật vốn không hình tướng, đầy khắp cả hư không, thế giới, đâu có đến đi?
Song pháp thân viên dung rỗng thênh, trong lặng vô vi, trọn không một vật, chẳng
rơi vào các số. Tuy vô vi, chẳng rơi vào các số, mà cũng hay ứng vật hiện hình,
ẩn hiện cùng bày, sắc và không chẳng hai, đầy đủ mọi lý, làm ra muôn việc. Đó
chính là mọi người trong mười hai giờ đi đứng nằm ngồi, thấy nghe hiểu biết,
nhướng mày
chớp mắt, ứng cơ tiếp vật, giơ tay động chân, một thể tròn sáng, sáu căn vận
dụng, ứng với tiếng với âm, hay thấy hay nghe, biết nói biết bàn, biện rõ phải
quấy”.
Như Lai, Pháp thân, Phật thân, không tịch, mọi người sẵn đủ, không cần tìm
ngoài:
“Kinh
nói: ‘Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng’. Ứng Phật, Hóa Phật, ba mươi hai
tướng, trăm ức hóa thân, cho đến các duyên cảnh giới trang nghiêm, tất cả Như
Lai thần thông thị hiện, quyền bày phương tiện tiếp dẫn chúng sanh, đều chẳng
phải lý thật. Bởi lý rốt ráo chân thật tức là hư không
(śūnyatā),
hư không tức là Như Lai, Như Lai tức là không tịch, không tịch tức là Pháp thân,
Pháp thân tức là Phật thân. Đây chính là thân Phật, người người sẵn đủ, kẻ kẻ
viên thành”.
Chân không diệu hữu, bao hàm quả đất, hư không trong tính chất không tự
tánh. Dùng ví dụ phổ biến trong kinh Lăng-già,
Viên
giác
“hoa đốm giữa hư không”. Chân lý đó đi vào Tịnh
độ:
Tịnh độ rành rành ngay trước mắt,
Chẳng nhọc khảy tay đến Tây thiên.
Pháp thân trang trọng siêu ba cõi,
Hóa hiện Di Đà ngồi chín sen.
(Tịnh độ phân minh tại mục tiền,
Bất lao đàn chỉ đáo Tây thiên.
Pháp thân nghiễm hỷ siêu tam giới,
Hóa hiện Di Đà tọa cửu liên).
Chân lý đó đi vào kinh hệ
Bát-nhã:
Trên đỉnh Tỳ-lô vui quá chừ,
Trong ánh tịch quang không vật dư.
Tức sắc tức không thật rành rõ,
Chẳng tâm chẳng Phật tự như như.
(Tỳ-lô đảnh thượng lạc vô dư,
Thường tịch quang trung nhất vật vô.
Tức sắc tức không chân liễu liễu,
Phi tâm phi Phật tự như như).
Thiền sư Thạch Liêm cũng từng nói: “Khắp
cõi hư không đều là Tịnh độ duy tâm, tận cùng pháp giới đều là
Di Ðà tự tính”.
C. Kết luận
Với nguồn tư liệu phong phú, cũng như nhiều kinh nghiệm thực hành, quan niệm về
bản thể của Chân Nguyên được thể hiện rất sinh động, phong phú, có thể dùng cho
pháp môn Thiền, Tịnh hoặc Thiền Tịnh song tu. Quan niệm này vừa tiếp thu truyền
thống Thiền phái Trúc Lâm, vừa thích nghi với xã hội Việt Nam thời hậu Lê. Qua
tác phẩm này,
Thiền
sư Chân Nguyên cũng góp phần làm sáng rõ những vấn đề cốt lõi trong tư tưởng
Phật giáo cho thế hệ đương thời và cho cả những thế hệ đời sau. Đây chỉ là những
phát hiện ban đầu. Vấn đề này vốn quá phức tạp, rất mong nhận được sự chỉ giáo
của
chư thiện hữu tri thức.
Theo
Thiền luận, D.T. Suzuki, quyển hạ (luận 7).
Nguyên tác
Anh ngữ: Bodhisattva and Śūnyatā in the Early and Developed
Buddhist Traditions,
Đại học Delhi năm 2003.
Bồ-tát và tánh Không trong kinh tạng Pāli và Đại thừa,
Thích nữ Giới Hương, NXB.Tổng Hợp TP.HCM,
2008.
Nguồn:
Garma C.C.
Chang, Buddhist Teaching of Totality, Great Britain: The
Pennsylvania State University, 1972,
pp.100:
“1.
Tính Không như không chướng ngại… giống như hư không trống không, hiện
hữu
trong mọi hiện tượng nhưng chưa bao giờ cản trở hoặc chướng ngại bất cứ
tướng trạng nào.
2. Tính Không như Nhất thiết trí
(Nhất
thiết chủng trí
)…
giống như trống không, ở khắp nơi, nắm giữ và
biết mọi điều, mọi nơi.
3. Tính Không như sự bình đẳng… giống như Không, bình đẳng với tất cả,
không
phân biệt thiên lệch bất cứ nơi nào.
4. Tính Không biểu thị tính chất mênh mông… giống như không, vô biên,
rộng
lớn
và vô tận.
5. Tính Không không có hình sắc và bóng dáng… giống như không, không
mang
dáng dấp hoặc biểu tượng gì.
6. Tính Không biểu thị sự thanh tịnh… giống như không, luôn luôn trong
sáng
không gợn phiền não, ô uế.
7. Tính Không chỉ sự bất động… giống như không, luôn luôn ở trạng thái
dừng
chỉ, năng động nhưng vượt lên tiến trình sinh và diệt.
8. Tính
Không chỉ sự phủ định tích cực… phủ định tất cả những gì có giới hạn và
kết
thúc.
9. Tính Không biểu thị sự phủ định của phủ định… phủ định tất cả ngã
chấp và
đoạn diệt những chấp thủ vào Tính Không (chỉ ra tính siêu việt xuyên
suốt giải
thoát khỏi các trói buộc).
10. Tính Không biểu thị sự không đạt được hoặc không nắm giữ được… giống
như
không gian hoặc hư không, không lưu dấu hoặc nắm giữ pháp gì”.
Thích nữ Giới Hương
(2008),
Bồ-tát và tánh Không trong Kinh tạng Pāli và Đại thừa, NXB.Tổng
Hợp TP.HCM,
trang 136-137.
Thiền sư Phổ Chiếu
(1973),
Chơn tâm trực thuyết,
Thích Đắc Pháp dịch,
tu viên Chơn Không, 1973; (tr.21-22).
Kinh Lăng-già,
quyển
4 cũng đã đưa ra quan điểm như vậy:
-
“Như
thế, Đại Huệ! Ta ở nơi thế giới Ta bà này
có ba A-tăng-kỳ trăm ngàn danh
hiệu, phàm phu thảy đều nghe,
mỗi mỗi xưng danh hiệu ta mà chẳng biết
là biệt danh của Như Lai Ta. Đại Huệ!
Hoặc có chúng sanh biết Ta là Như
Lai, hoặc biết ta là Nhất thiết trí,
hoặc biết là Phật, hoặc biết là Người Cứu thế,
hoặc biết là Người Tự giác, hoặc biết
là Đạo sư, hoặc biết là Quảng đạo, hoặc
biết là tất cả đạo, hoặc biết là Thiên Nhơn, hoặc biết là Phạm (người thanh
tịnh), hoặc biết là trời, hoặt biết là tự
tại, hoặc biết là thù thắng,
hoặc biết là Tiên nhơn tóc vàng, hoặc biết là chơn thật, hoặc biết là mặt
trăng, hoặc biết là mặt trời,
hoặc biết là chúa tể, hoặc biết là vô sanh,
hoặc biết là vô diệt, hoặc biết là tánh Không,
hoặc biết là như như, hoặc biết là chơn
đế, hoặc biết là thật tế, hoặc
biết là pháp tánh, hoặc biết là Niết-bàn,
hoặc biết là thường, hoặc biết là bình đẳng,
hoặc biết là bất nhị, hoặc biết là vô
tướng, hoặc biết là giải thoát,
hoặc biết là đạo, hoặc biết là sanh, v.v. Đại Huệ! Ba A-tăng-kỳ trăm
ngàn danh hiệu như thế, chẳng thêm
chẳng
bớt, thế giới này và thế
giới khác thảy đều biết Ta, như mặt
trăng trong nước chẳng xuất chẳng nhập...
Vì chẳng biết tự thông hội về căn
bản, nên đối với tất cả pháp, đuổi theo ngôn
thuyết mà chấp trước.
(Kinh
Lăng-già,
quyển
4, Thích Duy Lực dịch)
Nguồn
https://thuvienhoasen.org/p16a998/quyen-bon
(Truy cập ngày 29-3-2025).
“Nếu chỉ tu tập
Bát-nhã,
không tu tập năm pháp ba-la-mật kia thời công đức không đầy đủ, không
tốt, không diệu” (Viện
NCPH Việt Nam (1997) Luận Đại trí độ, quyển
3,
Thích Thiện Siêu dịch,
tr.4).
Thích nữ Giới Hương
(2008),
Bồ-tát và tánh Không trong Kinh tạng Pāli và Đại thừa,
NXB.Tổng Hợp TP.HCM,
tr.227.
Edward Conze
(1968), Thirty
years of Buddhist studies: selected essays. xii,
pp.54.
Oxford: Burno Cassirer.
Edward Conze: Thirty years of Buddhist studies:
selected essays. xii,
pp.54.
Oxford: Burno Cassirer, [1968]:
“...The
Bodhisattva Ideal The creation of the Bodhisattva ideal and the
elaboration of the doctrine of "Emptiness" are the two great
contributions which the Mahayana has made to human thought.
....
Compassion governs his conduct towards his fellow beings, wisdom his
attitude to Reality. The Mahayana teachings on compassion are easy,
those on wisdom hard to understand. Everyone listens gladly when the
talk is about himself, but gets rather bored when feeling”.
Tạm dịch:
“Sự
kết hợp giữa lòng từ bi và trí tuệ đã tạo nên một nhân vật lý tưởng có
sức hút mạnh mẽ.
Một mặt, lòng từ bi của một vị Bồ-tát
khiến ngài sẵn sàng chịu đựng khổ đau vô hạn để cứu giúp tất cả chúng
sinh. Ngài không màng đến sự giải thoát cá nhân mà chọn ở lại trong thế
giới luân hồi để hướng dẫn người khác. Điều này tạo nên một hình mẫu đạo
đức cao cả mà ai cũng có thể ngưỡng mộ và noi theo.
Mặt khác, trí tuệ của Bồ-tát giúp ngài
hiểu được bản chất thật sự của vạn vật, đặc biệt là giáo lý về tánh
Không của Đại thừa. Đây là sự thấu hiểu rằng mọi hiện tượng đều không có
thực thể cố định, mà chỉ tồn tại trong sự tương quan và duyên sinh.
Chính trí tuệ này giúp Bồ-tát hành động mà không bị ràng buộc bởi chấp
ngã hay cố chấp vào bất cứ điều gì.
Sự kết hợp của hai yếu tố này đã biến
hình tượng Bồ-tát trở thành một lý tưởng vĩ đại không chỉ trong Phật
giáo mà còn trong tư tưởng nhân loại”.
“Phản đối Nho học khoa cử từ chương, ông tìm đến núi
Yên
Tử để ôn lại truyền thống oanh liệt của Thiền tông Trúc Lâm...” (Nguyễn
Đăng Thục (1998), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 6, NXB.TP.HCM,
tr.93).
Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hóa phương Đông, NXB.ĐHSP
HN, tr.265.
Quan niệm của Thiền tông: Kiến tánh
thành Phật, thể hiện quan
niệm này.
Chân Nguyên - Nguyễn Tường Bách (1995),
Từ điển Phật học, NXB.Thuận Hóa, Huế, tr.323-324.
Thích Thanh Từ (2013), Kiến tánh thành Phật giảng giải, NXB.Văn
hóa -
Văn
nghệ,
TP.HCM,
tr.11.
Pháp thân có nhiều tên gọi khác nhau, tùy trường hợp sử dụng. Có lúc
người ta xem nó là thể tính của mọi sự (Pháp giới [dharmadhātu,
dharmatā], Chân như [S: tathatā, bhūtatathatā], Không [S:
śūnyatā], A-lại-da thức [S: ālayavijñāna]) hay xem nó là Phật
(Phật, Phật tính [S: Buddhatā], Như Lai tạng [S:
Tathāgata-garbha]).
Chân Nguyên - Nguyễn Tường Bách (1995), Từ điển Phật học,
NXB.Thuận Hóa, Huế, tr.323-324.
-
Pháp thân có nhiều tên gọi khác nhau, tùy trường hợp sử dụng. Có lúc
người ta xem nó là thể tính của mọi sự (Pháp giới [dharmadhātu,
dharmatā], Chân như [s: tathatā, bhūtatathatā], Không [s: śūnyatā],
A-lại-da thức [s: ālayavijñāna]) hay xem nó là Phật (Phật, Phật tính
[s: buddhatā], Như Lai tạng [s: tathāgata-garbha]).
Chân Nguyên – Nguyễn Tường Bách (1995), Từ điển Phật học, Nxb Thuận Hóa,
Huế, trang 323-324.
Tâm vương và quá trình chuyển thức thành trí (trực nhận tính Không để
trở thành 4 trí: Bình đẳng tánh trí, Đại viên cảnh trí, Diệu quan sát
trí, Thành sở tác trí. 4 Trí này cũng là Phật trí, Phật tính).
- Nhất thiết chủng thức thành nhất thiết chủng trí (nhất thiết trí).
-
Tóm lại, tâm hay tàng thức, là thức căn bản, có những tên chính sau
đây: năng tàng, sở tàng, ngã ái chấp tàng, nhất thiết chủng thức.
[Thức
biến thức thành trí -
Nhất thiết chủng trí là trí của Phật].
Những tên này để
chỉ một vài công năng của tàng thức mà thôi. Tâm
còn nhiều công năng và các tên khác nữa, như
sở tri y, dị thục thức.
(Duy
biểu
học,
tr.17).
https://thuvienhoasen.org/images/file/S_HMvp1G0QgQANIM/duy-bieu-hoc.pdf
(truy cập ngày 24-3-2025).
- Muốn lấy
nhất
thiết trí làm đầy đủ nhất thiết chủng trí phải tập hành Bát-nhã
Ba-la-mật
(luận
Đại
trí
độ,
quyển
2, tr.244).
- Trí tuệ của Phật chứng được là thật Ba-la-mật. Nhân nơi Ba-la-mật ấy
mà mà sở hành của Bồ-tát
cũng gọi là Ba-la-mật; vì là ở trong nhân nói quả vậy. Bát-nhã-ba-la-mật
ấy, ở trong tâm Phật thì đổi tên gọi là
Nhất
thiết chủng. Bồ-tát
thực hành trí tuệ cầu đến bờ kia, nên gọi là
Ba-la-mật;
Phật
đã đến bờ kia, nên gọi trí của
Phật
là trí Nhất thiết chủng. (Viện NC Phật học Việt Nam (1997), Luận Đại
trí
độ,
tập
1, Thích Thiện Siêu dịch, tr.689).
-
Theo Duy biểu
học,
tâm thức mỗi cá nhân có thể chia ra làm tám loại,
gọi là tám tâm vương hay tám thức (8 consciousnesses). Quý thầy chỉ
tạm phân chia ra để cho dễ hiểu. Thực ra tám tâm thức đó không độc
lập với nhau mà trong một cái đều có chứa đựng bảy cái kia. Tám
thức hoạt động như một khối,
(Duy
biểu
học
-
Nhất
Hạnh,
tr.15)
https://thuvienhoasen.org/images/file/S_HMvp1G0QgQANIM/duy-bieu-hoc.pdf
(truy cập ngày 24/3/2025)
-Thức thứ 8 và Phật tính:
Pháp thân có nhiều tên gọi khác nhau, tùy trường hợp sử dụng. Có lúc
người ta xem nó là thể tính của mọi sự (Pháp giới [dharmadhātu,
dharmatā], Chân như [S: tathatā, bhūtatathatā], Không [S:
śūnyatā], A-lại-da thức [S: ālayavijñāna]) hay xem nó
là Phật (Phật, Phật tính [S: Buddhatā], Như Lai tạng [S:
Tathāgata-garbha]).
Chân Nguyên - Nguyễn Tường Bách (1995), Từ điển Phật học,
NXB.Thuận Hóa, Huế, tr.323-324.
-
Chuyển thức thứ 8 thành Đại viên cảnh trí (trí của Phật, Phật tính):
(Như
trên nói chuyển thức thành trí, trong kinh nói: Chuyển năm thức trước
làm Thành sở tác trí, chuyển thức thứ sáu làm Diệu quan sát trí, chuyển
thức thứ bảy làm Bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ tám làm Đại viên
cảnh trí. Tuy thức thứ sáu, thức thứ bảy là ở trong nhân chuyển, còn năm
thức trước và thức thứ tám là trên quả chuyển, chỉ chuyển tên mà không
chuyển thể).
Vì sao nói
thức thứ sáu và thức thứ bảy là chuyển trong nhân, còn năm thức trước và
thức thứ tám là chuyển trên quả? Bởi vì khi chúng ta tu là tu thức thứ
sáu và thức thứ bảy, tức là chuyển trong nhân. Tỉ dụ khi mắt chúng ta
thấy sắc, ý liền chạy theo sắc mà phân biệt, cho nên có niệm yêu ghét.
Muốn chuyển ý thức phải làm sao? Tức phải xoay nó trở về, không để nó
duyên theo trần cảnh, gọi là phản quan hay là soi trở lại, đó là chuyển
thức thứ sáu. Còn thức thứ bảy cũng vậy, thức này hằng chấp ngã, muốn
chuyển nó tức phải phá ngã chấp. Khi chuyển thức thứ sáu và thức thứ bảy
rồi, thì năm thức trước (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thức) và thức thứ tám
cũng theo đó mà chuyển, đó gọi là chuyển trên quả, tức là tất cả chủng
tử trong thức thứ tám lần lần tiêu sạch và thức này chuyển thành Đại
viên cảnh trí. Như vậy chủ yếu của sự tu hành là tu ngay nơi thức thứ
sáu và thức thứ bảy gọi là chuyển nhân, còn năm thức trước và thức thứ
tám không tu mà được chuyển gọi là chuyển quả.
(Thích Thanh Từ, Kinh Pháp bảo
đàn
giảng giải
(phẩm
7.
Cơ duyên):
https://thientruclam.info/ht-thich-thanh-tu/kinh-phap-bao-dan-giang-giai/pham-7-co-duyen-giang-4-tri-thong
(truy
cập ngày 21-3-2025).
- Biến thức thành trí được nói
trong
kinh Lăng-già,
chương
2:
“Phật bảo Đại
Huệ:
- Tập khí tự
tánh của tất cả thức đều là pháp sanh
tử, như tập khí Tạng
thức (thức thứ tám), tập khí ý
(thức thứ bảy), tập khí ý
thức (thức thứ sáu), tập khí kiến
(tiền ngũ thức). Nếu chuyển được các tập
khí ấy, tức là chuyển sanh tử,
gọi là Niết-bàn. Cái Niết-bàn của
ta và chư Phật sở thuyết, tức là cảnh giới tánh
Không của các pháp”.
https://thuvienhoasen.org/p16a996/quyen-thu-nhi
(truy
cập ngày 27-3-2025).