Bổn phận của người học trò trong đạo Phật
bon phan
BỔN
PHẬN CỦA NGƯỜI HỌC TRÒ TRONG ĐẠO PHẬT
Tuệ
Anh
“Và bao
giờ con cũng phải đọc tiếng “thầy” một cách trân trọng vì sau tiếng “cha” thì
tiếng "thầy” là tiếng cao quý hơn cả, là tiếng đẹp đẽ hơn cả mà một người
có thể đem tặng người khác”. (Edmond de Amicis - Tâm hồn cao thượng).
Giữa xã hội, quan hệ thầy - trò được xem là
một trong những mối quan hệ quan trọng và thiêng liêng nhất. Người thầy đóng một
vai trò không thể thay thế được cho sự hình thành nhân cách đạo đức và phát triển
trí tuệ của người học trò. Đối với Phật giáo, mối quan hệ này càng trở nên đặc
biệt thiêng liêng và cao cả. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thường nghe bàn nhiều đến
vai trò của người thầy mà ít luận hơn về bổn phận của một người đệ tử. “Sinh
con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông”, quan hệ thầy - trò
cũng vậy, có học trò mới có người thầy, như dân gian dạy “Không thầy đố mày làm
nên” thì làng hài cũng có câu đùa: “Không trò đố thầy dạy ai”, ngụ ý là tất cả
đều ở trong một mối tương quan tương duyên, cái này có vì cái kia có. Bài viết
của chúng tôi khảo sát về đề tài “Bổn phận của người học trò trong đạo Phật” dựa
trên một số kinh, luật và luận để góp phần làm sáng thêm ý nghĩa và giá trị của
mối quan hệ thầy - trò.
Đức Phật: người
chỉ đường
Chúng ta đều biết rằng sau khi thành đạo,
Đức Phật chưa chuyển pháp luân ngay vì sợ Pháp của Ngài tế nhị, sâu kín, không
ai có thể tiếp nhận. Sau khi chấp thuận lời cầu thỉnh của chư thiên, Đức Phật
đã nghĩ đến hai vị thầy đầu tiên của mình và muốn chia sẻ kinh nghiệm cho họ.
Vì hai vị thầy đều đã tịch, Đức Phật tìm đến năm anh em Kiều Trần Như và từ đây
mối quan hệ thầy - trò trong Tăng đoàn đã được thiết lập.
Một trong mười
danh hiệu của Đức Phật là “Thiên nhân sư”, nghĩa là bậc thầy của trời và người.
Đức Phật tự nhận mình là vị đạo sư tức là người chỉ đường: “Như Lai như vị lương y, biết bệnh mà chỉ thuốc,
còn uống hay không, không phải lỗi của lương y. Lại như người dẫn đường rất tốt,
chỉ dẫn đường tốt cho người, nhưng nghe rồi mà không đi, thì không phải lỗi của
người dẫn đường”. (Kinh Di giáo, Hòa
thượng Trí Quang dịch). Trong Trung bộ, kinh Ganaka Moggallana số 107,
Ngài cũng dạy: “Này Bà-la-môn, trong khi
có mặt Niết-bàn, trong khi có mặt con đường đi đến Niết-bàn, và trong khi có mặt
Ta là bậc chỉ đường. Nhưng các đệ tử của Ta, được Ta khuyến giáo như vậy, giảng
dạy như vậy, một số chứng được cứu cánh đích Niết-bàn, một số không chứng được.
Ở đây, này Bà-la-môn, Ta làm gì được? Như Lai chỉ là người chỉ đường”.
Vai trò, tư cách và phẩm chất cần
có của người thầy trong đạo Phật
Trước khi thành đạo, Đức Phật cũng đã trải qua
thời gian cầu học với những vị thầy xuất sắc nhất thời bấy giờ. Ngài đã tỏ ra
là một người học trò không chỉ thông minh xuất chúng mà còn khiêm cung và nỗ lực
hơn ai hết. Sau khi không còn học hỏi thêm được gì nữa, Đức Phật đã quyết định
dựa vào kinh nghiệm tự thân để một mình tìm đạo và chứng đạo. Mục đích của Ngài
khi truyền trao kho tàng Chánh pháp đó là vì để “đem lại hạnh phúc và an lạc cho số đông, vì lợi ích, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người” (Tăng chi bộ).
Như vậy, vai trò đầu tiên của người thầy trong
đạo Phật cũng chính là để thực hiện mục đích đó. Sứ mệnh “tiếp dẫn hậu lai, báo
Phật ân đức”, duy trì mạng mạch Phật pháp cũng là để thực hiện mục đích đó. Đức
Phật đã khẳng định trong Tương ưng bộ rằng:
“Này Ānanda, toàn phần đời sống phạm hạnh
này thuộc về thiện hữu, thiện bạn lữ, thiện giao du”. Từ đó, yếu tố phẩm chất
không thể thiếu của một vị thầy chính là trí tuệ, Bồ-đề tâm và lòng bi mẫn.
Cùng với những phẩm chất quan trọng khác, ví dụ như: “1. Một vị thầy tâm linh phải có hành vi đạo đức phù hợp, không làm tổn
hại người khác mà ngược lại còn giúp đỡ họ; 2. Có khả năng định tĩnh; 3. Không
chấp ngã và không có những ý niệm về tự ngã; 4. Giảng dạy mọi người với tâm thương
yêu, không vụ lợi; 5. Có sự hiểu biết, có tri thức phù hợp; 6. Chuyên tâm giảng
dạy không biết mệt mỏi; 7. Thông thạo nhiều kinh điển; 8. Nghiên cứu sâu và thực
chứng nhiều hơn học trò; 9. Khéo thuyết giảng; và 10. Không thất vọng và bỏ rơi
học trò khi họ có những biểu hiện chưa tốt. Nếu được thì nên tìm những vị thầy
tâm linh hội đủ 10 phẩm chất nói trên, hoặc ít nhất là 5 phẩm chất đầu.” (Làm sao để kiếm tìm vị thầy tâm linh? - Nguyệt
san Giác ngộ).
Sự thật là rất khó để biết được những phẩm chất
bên trong một con người, một người thầy cũng vậy. Không thể nhìn nhận phẩm chất
của một người thầy thông qua số đệ tử mà họ có hay danh tiếng của họ. Truyền thống
Ấn Độ cổ cho rằng cần tới 12 năm để tìm hiểu một vị thầy tâm linh, trong thời
gian đó, chúng ta chỉ nên xem họ là một bậc thiện tri thức mà đừng vội tin tưởng
gì ở họ cả.
Người thầy trong đạo Phật phải vừa là hiện
thân vừa là nguồn cảm hứng cho người học trò trong việc học và hành Chánh pháp.
Trong ý nghĩa đó, người thầy tâm linh là người chỉ cho người học trò thấy vị thầy
bên trong họ để từ đó giúp họ đạt đến trí tuệ, như ngài Lama Thubten Yeshe từng
dạy: “Một vị thầy tâm linh là một người
thật sự có thể chỉ cho bạn thấy Phật tánh trong tâm bạn và là người biết những
phương thuốc tuyệt hảo để chữa trị những tâm bệnh của bạn”.
Người thầy trong đạo Phật đặc biệt phải có yếu
tố vô ngã, vị tha, đồng thời luôn cảm thấy một nỗi buồn thương vô hạn trước thực
tại đau khổ của luân hồi, từ đó có kinh nghiệm về buông bỏ, xả ly và khuyến
khích học trò có những trải nghiệm này.
Tư cách cần có của một người thầy khi nhận đệ
tử đã được ghi trong nhiều kinh, luật. Ví dụ Tăng chi bộ, phẩm Mười pháp nói về tiêu chuẩn của người thầy khi muốn
trao truyền giới pháp, nuôi dạy Sa-di: “Vị Tỳ-kheo đó có giới, sống được chế ngự với sự chế ngự của
giới bổn Pātimokkha; đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ
nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp; là người nghe nhiều, thọ trì điều
đã được nghe, cất chứa điều đã được nghe… khéo thông hiểu, khéo quyết định,
theo kinh, theo chi tiết; vị ấy có khả năng nuôi dưỡng bệnh nhân hay khiến người
nuôi dưỡng; có khả năng làm cho tịnh chỉ bất mãn hay khiến tịnh chỉ bất mãn; có
khả năng đoạn trừ đúng pháp ác tác khởi lên; có khả năng phân biệt chỉ trích tà
kiến khởi lên; có khả năng khích lệ trong tăng thượng giới; có khả năng khích lệ
trong tăng thượng tâm; có khả năng khích lệ trong tăng thượng tuệ”.
Về tư cách lý tưởng, luật Tứ phần dạy, nếu chưa thành tựu năm pháp sau thì chưa thể truyền giới
Cụ túc cho người. Năm pháp đó là:
1. Giới chưa thành tựu;
2. Định chưa thành tựu;
3. Tuệ chưa thành tựu;
4. Giải thoát chưa thành
tựu;
5. Giải thoát tri kiến
chưa thành tựu.
Luật Thập tụng quy định người thầy phải thành
tựu 5 pháp: tín, giới, đa văn, xả, tuệ.
Về tư cách chung, luật Tăng kỳ nêu rõ người thầy phải thành tựu
10 pháp mới được độ người xuất gia, thọ Cụ túc. Đó là:
1. Trì giới;
2. Học rộng A-tỳ-đàm;
3. Học rộng Tỳ-ni;
4. Học giới;
5. Học định;
6. Học tuệ;
7. Biết rõ pháp xuất
tội;
8. Đủ khả năng chăm sóc
người bịnh;
9. Có khả năng giải
quyết những khó khăn cho đệ tử;
10. Tuổi đủ 10 hạ.
Nhìn chung, theo luật
định, tư cách người thầy cần có năm điều chủ yếu:
1. Tuổi đạo phải đủ mười
hạ;
2. Phải biết rõ các
trường hợp trì và phạm, khinh và trọng về giới luật;
3. Kiến thức phải rộng
rãi;
4. Có đủ khả năng giải
quyết những tâm tư khúc mắc của đệ tử;
5. Có khả năng đoạn trừ
tà kiến cho đệ tử. (Dẫn theo Đại đức Thích Trung Thiện - Vai trò người thầy trong trọng trách duy trì mạng mạch Phật pháp, Tạp
chí Văn hóa Phật giáo).
Trong kinh Ưu-bà-tắc
giới, Đức Phật dạy người thầy đối với đệ tử phải: “Một lòng dạy dỗ, xem họ như đứa con một của
mình mà không cầu sự trả ơn, không vì tiếng tăm, không vì lợi dưỡng, cũng không
cầu sự vui cho chính mình”. Luật Tứ phần nói: “Hòa thượng khán đệ tử, đương như nhi
ý; đệ tử khán Hòa thượng, đương như phụ ý. Triển chuyển tương kính,
trọng tương chiêm thị, như thị Chánh pháp tiện đắc cửu trụ”.
Nghĩa là, Hòa thượng đối đãi đồ đệ giống như cha mẹ đối đãi con
cái; đồ đệ cư xử với Hòa thượng giống như con cái cư xử với cha mẹ.
Tương kính nhau, coi trọng nhau, Chánh pháp như thế liền được trụ lâu
ở đời.
Kinh Thiện Sinh trong kinh Trường A-hàm do Hòa thượng Tuệ Sỹ dịch, dạy
về sự săn sóc của một bậc sư trưởng đối với đệ tử như sau:
1. Dạy dỗ có phương
pháp;
2. Dạy những điều chưa biết;
3. Giải nghĩa rõ
ràng những điều trò hỏi;
4. Chỉ cho những bạn lành;
5. Dạy hết những điều mình biết không lẫn
tiếc.
3.
Bổn phận của một người đệ tử đối với Thầy
Ngài Zasep Tulku Rinpoche dạy: “Nếu bạn muốn dấn thân tu theo Phật pháp thì
cần phải có vị thầy dẫn dắt, bởi vì chúng ta cần phải biết làm sao để đạt đến
sự giải thoát, làm sao để thực tập Chánh pháp”. Trong đạo Phật, sự gắn kết
giữa người thầy và người học trò phải là Bồ-đề tâm và từ bi tâm, tức là lý
tưởng cao quý và vĩ đại, sự thực hành hướng đến mục đích giải thoát khỏi luân
hồi vì hạnh phúc cho mình và cho tha nhân. Chính vì vậy trong tác phẩm
“Năm mươi hạnh kính thầy”, các hạnh thứ sáu và bảy, Bồ-tát Mã Minh (Asvaghosa) đã nhắc nhở:
6.
Đối với đạo sư
Cũng như đệ tử
Muốn cho mật thệ
Không bị suy thoái
Thì lúc ban đầu
Phải nên thận trọng,
Sư phụ đệ tử
Phải xét lẫn nhau.
7.
Đệ tử có trí
Thì thứ đạo sư
Thiếu lòng từ bi
Lại nhiều sân hận,
Kiêu căng, chấp trước,
Không giữ giới luật,
Khoe khoang khoác lác
Chớ nhận làm Thầy.
(Hồng Như chuyển
ngữ)
Như vậy, nếu người thầy luôn phải cân nhắc và
xem xét kỹ lưỡng khi nhận đệ tử, thì người học trò cũng phải thực sự nghiêm túc
và cẩn trọng trong việc chọn thầy. Vì thầy chính là người giúp ta tìm được trí
tuệ và vị thầy bên trong chính mình, là người quyết định phần lớn sự thành công
trên con đường tu học của ta, là tấm gương sáng để người học trò noi theo. Nếu
không thì “Thầy hư bạn xấu đưa lầm đường/
Là vò chứa nước nung chưa chín”. (Kinh Bát-nhã hành).
Người học trò trước hết phải tự vấn về động cơ
tu học và cầu thầy của mình. “Phải chăng tôi đang tìm kiếm một vị thầy để giúp tôi đạt
được sự giác ngộ để rồi làm lợi ích cho chúng sinh, hay là tôi tìm kiếm một vị
thầy để thỏa mãn nhu cầu của tôi là có được uy tín khi được ở bên cạnh một vị
thầy nổi tiếng, hay chỉ đơn giản là tôi bị thu hút bởi không gian tu tập đẹp đẽ
của vị thầy, hoặc là bị cuốn hút bởi hình ảnh của cộng đồng tu sĩ tân thời…?” (Làm sao để kiếm
tìm một vị thầy tâm linh, Nguyệt san
Giác ngộ).
Sau khi đã may mắn tìm được cho mình một vị thầy
như pháp, việc đầu tiên của người học trò là quyết
tâm noi gương thầy bất chấp tất cả mọi gian nguy. Phải quý trọng thầy
hơn cả thân mạng của mình: “Nương cậy nơi
đạo sư/thiện tri thức, lỗi lầm của ta sẽ tiêu
trừ, và đức hạnh ta sẽ viên mãn (tiến triển như
trăng tròn). Hãy quý trọng các vị đạo sư hơn cả thân xác của mình - Đấy là pháp hành Bồ-tát đạo.”
(Ba mươi bảy pháp hành Bồ-tát đạo).
Cách tốt nhất để làm hài lòng và phụng dưỡng thầy là cúng dường công phu hành
trì, trong đó có việc thực hiện tất cả những lời thầy dạy bảo với quyết tâm cao
nhất, dù gian khổ thế nào đi nữa.
Kinh Thiện Sinh ghi rõ bổn phận của người đệ
tử đối với thầy như sau:
1. Hầu hạ cung cấp điều cần;
2. Kính lễ cúng dường;
3. Tôn trọng quý mến;
4. Thầy có dạy bảo điều gì không trái
nghịch;
5. Thầy có dạy bảo điều gì nhớ kỹ
không quên. Kẻ làm đệ tử cần phải thờ kính sư
trưởng với năm điều ấy.
Người
xuất gia bước vào chùa là được dạy học thuộc bốn quyển luật. Trong đó các thiên
oai nghi dạy về phép hầu thầy, phép thờ thầy rất kỹ. Rõ nhất là thiên “Sự sư đệ
nhị” đối với Sa-di và “Sự sư đệ tam” đối với Sa-di-ni. Đây cũng chính là những
uy nghi quan trọng bậc nhất của người xuất gia.
Vị trí
của người thầy đặc biệt quan trọng trong truyền thống Kim cương thừa. Cũng từ
truyền thống này có tác phẩm “Năm mươi hạnh kính yhầy” của Bồ-tát Mã Minh mà
trong đó hầu hết các phép kính thầy đều được dạy tương tự như trong Luật tiểu.
Ngoài ra còn có những lời dạy bảo về cúng dường và tùy thuận như:
16. [Nếu lỡ bất kính]
Thì với đạo sư
Hãy nên cung kính
Tùy thuận cúng dường
Được vậy thì mọi
Tật dịch tai ương
Nhờ đó mà rồi
Sẽ không ập đến.
17. Luôn nương đạo sư
Mật thệ của mình
Cho hết tất cả
Điều không thể cho:
Vợ, con, tánh mạng,
Cúng dường được hết,
Huống chi là chút
Tài sản phù du.
(…)
46.
Ở đây cần chi
Phải nói nhiều lời:
Hãy làm những gì
Khiến cho thầy vui;
Bỏ hết những gì
Khiến thầy trái ý,
Việc này việc kia,
Gắng sức mà làm.
47.
Thành tựu đến nhờ
Tùy thuận đạo sư,
Phật Kim Cang Trì
Đã nói như vậy.
Biết thế, hãy nên
Vận dụng tất cả,
Làm cho đạo sư
Hết sức hài lòng.
(Hồng Như chuyển ngữ)
Truyền thống Kim cương thừa cũng cung cấp một
bài tụng ngắn rất cảm động qua đó cho thấy uy lực của một vị thầy cùng với sự kết
nối mật thiết giữa thầy - trò mà trong Hiển giáo thường ít biểu hiện hơn:
Thầy ơi, nhớ nghĩ đến con,
Thầy ơi, nhớ nghĩ đến con,
Thầy ơi, nhớ nghĩ đến con,
Đạo sư uy đức, xua bóng mê muội;
Đạo sư uy đức, giải thoát khai đường.
Đạo sư uy đức, cứu thoát luân hồi;
Đạo sư uy đức, tan khổ năm độc;
Đạo sư uy đức, như ý châu ngọc
Lòng con khẩn thiết xin hãy gia
trì.
Để tim này nhớ chết, nhớ vô thường,
Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì.
Để tâm này biết tri túc thiểu dục,
Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì.
Để tâm này trú nơi chốn thanh tịnh
Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì.
Để xa mọi chướng trong pháp tu hành
Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì.
Để con kiến tánh thoát hết mê lầm
Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì.
Nghịch duyên nghịch chướng thành chốn
nương dựa
Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì.
Ngã tha lợi ích tự nhiên viên thành
Đạo sư uy nghi, xin hãy gia trì.
Liền ngay lập tức xin hãy gia trì.
Liền nhanh thật nhanh, xin hãy gia
trì.
Liền ngay tại chỗ, xin hãy gia trì.
Liền khóa thiền đây, xin hãy gia
trì.
(Gọi thầy từ chốn xa)
Lấy giới luật làm thầy
Trước khi nhập Niết-bàn, Đức Từ phụ tha thiết nhắc nhở các đệ tử: “Các thầy Tỷ-kheo, sau khi Như Lai diệt độ,
các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo
nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là Đức Thầy cao cả của các thầy. Nếu
Như Lai ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy”. (Kinh Di giáo).
Và đây là những lời di huấn khác của
Ngài:
“Này Ananda, nếu trong các ngươi có người
nghĩ rằng: ‘Lời nói của Bậc Ðạo sư không còn nữa. Chúng ta không có Ðạo sư
(giáo chủ)’. Này Ananda, chớ có những tư tưởng như vậy. Này Ananda, Pháp và Luật,
Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Ðạo
sư của các ngươi”.
“Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự
mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa
một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa,
không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối
thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi”.
“Này! Các người
phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy
theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác,
đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!”.
“Này! Các người đừng
vì dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quý giá. Chỉ
có chân lý của đạo ta là bất di, bất dịch. Hãy tinh tiến lên để giải
thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!”.
Như vậy, đạo Phật chú
trọng nỗ lực tự thân với sự dẫn dắt của Pháp và Luật. Nhưng thực tế xảy ra một
điều mà ngài Ajahn Chah đã đề cập: “Nếu sự thật trong
các lời giáo huấn của Đức Phật có thể nhận
thấy dễ dàng thì chúng ta nào
có cần đến các vị thầy đông đảo đến thế đâu. Một khi đã hiểu được các lời giáo huấn là gì thì cứ
theo đấy mà làm. Thế nhưng người ta lại không chịu tìm hiểu các lời giáo
huấn ấy nên việc giảng dạy thật là khó. Họ luôn tìm cách làm ngược lại - với người thầy và cả những
lời giảng huấn. Trước mặt người thầy
thì cách hành xử của họ cũng tạm chấp nhận được,
thế nhưng mỗi khi người thầy ngoảnh mặt đi thì tức
thời họ xử sự như một đám
trộm cắp! Giảng dạy là một việc hết sức khó
khăn”. Và đồng thời, ngài cũng không quên nhấn mạnh: “Mình là người thầy của chính mình. Tìm kiếm một người thầy bên ngoài không phải là
cách giúp giải tỏa được các sự hoang mang trong lòng mình. Chính mình phải khám phá ra sự thật bên trong nội
tâm mình - bên trong con người của
chính mình. Sự thật ấy không thể tìm thấy ở bên ngoài. Điều quan trọng hơn hết là
tự mình phải tìm hiểu lấy chính mình”.
Kết luận
Không hề dễ dàng để gặp được bậc minh sư.
Nhưng vẫn có những phương pháp giúp ta gặp và nhận ra một vị thầy minh triết.
Đó là: dùng sự tỉnh giác của mình để soi rọi vào những động cơ của bản thân
càng nhiều càng tốt, thực tập thiền mỗi ngày, cầu nguyện Tam bảo gia hộ…
Và khi đã có thầy, người học trò cần ý
thức đó là may mắn, là phước báo lớn của mình để hết lòng trân kính và phụng sự
thầy bằng thân, khẩu, ý. Bởi vì “Nếu
ai phụng sự thiện tri thức, điều gì chưa nghe liền được nghe, điều gì đã nghe
liền được bổ ích”. (Kinh Trung A-hàm, phẩm Tập tương ưng, kinh Tận trí, số 54).
“Kính thầy
mới được làm thầy”, đó là quy luật. Giữ được sự khiêm cung, kính trọng là
bước đầu tiên trên chặng đường học hỏi của một người học trò dù trong đạo hay ở
đời. Với người học đạo, thái độ cung kính đó càng cần phải có để những sợi dây
luyến ái thường tình của thế gian bị cắt đứt và Chánh pháp được truyền trao
đúng với bản hoài của Đức Phật: “Này các
Tỷ-kheo, nay những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy cho các ngươi, các ngươi
phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn,
vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương
tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài trời và loài người”.
Tài liệu tham khảo:
1.
Thông Bảo, Đức Phật và những di huấn sau cùng,
giacngo.vn
2.
Làm sao để kiếm tìm vị thầy tâm linh, giacngo.vn
3.
Hoang Phong chuyển ngữ,
Vai trò của người thầy và người trò trong
Phật giáo, thuvienhoasen.org
4.
Quảng Tánh, Phụng sự thiện tri thức là nhân của giải
thoát, giacngo.vn
5.
ĐĐ.Thích Trung Thiện, Vai trò người thầy trong trọng trách duy trì mạng mạch Phật pháp, tapchivanhoaphatgiao.com
6.
Hòa thượng Thích Trí Quảng,
Quan hệ thầy trò trong kinh, luật Phật
giáo, giacngo.vn
7.
Kiến Thường Văn tổng dịch,
Vai trò của bậc thầy trong Phật giáo,
phatgiao.org
8.
Đại sư Tinh Vân, Đạo thầy trò trong Phật giáo, giacngo.vn
9.
Lê Thế Vững (Thích Pháp
Minh), Vai trò của thầy và trò theo quan
điểm của Phật giáo, tapchinghiencuuphathoc.vn