Tầm quan trọng của việc phiên dịch kinh điển trong phong trào chấn hưng Phật giáo và tính cấp thiết của việc hoàn thành Đại Tạng kinh Việt Nam hiện nay

tam quan trong

TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN TRONG PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THÀNH ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM HIỆN NAY

Niệm Huệ

Dẫn nhập

Khi nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam, chúng ta thấy Phật giáo đã du nhập và phát triển trên quê hương Việt Nam gần 2.000 năm lịch sử, thế nhưng cho đến ngày nay Phật giáo Việt Nam vẫn chưa có được một bộ Đại tạng kinh tiếng Việt hoàn chỉnh thật sự. Mặc dù công tác phiên dịch kinh điển là một trong những nội dung chính của chương trình chấn hưng Phật giáo từ đầu thế kỷ XX, nhưng đến nay đã trải qua gần 100 năm, các ban ngành giáo dục, nghiên cứu Phật giáo Việt Nam phần lớn vẫn đang sử dụng nguồn kinh sách tiếng Việt có thể nói khá khiêm tốn so với Đại tạng kinh, khi muốn nghiên cứu thêm về Tam tạng Thánh điển vẫn phải tra cứu vào Hán tạng hoặc một số kinh sách ngoại ngữ khác.

Thiết nghĩ, công tác phiên dịch kinh điển không chỉ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam xưa kia mà còn là nhiệm vụ cấp thiết của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thời hiện tại. Vấn đề được đặt ra là làm sao có thể hoàn thành Đại tạng kinh Việt Nam trong tương lai gần nhất?

1. Tầm quan trọng của việc phiên dịch kinh điển trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam

1.1. Về phương diện văn hóa

Khi nghiên cứu v lịch sử Phật giáo Việt Nam, chúng ta thấy Phật giáo đã có mặt tại Giao Châu từ rất sớm, vào khoảng cuối thế kỷ II đến đầu thế kỷ III Tây lịch[1]. Mãi cho đến thời kỳ chấn hưng Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX, tuy đã trải qua gần 2.000 năm lịch sử, nhưng Phật giáo Việt Nam vẫn chưa có được bộ Đại tạng kinh bằng tiếng Việt.

Trước đây, giai đoạn Việt Nam chưa được độc lập tự chủ, đặc biệt vào thời Bắc thuộc, do chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa nên chữ Hán vô cùng quen thuộc với người dân Việt Nam. Đối với Phật giáo cũng vậy, tất cả những thế hệ tiền bối đều tiếp nhận Phật pháp chủ yếu từ Hán tạng. Không những thế, vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhất là thời Pháp thuộc, Viện Viễn Đông Bác Cổ sưu tập các tài liệu, di vật nhưng không nhằm mục đích truyn bá Phật giáo cũng góp phần làm suy giảm các kinh sách tại các chùa”[2]. Đồng thời, “Như muốn loại trừ ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo, thì họ bỏ hết chữ Nho và thay bằng chữ Pháp… Do bỏ chữ Hán nên dân chúng không đọc được kinh Phật; vì lúc bấy giờ kinh sách Phật toàn chữ Hán[3].

Trước tình hình ấy, Hòa thượng Khánh Hòa kêu gọi chư Tôn đức đương thời nên “thỉnh ba tạng kinh đồng tâm nghiên cứu, rồi diễn dịch ra chữ Quốc ngữ[4], đó là việc quan trọng hàng đầu trong chương trình chấn hưng Phật giáo. Bởi lẽ phiên dịch kinh điển không chỉ nhằm mục đích làm phong phú thêm cho kho tàng văn học - văn hóa Phật giáo Việt Nam mà còn thể hiện tinh thần độc lập tự chủ của dân tộc về phương diện văn hóa. Suy cho cùng, nền văn hóa Việt Nam chưa thể gọi là nền văn hóa độc lập nếu như Phật giáo Việt Nam chưa có được bộ Đại tạng kinh tiếng Việt hoàn chỉnh thật sự.

1.2. Về phương diện giáo dục - hoằng pháp

Như chúng ta biết, một trong những nội dung chính của chương trình chấn hưng Phật giáo là “đào tạo Tăng tài, hoằng dương Phật pháp”. Bởi lẽ trong giai đoạn này, vấn đ chính yếu cần phải giải quyết là “trong thì Tăng đồ thất học, làm sai pháp luật; ngoài thì tín đồ không hiểu đạo, mê tín dị đoan[5]. Do đó, Hòa thượng Khánh Hòa đề nghị: “Bây giờ mình hiệp cùng nhau lập thư viện, thỉnh Tam tạng kinh; một mặt thì lo nghiên cứu và phiên dịch để xuất bản… khiến mọi người được thông hiểu cái giáo lý của đạo, mới mong trừ tuyệt những việc mê tín kia[6].

Thực tế cho thấy, trước và giai đoạn đầu của phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam, kinh sách lưu hành vào thời bấy giờ toàn bằng chữ Hán. Điều này đã được Điều Ngự Tử Mật Thể phản ánh trong tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử lược như sau: “Cổ động thì hội nào cũng cổ động bằng quốc văn là nền văn phổ thông, nhưng kho kinh điển triết lý nhà Phật vẫn còn nguyên khối bằng Hán văn[7]. Trong khi đó, thế hệ trẻ Việt Nam dần dần xa lạ với chữ Hán, nên việc tiếp cận lời dạy của Phật qua Đại tạng kinh chữ Hán là điều hết sức khó khăn. Vì vậy, việc phiên dịch kinh điển không chỉ nhằm mục đích làm tài liệu giảng dạy để đào tạo Tăng tài mà còn phục vụ cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh, tránh tình trạng “không đọc được kinh sách Phật nên tín đồ không hiểu giáo lý của Phật là gì. Bắt đầu từ đó họ xa dần đạo Phật. Đạo Phật bắt đầu suy đồi[8].

Có thể nói:Một tôn giáo hay một học thuyết nào, dù hay ho hay cao siêu đến đâu, khi truyền đến một nước khác, nếu sách vở không phiên dịch sang tiếng nước ấy thì tôn giáo hay học thuyết đó không bao giờ phổ biến trong quần chúng được[9]. Cụ thể đối với Phật giáo, nếu như kinh sách chữ Hán không được phiên dịch sang tiếng Việt để giảng dạy cho Tăng Ni, Phật tử và phổ cập đến mọi tầng lớp xã hội, lời Phật dạy không được hoằng truyền rộng rãi thì chắc chắn một điều rằng Phật giáo sẽ không bao giờ phát triển rộng khắp trên quê hương đất nước Việt Nam.

2. Tính cấp thiết của việc hoàn thành Đại tạng kinh Việt Nam hiện nay

Khi nghiên cứu về quá trình phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam, chúng ta thấy Phật sự quan trọng này đã được khởi sự cách đây gần 50 năm dưới sự chỉ đạo của các Hội đồng phiên dịch như: 1. Hội đồng phiên dịch kinh điển được thành lập năm 1973 do HT.Thích Trí Tịnh làm chủ tịch; 2. Hội đồng chỉ đạo phiên dịch và ấn hành Đại tạng kinh Việt Nam được thành lập năm 2003 do HT Thích Minh Châu làm chủ tịch; 3. Ban phiên dịch Pháp tạng Phật giáo Việt Nam do HT.Thích Đổng Minh thành lập vào năm 2002. Thành quả đạt được của các Hội đồng phiên dịch này là các kinh sách đã dịch được lưu hành phổ biến như: 5 bộ Nikāya, 4 bộ A-hàm, một số bộ kinh Đại thừa, luật, luận…[10]. Đặc biệt, hiện nay, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đang nỗ lực hiệu đính các bản dịch cũ cũng như tiếp tục dịch mới những kinh, luật, luận còn lại trong Đại tạng kinh.

Thật ra, xét về phương diện tu tập, số lượng kinh điển đã được phiên dịch và đang lưu hành ở Việt Nam cũng tạm đủ cho hành giả ứng dụng. Tuy nhiên, về phương diện học thuật thì bấy nhiêu đó vẫn chưa thể giúp cho học giả tìm hiểu đầy đủ về giáo pháp của Đức Phật, lời dạy của chư Tổ và đi sâu nghiên cứu nhiều vấn đề khác. Trước đây, do kinh sách tiếng Việt còn khan hiếm, ngành giáo dục Phật giáo Việt Nam phần lớn vẫn sử dụng kinh điển chữ Hán để làm tài liệu giảng dạy trong các trường Phật học. Thế nhưng, trong thời hiện tại, chư vị tiền bối tinh thông Hán ngữ không còn nhiều, thế hệ trẻ đa phần kém hiểu biết về chữ Hán, vậy làm sao Tăng Ni, Phật tử Việt Nam có thể nghiên cứu Phật học một cách tối ưu khi Đại Tạng Kinh chữ Hán chưa được dịch hết sang tiếng Việt. Do đó, phiên dịch Tam tạng kinh điển từ tiếng Hán sang tiếng Việt là công tác quan trọng để làm phong phú, đa dạng nền văn học Phật giáo Việt Nam thời hiện tại. Chỉ khi nào Đại tạng kinh Việt Nam hoàn thành thì ngành giáo dục Phật giáo Việt Nam mới có được nguồn tài liệu phong phú để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu giảng dạy và học tập cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam.

Hơn thế nữa, thời gian gần đây Phật giáo Việt Nam phải đối diện với khủng hoảng truyền thông bẩn liên quan đến việc một số tu sĩ giảng kinh thuyết pháp không phù hợp với lời Phật dạy trong kinh điển, hoặc có hành vi cử chỉ thiếu chuẩn mực, cách ứng xử sai lệch, tạo cơ hội cho những đối tượng cố tình chống phá, bôi nhọ, công kích Phật giáo, gây hoang mang cho tín đồ Phật tử. Có thể nói một trong những nguyên nhân gây ra “pháp nạn” này là do những vị tu sĩ ấy chưa học sâu hiểu rộng kinh điển hoặc hiểu nhưng chưa thực hành đúng lời Phật dạy, và hàng Phật tử cũng chưa được học hoặc đọc nhiều kinh sách Phật giáo.

Chính vì thế việc hoàn thành Đại tạng kinh Việt Nam để lưu truyền rộng rãi, “phổ thông trong thiên hạ, khiến cho mỗi người xem đọc đều hiểu được phép luật nhà đạo, ai làm trái thì chừa, ai làm phải thì theo. Kẻ giả đồ kia cải nghiệp, thì Phật pháp mới chuyển tăng hưng vượng[11] là vấn đề cấp thiết nhất trong thời hiện tại. Một khi Đại tạng kinh tiếng Việt trở thành “bộ giáo trình căn bản” trong chương trình giáo dục Phật giáo các cấp: Sơ cấp, Trung cấp, Cao đẳng, Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ, các lớp đào tạo giảng sư Cao - Trung… thì chắc chắn một điều rằng: Hầu hết Tăng Ni và Phật tử Việt Nam sẽ thông hiểu Phật pháp và luôn vững niềm tin để bảo vệ Chánh pháp, không một thế lực nào có thể phá hoại Phật giáo Việt Nam.

3. Những yêu cầu cấp thiết để hoàn thành Đại tạng kinh Việt Nam

          Muốn cho Đại tạng kinh Việt Nam sớm được hoàn thành để làm nguồn tài liệu “căn bản và toàn diện nhất” cho ngành giáo dục và hoằng pháp, mong rằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói chung và các cơ quan ban ngành Phật giáo nói riêng nên quan tâm đến một số nhiệm vụ mang tính cấp thiết như:

3.1. Thành lập các cơ sở dịch trường

Khi nghiên cứu về Lịch sử phiên dịch Hán tạng, chúng ta thấy Đại tạng kinh chữ Hán được hình thành từ những dịch trường rất lớn về mọi mặt: cơ sở vật chất rộng lớn và tiện nghi nhờ sự bảo trợ của các triều đình, nhân sự đông, hội tụ nhiều dịch giả uyên bác, cách tổ chức hết sức quy mô và có hệ thống[12]. Tại Việt Nam hiện nay, ngoài các trung tâm trực thuộc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam chuyên về lĩnh vực phiên dịch Đại tạng kinh như Trung tâm dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang, Trung tâm dịch thuật Trí Tịnh, Trung tâm Pāli học… còn có một vài tổ chức phiên dịch khác, nhưng nhìn chung vẫn chưa có một dịch trường được tổ chức quy mô để phục vụ cho công trình phiên dịch Đại tạng kinh. Phần lớn các dịch giả vẫn làm việc riêng l tại các cơ sở tự viện, phải lệ thuộc nhu cầu sinh hoạt tôn giáo tại bổn tự nên chỉ họp lại một vài ngày trong tuần để cùng nhau trao đổi ý kiến và chỉnh sửa bản dịch. Thiết nghĩ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, các cơ quan chức năng có thẩm quyền và uy tín nên thành lập một hoặc hai cơ sở dịch trường rộng lớnquy mô cho các dịch giả tập trung lại để cùng nhau dịch thuật và hiệu chỉnh bản dịch, chắc chắn sẽ thuận lợi và đạt hiệu quả cao hơn. Sau khi dịch phẩm hoàn thành, cần phải thông qua hội đồng thẩm định được thành lập tại dịch trường để xác nhận bản dịch đã đạt tiêu chuẩn hay chưa mới đưa vào Đại tạng kinh Việt Nam. Nếu công trình phiên dịch được thực hiện một cách có tổ chức, quy mô và hệ thống như vậy thì hy vọng Đại tạng kinh Việt Nam sẽ sớm được hoàn thành trong tương lai gần nhất.

3.2. Tập trung đội ngũ nhân sự phiên dịch chuyên nghiệp

       Trong một dịch trường, việc tuyển chọn người đảm nhận công tác phiên dịch là vấn đề vô cùng quan trọng mà người lãnh đạo hội đồng phiên dịch cần phải cân nhắc thật kỹ. Một dịch giả tham gia công trình phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam đạt tiêu chuẩn đòi hỏi phải là người thực sự có trình độ chuyên môn về ngôn ngữ[13], có bề dày kinh nghiệm dịch thuật và quan trọng nhất là phải tinh thông tư tưởng Phật học, thậm chí cần am hiểu thêm kiến thức thế học.

3.3. Tổ chức các lớp đào tạo huấn luyện phiên dịch chuyên ngành

Hiện nay, chư vị Tôn túc dịch giả Việt Nam danh tiếng đã viên tịch hoặc già yếu, không còn trực tiếp tham gia công tác phiên dịch. Nhìn chung, số người có bề dày kinh nghiệm dịch thuật, vừa tinh thông về ngoại ngữ (Sanskrit, Pāli, Hán) vừa uyên thâm về tư tưởng Phật học dần dần bớt đi, có thể nói là “tre già nhưng măng chưa mọc”, hoặc chỉ mọc một cách “thưa thớt và yếu ớt”. Do đó, việc đào tạo, huấn luyện Tăng Ni và cả những người Phật tử cư sĩ có khả năng tham gia công trình phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam là nhiệm vụ hàng đầu mang tính cấp bách của các trung tâm trực thuộc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, các trung tâm dịch thuật Phật giáo, các cơ sở giáo dục Phật giáo, các trường Phật học...

3.4. Huy động nguồn kinh phí in ấn và xuất bản

Như trước đã đề cập, ở Trung Hoa, công trình phiên dịch Tam tạng Thánh điển từ Phạn văn sang Hán văn hầu hết đều được các vua chúa xem trọng và hết lòng bảo trợ[14]. Nhờ vậy, Đại tạng kinh chữ Hán đã được hoàn thành một cách hoàn chỉnh với điều kiện hết sức thuận lợi. Trong khi đó, ở Việt Nam, công việc phiên dịch kinh điển sang tiếng Việt trong những thập niên gần đây vẫn mang tính âm thầm tự nguyện, chư vị tiền bối phát tâm phiên dịch, đến khi hoàn thành dịch phẩm, nếu không được sự ủng hộ kinh phí từ Phật tử thì bản dịch đó vẫn chưa được in ấn và lưu hành. Thiết nghĩ, Đại tạng kinh Việt Nam là một công trình vĩ đại được thực hiện trong một quá trình lâu dài và khá tốn kém, có lẽ không có một cá nhân nào đủ sức ủng hộ tài lực một cách trọn vẹn, do đó nguồn kinh phí để in ấn xuất bản cần phải được huy động từ nhiều nguồn khác nhau: chư Tôn đức lãnh đạo Giáo hội, các tổ chức Phật giáo, các cơ sở tự viện cùng tất cả Tăng Ni, Phật tử, mạnh thường quân trong cũng như ngoài nước.

Kết luận

Tam tạng Thánh điển là nhân tố vô cùng quan trọng để duy trì mạng mạch Phật pháp trên thế gian này. Muốn cho Phật pháp được trường tồn và phát triển mạnh thì lời Phật dạy trong kinh điển cần phải được truyền bá rộng khắp cho mọi người hiểu và ứng dụng tu tập, thực hành trong đời sống hằng ngày. Muốn cho mọi người hiểu lời Phật dạy một cách dễ dàng thì Đại tạng kinh Phật giáo cần phải được chuyển dịch sang ngôn ngữ của mỗi quốc gia dân tộc nơi Phật giáo được truyền bá đến. Đặc biệt đối với Việt Nam, Phật giáo đã đồng hành cùng dân tộc trải qua gần 20 thế kỷ, văn hóa Phật giáo là một bộ phận của văn hoá dân tộc, việc phiên dịch các kinh điển Phật giáo sang tiếng Việt không chỉ thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ mà còn làm phong phú thêm kho tàng văn học - văn hóa Phật giáo nói riêng và văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung. Một khi Đại tạng kinh Việt Nam được hoàn thành và lưu bố rộng khắp sẽ góp phần hữu ích cho sự nghiệp hoằng dương Phật pháp. Tăng Ni, Phật tử Việt Nam sẽ tin hiểu lời Phật dạy một cách đúng đắn rõ ràng và ứng dụng tu tập đạt được nhiều lợi ích an lạc hơn trong cuộc sống, có thể diễn đạt và truyền bá Phật pháp cho mọi người cùng hiểu và thực hành theo một cách dễ dàng hơn. Được như thế thì Phật giáo càng ngày càng phát triển, ngọn đèn Chánh pháp càng thêm tỏ rạng và tỏa sáng khắp nơi trên quê hương Việt Nam này.

          Thiết nghĩ, không chỉ trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam xưa kia mà ngay trong thời hiện tại, phiên dịch kinh điển vẫn được xem là một trong những công tác Phật sự vô cùng quan trọng hàng đầu của Phật giáo Việt Nam. Vì lợi ích chung của Phật giáo và dân tộc Việt Nam, mỗi người nên chung tay góp sức, cống hiến nhân lực, trí lực và tài lực để Đại tạng kinh Việt Nam được hoàn thành với tinh thần “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao”. Hy vọng ngọn núi cao Đại tạng kinh Việt Nam ấy sớm được hình thành và trường tồn mãi mãi trên quê hương Việt Nam cho tất cả Tăng Ni, Phật tử Việt Nam được nhìn thấy và nương theo đó để vững tiến trên con đường tu học, nhằm thăng hoa đời sống tâm linh và hoàn thiện nhân cách đạo đức cá nhân cũng như đạo đức xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước được hòa bình, thịnh vượng, nhân dân được sống an lành, ấm no và hạnh phúc.

 



[1] Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, NXB.Thành phố Hồ Chí Minh, tr.286.

[2] Wikipedia, “Chấn hưng Phật giáo”, https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%A5n_h%C6%B0ng_Ph%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o, truy cập ngày: 01/08/2024.

[3] Thích Thiện Hoa (1970), 50 năm (1920-1970) chấn hưng Phật giáo, tập I, hay “Ghi ân tiền bối”, Sài Gòn, tr.26.

[4] Lê Khánh Hòa chủ nhiệm (1929), Tạp chí Pháp Âm, Sài Gòn, tr.18.

[5] Nguyễn Đại Đồng, Nguyễn Thị Minh (2010), Phong trào chấn hưng Phật giáo (Tư liệu báo chí Phật giáo Việt Nam từ 1929 - 1945), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.31.

[6] Sđd.

[7] Thích Mật Thể (1951), Việt Nam Phật giáo sử lược, NXB.Minh Đức, Đà Nẵng, tr.227.

[8] Thích Thiện Hoa (1971), Phật giáo Việt Nam ngày nay (1971) hay 50 năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam, tập II, Viện Hóa Đạo, tr.42.

[9] Sđd.

[11] Lê Khánh Hòa chủ nhiệm (1929), Tạp chí Pháp Âm, Sài Gòn, tr.18.

[12] Xem thêm: Thích Phước Sơn dịch (2008), Lịch sử phiên dịch Hán tạng, NXB.Phương Đông, tr.89-120 và tr.44-50.

[13] Ngôn ngữ dịch thuật (tiếng Việt) và ngôn ngữ văn bản gốc (Pāli, Phạn, Hán, Tây Tạng).

[14] Thích Phước Sơn dịch (2008), Lịch sử phiên dịch Hán tạng, NXB.Phương Đông, tr.89-120 và tr.44-50.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle