Thoái thất và Không thoát thất
thoai that
Thoái thất và Không thoát thất[1]
Trung tâm Trí Tịnh dịch
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Độc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước
Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có pháp thoái thất, pháp không thoái thất và sáu thắng xứ[2]. Hãy lắng nghe và khéo suy
nghĩ, Ta sẽ giảng nói cho các thầy.
Thế nào là pháp thoái thất? Nghĩa là, khi mắt thấy sắc rồi sinh tâm ham
muốn nên Tỳ-kheo ấy vui mừng, khen ngợi, nắm giữ, dính mắc và bị pháp ấy xoay
chuyển. Nên biết Tỳ-kheo ấy đã thoái thất các pháp lành, các pháp mà Thế Tôn đã
chỉ dạy. Đó gọi là pháp thoái thất. Đối với tai, mũi, luỡi, thân, ý cũng lại
như vậy.
Thế nào là pháp không thoái thất? Nghĩa là, khi mắt thấy sắc thì không sinh
tâm ham muốn nên Tỳ-kheo ấy không vui mừng, không khen ngợi, không nắm giữ,
không dính mắc và không bị pháp ấy xoay chuyển. Nên biết Tỳ-kheo ấy không thoái
thất các pháp lành, các pháp mà Thế Tôn đã chỉ dạy. Đó gọi là pháp không thoái
thất. Đối với tai, mũi, luỡi, thân, ý cũng lại như vậy.
Thế nào là sáu thắng xứ? Khi mắt nhìn thấy sắc mà không sinh tâm ham muốn,
trói buộc, đắm nhiễm thì nên biết Tỳ-kheo ấy đã vượt thắng được nhập xứ kia[3]. Vượt thắng được nhập xứ
kia, đó là điều Thế Tôn đã dạy. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng lại như
vậy. Nếu Tỳ-kheo kia đã vượt thắng được sáu xứ rồi thì các kết sử tham dục được
đoạn trừ, các kết sử sân giận, ngu si cũng được đoạn trừ. Ví như ông vua chiến
thắng được quân thù thì được tôn là vua chiến thắng. Người nào đoạn trừ được mọi
kết sử trói buộc thì được gọi là Bà-la-môn chiến thắng.
Đức Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng
hành.
Tựa đề đặt theo nội
dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.278. 0076a03). Tham chiếu: S.35.96 - IV.76.