Như Cõi Mộng | Bảo Trâm
nhu coi mong
CHƯƠNG 1
Chiếc xe từ từ chuyển bánh sau nửa giờ nằm đợi khách. Quang
cảnh bến xe náo nhiệt chẳng khác gì chợ tết, tiếng rao hàng rong, tiếng quảng
cáo thuốc gia
truyền, tiếng ca hát của người ăn xin, tiếng đưa tiễn, réo
gọi, dặn dò, nhắc nhở… thật là ồn
ào phức
tạp, người qua kẻ lại lẫn
lộn đủ các thành
phần.
Khánh Linh nhìn qua cửa sổ, quan
sát bên ngoài một cách tỉ mỉ, trên gương mặt không
lộ nét gì khó chịu dù nó trái ngược với nếp
sống hàng ngày của cô. Mặt Linh vẫn tươi thắm an
bình, trên đôi môi như muốn nở nụ cười trước
cảnh tượng vô
cùng hỗn
độn ấy.
Ngoài trời nắng như đổ lửa, ai cũng vội vã chen lấn lên xe mong mau về
tới nhà. Có một bà cụ và thiếu
nữ vừa bước
lên ngồi cùng băng ghế với Khánh Linh, xe chạy mới được một đoạn thì bà
cụ đã nôn thốc tháo. Tội
nghiệp cô con gái phải quýnh quáng lo cho mẹ. Khánh Linh cũng phụ thoa
dầu và đánh gió nhưng cụ vẫn cứ mệt lã. Khánh Linh thấy cần
phải đứng lên để nhường chỗ cụ nằm. Chú lơ xe nhìn thấy Khánh Linh đứng
xớ rớ liền bảo:
- Cô ơi! Cô ngồi vào chỗ đi cô.
Khánh Linh nhẹ
giọng năn
nỉ:
- Cho cô đứng tạm một tí, bà cụ đang mệt chú à!
Băng ghế sau có hai thiếu
nữ xinh
đẹp, một cô cũng đang nằm dài chắc cũng đang say xe như bà cụ. Nhưng
không, cô ta đã ngồi lên khi nghe Khánh Linh nói, rồi thì
thầm điều gì đó với thiếu
nữ bên cạnh. Cô gái ấy nói với Linh:
- Em con nhường chỗ xin mời cô ngồi.
Khánh Linh tươi cười đáp:
- Cô đứng được mà, em cứ nằm đi kẻo mệt.
Cô gái trẻ nhìn lên, đôi mắt mệt mõi ra chiều năn nĩ mời Linh ngồi. Cô chị cũng
khẩn khoản:
- Em con chắc muốn nói chuyện với cô, mời cô ngồi đi cô. Chị em con đi đường xa
sợ mệt nên mua ba ghế, em con ngồi lên được là con mừng lắm.
Khánh Linh nhìn hai cô gái sang
trọng và xinh
đẹp kia hơi lấy làm lạ nhưng cũng vui
vẻ ngồi xuống. Cô em ngã đầu ra sau ghế đầy vẻ mệt
mỏi chán chường, đôi mắt nhắm
nghiền, vẻ
mặt buồn
rười rượi. Người chị thì tươi sáng hơn, nhưng có vẻ cưng chìu và lo
lắng cho em quá. Cô em bảo nhỏ: “Nói chuyện đi chị Dương”. Người chị mỉm
cười gợi
chuyện:
- Cô đi tới đâu vậy cô?
- À! Cô về Hậu Giang.
- Vậy em cũng xuống đó, bộ cô ở dưới đó sao?
- Không! Cô đi nuôi người huynh
đệ bị bệnh.
- Còn ta đi gây bệnh cho người! - Cô em nói rồi cười cay
đắng, cười mà như khóc. Bỗng cô nắm lấy tay Khánh Linh hỏi:
- Sao cô đi tu vậy cô?
- Cô cũng không biết nữa, lớn lên đã thấy mình ở trong chùa tự bao giờ rồi -
Khánh Linh tươi cười trả
lời thành
thật.
Thiếu nữ mở
mắt ra nhìn Khánh Linh chăm chú. Cô gái có đôi mắt đen láy tuyệt
đẹp núp dưới đôi mi dài cong vút, nhưng đôi mắt đẹp ấy sao có vẻ não
nùng quá! Cô lại hỏi nho nhỏ:
- Vậy tu có khổ lắm không cô?
- Cực thì có nhưng khổ thì không.
- Sao lại cực mà không khổ?
- Tại
vì mình tình
nguyện chịu cực mà, thế thì có gì để khổ đâu!
- Sống sao giản dị quá nhỉ!
Cô gái cười mỉa
mai rồi ngã đầu ra sau ghế nhắm
nghiền mắt lại, lộ vẻ chán nản tột độ. Người chị hỏi tiếp:
- Thế có bao giờ cô biết buồn không?
- Buồn chuyện gì?
- Thì buồn về thân
phận mình chẳng hạn.
Khánh Linh thở nhẹ ra cười đáp:
- Cũng có lúc buồn chứ! Ở Thiền
viện nơi cô sống có cả thảy trên dưới tám mươi người, thỉnh
thoảng các cô khác được gia
đình, người thân đến thăm, còn cô thì chẳng bao giờ được nhận niềm vui
đó. Nhưng có vui thì phải có buồn, hễ bất ngờ nhận được điện báo cha mất hay mẹ
bệnh, hoặc anh
chị em tai
nạn gì đó thì vị thiền
sinh kia đã bất
an rồi! thấy cũng khổ lắm nên cô cũng an
phận, chẳng dám mơ ước gì thêm! Phật dạy có bao nhiêu tình yêu thì có bấy
nhiêu nổi khổ, ngược lại thì cũng tránh được nhiều vướng
mắc lắm!
- Cũng có lý, nhưng sống như thế thì có gì vui đâu?
- Có chứ! Mình vui với những gì mình có, như mình vui vì mình có Thầy tổ, huynh
đệ, bạn bè, có mái chùa thanh
tịnh để ở, có vườn hoa
tươi thắm để ngắm, có dòng sông trong mát để tắm, có bầu trời cao rộng,
có ánh trăng sáng
ngời, có dãy mây phiêu
bạt để mà nhìn. Ta lại còn có thân
thể, mắt, tai, mũi, lưỡi, trí óc… để sống, để nhìn, nghe, ngửi, nói
năng, suy
tưởng đủ điều. Ta hạnh
phúc lắm chứ nếu ta biết trân
trọng yêu quý và tận hưởng nó!
Thiếu nữ bỗng ngồi thẳng lên mở choàng đôi mắt sung
sướng nói:
- Chị Dương! Có lý thật! Nghe cô nói em cũng thấy yêu đời ra muốn sống thêm nữa!
Khánh Linh hơi ngạc
nhiên, người chị có tên Thùy Dương ghé sát tai cô nói nhỏ: “Trà Mi nó tự
tử hai lần rồi đó cô”. Song sợ cô em biết Thùy Dương vờ cao giọng:
- Cô biết không, lúc nãy lên xe nhìn thấy cô, con có nói với Trà Mi: "Trên xe có
một Ni
cô dễ
thương quá! Cô có cặp mắt trong
sáng cùng với gương mặt, nụ cười tươi như đoá sen mới nở, ước gì cô ngồi
gần mình để được nói chuyện chắc là vui lắm Trà Mi nhỉ?" Nhưng em con vẫn nằm im
lìm, đến khi nghe lơ xe nói, nó mới hay cô đã nhường chỗ, nên ngồi dậy mời cô
đó!
Trà Mi cười, nụ cười của cô đã có phần tươi tắn hơn:
- Cô ơi! làm sao để có thể dễ dàng bằng lòng với hoàn
cảnh hiện tại?
- Dù muốn dù không ta cũng phải chấp
nhận thôi, chi bằng ta học sống theo người xưa cho khỏe: “Tri túc, tiện
túc, đãi túc, hà thời túc. Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn” (Biết đủ
liền đủ, đợi đủ bao giờ đủ. Muốn nhàn liền nhàn, đợi nhàn, bao giờ nhàn). Có
một câu
chuyện vui như thế này cũng đáng cho mình học lắm:
"Có một anh chàng khờ nọ vào rạp xem hát, không biết anh ta loay hoay thế nào
mà đánh mất tờ giấy bạc năm trăm đồng. Tiếc
của, anh ta mò tìm mãi nên không xem phim được. Người bên cạnh thấy tội
nghiệp, liền bật hộp quẹt sáng cho anh ta tìm, nhưng vì tìm lâu quá sợ
hết ga nên người nọ bảo anh: "Này anh bạn! Hãy lấy giấy mồi lửa để mà tìm". Anh
chàng nọ vì không tìm
thấy giấy đâu bèn thò tay vào túi, tìm được tờ bạc năm ngàn liền mồi vào
lửa".
Em thấy buồn cười chưa? Nếu anh ta có tìm được năm trăm đồng thì cũng lỗ mất bốn
ngàn rưỡi, mà lỡ như
không tìm
ra thì lại mất cả năm ngàn rưỡi. Thật là một hành động ngu
xuẩn, ai cũng chê
cười anh ta cả. Thế mà chúng
ta đã từng làm những việc dại
dột như anh chàng ấy mà không hề hay biết.
Cuộc đời đã cho ta rất nhiều niềm vui và hạnh
phúc. Nhưng nếu rủi
ro mất đi một tí, một phần, một chút nào đó, thì thôi ta hãy để nó qua đi
cho rồi, ta hãy tận hưởng những gì còn lại. Nhưng chúng
ta thường không chịu như thế, chúng
ta giống
hệt anh chàng khờ kia, mất năm trăm đồng bèn đốt tờ năm ngàn để đi tìm,
có phải chúng
ta đã từng hành động như thế không?
Trà Mi bỗng giật mình, thật sự ta đã ngu khờ y hệt như vậy, không những ta đốt
tờ năm ngàn mà còn đốt cả tương lai, sự
nghiệp, cuộc
đời, để tìm cái đã mất. Ôi! Thật là ngốc nghếch làm sao!
Trà Mi nhìn cô với tất cả cảm
tình:
- Nghe cô nói chuyện con vui lắm, thú
vị lắm cô Khánh Linh ạ! Cho con hỏi nhỏ, năm nay cô bao nhiêu tuổi vậy?
- Cô hai mươi tám, còn hai bạn?
- Dạ, Con hai mươi hai, còn Trà Mi thì hai mươi - Thuỳ Dương trả
lời
Trà Mi kêu lên:
- Không tin đâu, hai mươi tám gì mà muốn trẻ hơn Mi nữa đó, phải không chị
Dương?
- Vâng, cô trẻ thật! - Thuỳ Dương cười thán
phục.
Khánh Linh nghe quen những lời này rồi nên chẳng lấy gì làm lạ. Cô nhìn lên băng
ghế trên như có ý thăm chừng bà cụ, hai cô gái cũng nhìn theo. Họ thấy bà cụ vẫn
còn mệt
lả, mắt nhắm
nghiền, đầu gối lên chân cô con gái, gương mặt nhăn nheo vàng vọt, tóc
bạc lơ thơ rối xòa. Khánh Linh nói nhỏ nửa
đùa nửa thật: “Rồi một ngày nào đó chúng
ta cũng sẽ như vậy thôi!”
Như một luồng điện mạnh chạm vào cơ thể, Thùy Dương và Trà Mi nghe rờn rợn ở
gáy, họ có vẻ khó chịu, không muốn chấp nhận sự
thật này. Thùy Dương bảo nhỏ:
- Thấy thế hết ham!
- Càng thêm chán
đời - Trà Mi tiếp lời.
Khánh Linh cười ngạc
nhiên:
- Sao vậy? Thế mà Linh lại thấy vui lắm, khi biết
mình rồi cũng sẽ như thế!
- Cô nói nghe mà ngược ngạo! làm sao ta có thể sung
sướng yêu đời, khi biết
mình sẽ già nua, xấu
xí và bệnh chết?
- Vì biết rõ nó vô
thường, mong
manh và chóng mất, nên ta càng phải sống cho trọn
vẹn phút giây hiện
tại này chứ em!
- Con lại cảm
thấy ghê
sợ cái hiện
tại đầy khổ đau chán nản này!
- Lạ nhỉ! Ở chùa, cô được học sự sống chỉ nằm trong hiện
tại, giáp mặt được với hiện
tại là tiếp
xúc được với sự sống, có giải
thoát giác
ngộ, an
lạc hạnh phúc hay không đều nằm trong phút giây hiện
tại. Người biết sống là sống ngay trong hiện
tại, không nuối tiếc quá
khứ, không mơ tưởng tương lai, bởi vì quá
khứ đã không còn mà tương lai thì chưa đến, tất cả chúng chỉ là ảo
tưởng không
thật mà thôi!
- Làm sao ta có thể rũ bỏ được nỗi thống
khổ đang đầy ắp trong lòng mình ở hiện
tại, nếu
không cầu
cứu đến tương lai?
- Quý Thầy của cô có dạy rằng: trong
đời sống hàng ngày ta đã vô tình "bào chế" vô
số chất độc làm tàn phá tâm
hồn ta và gây tác
hại đến cả những người chung quanh. Ba chất độc chính đã giết lần mòn ta
đó là: “Tham ái”, “Sân hận” và “Si mê”. Ngoài
ra còn có những chất độc mà sức tàn phá của nó cũng rất lớn, đó là: “Ganh
tỵ”, “Kỳ thị”, “Tự mãn”,“Nghi ngờ” và “Cố chấp”. Trong khi tiếp
xúc với chính mình hoặc với người khác độc
tố ấy có thể phát tán bùng cháy và làm tiêu hoại sự an
lạc của ta và người chung quanh. Những độc
tố ấy huỷ hoại tâm
hồn mình và đưa đến trái đắng cho tương lai, muốn sống với hiện
tại an
bình thì phải nhận
diện thường
trực những thứ ấy trong ta. Khi ta biết được nó rồi thì ta có thể chuyển
hóa nó được. Người tu theo Đạo
Phật chỉ làm công việc này: sống với hiện
tại và biết rõ những gì đang xảy ra, thế thôi, bởi vì tương lai cũng chỉ
nằm trong hiện
tại, hiện
tại không an
lạc hạnh phúc, thì làm sao tương lai có thể an
lạc hạnh phúc được! Cho nên muốn có một tương lai tốt
đẹp thì ngay trong hiện
tại ta phải sống an
lành.
- Họa
chăng chỉ có người tu mới thực
hiện được điều ấy - Thùy Dương nói. :
- Nhưng tu thấy cực
khổ quá! Quý cô đi tu vì hoàn
cảnh nào vậy? - Trà Mi hỏi.
- Tu thì hoàn
cảnh nào tu cũng được cả, còn xuất
gia như cô thì có nhiều trường
hợp khác nhau lắm, nhưng phần đông nhờ túc
duyên đời trước, nên khi thấy nếp
sống thanh
tịnh đạm
bạc của thiền
môn liền đem lòng yêu thích, nỗi ước
mong kia cứ ôm ấp mãi cho
đến khi thành
tựu, có khi sớm hoặc có lúc muộn.
Cũng có người nhờ học
hỏi giáo
lý sâu, được nghe thầy cô thuyết
giảng cặn
kẽ hoặc nghiên cúu kĩ lưỡng, nhận
thấy đời
sống xuất
gia là chí
lý hơn cả, bèn quyết
định ra đi; Cũng có người trên đường đời họ chạm phải thực
tế, nhận
biết rõ nỗi khổ của “Sanh, già, bệnh, chết” không ai có thể tránh
khỏi, nên liền phát
tâm tu; Hoặc có người nhận
thấy năm nón dục “tiền tài, sắc
dục, danh
vọng, ăn và ngủ” như hầm lửa, như khu rừng đầy gai
góc đã bao phen đốt cháy và làm họ đau
đớn nên khi tỉnh
ngộ ra "bừng con mắt dậy thấy
mình tay không” thế là họ phát
tâm xuất
gia.
Lại có người đang hưởng giàu
sang, danh
vọng, hạnh
phúc tột
bực, nhưng cũng nhất
quyết bỏ hết đi tu cho bằng được, bởi họ đã thấu hiểu sự
thật của cuộc
đời. Khi mới sinh ra ta nào có gì dính thân đâu và khi nhắm mắt xuôi tay
ta cũng chẳng mang
theo được gì, ngoài hành
nghiệp của “thân, miệng, ý” trong một
đời ta đã gây tạo. Ngoài
ra, cũng còn nhiều trường
hợp khác nữa, nhưng chung quy đều cần
phải có sự giác
ngộ, phát
tâm, quyết
chí mãnh liệt mới có thể sống đời xuất
gia được, đó là điều
kiện phải có của người tu.
- Thất
tình tu được không cô?
Trà Mi đột ngột hỏi, Khánh Linh mỉm
cười:
- Điều đó cô chưa thấy nhưng chắc là khó tu lắm!
- Sao vậy hả cô?
- Bởi vì sự tu
hành cần có quy
luật và khuôn phép, người có ý
chí mạnh mẽ, lý
tưởng vững
chắc mới chịu khép mình vào giới
luật, tu
trì tinh
tấn thì mới có kết quả. Người ấy phải nhẫn nại khắc chế, chịu
đựng bền bĩ, theo đuỗi lâu
dài một pháp
môn nào đó mới có thể đưa mình đến chỗ giác
ngộ. Đặc
biệt, tâm tư người đó phải rỗng rang, thanh
tịnh, trong
sáng và tha thiết với đạo, phải để hết tâm ý vào việc tu
hành của mình. Ví
như nhà bác
học ngồi trong phòng thí nghiệm, thân không thể phóng
túng, tâm
không bị sầu
não chi
phối, thì mới mong có những phát minh giá
trị.
Nếu là người thất
tình, thất chí rồi thì em thử nghĩ họ làm sao có đủ
sức đi trên con
đường trường
kỳ gian khó này? Nơi cô ở cũng rất đông và cô cũng có quen
biết nhiều Chùa, Viện có nơi số chúng hơn cả trăm vị, nhưng cô chưa nghe
nói ai vì thất
tình đi tu cả, mà dù cho có vào tu chắc cũng được vài ba hôm thì cũng
phải trở
về đời thôi.
- Vì sao vậy cô?
- Bởi vì những tâm
hồn yếu
đuối, bạc nhược như thế thì làm sao tìm được nguồn vui, sự
giải thoát trong giới
luật khó khăn, trong cảnh tịch mịch vắng
lặng của thiền
môn lâu
dài cho được. Tuy
nhiên khi Phật còn tại
thế thì lại khác, những người này tu mau chứng
đạo hơn cả.
- Cô kể cho con nghe thử một vài chuyện đi cô!
- Như chuyện nàng Ma
Đăng Già chẳng hạn – Khánh Linh cười kể - Cô ta trót yêu say
đắm Tôn
giả A-nan, vị Tỳ
Kheo thị
giả của Đức
Phật, vừa đẹp trai lại cực kỳ thông
minh. Cô ta phải tuân
theo điều
kiện của Đức
Thế Tôn, xuất
gia tu
hành chứng
quả bằng A-nan, Ngài mới cho gặp mặt. Bởi quá si
tình, nàng liều
lĩnh làm theo điều
kiện ấy. Sau khi xuất
gia chỉ trong thời
gian ngắn, cô đã chứng được quả A
La Hán, đoạn tận mọi tham
ái. Cô liền đến bạch với Đức
Thế Tôn, xin hủy bỏ lời giao ước ngày trước, dĩ
nhiên đó là điều mà Đức
Phật đang chờ đợi.
Lại có nàng Liên
Hoa Sắc. Cô này đã có gia
đình và một
lần vô tình cô thấy người chồng ăn ở với mẹ mình. Cô đau
khổ, xấu
hổ quá, đành bỏ
nhà ra đi, để lại một đứa con gái khoảng 9, 10 tuổi. Thời
gian sau đó cô có chồng khác, bỗng cô lại phát giác người chồng này
thường lui
tới với một cô gái trẻ, cô bèn theo
dõi và bắt quả
tang. Thật trớ
trêu thay người con gái kia không ai xa
lạ, chính là con của nàng với người chồng trước. Quá khổ đau trước
cảnh đảo
lộn luân
thường đạo
lý, đã một
lần chung chồng với mẹ, nay lại chung chồng với con, nàng khủng hoảng gần
như điện loạn, lao mình vào chốn thanh lâu. May
sao gặp được đức Mục
Kiền Liên, vị đệ
tử lớn của Phật, được ngài hoá
độ và đưa về gặp Phật. Đức
Phật chỉ dạy rõ điều nhân
quả, nàng liền phát
tâm xin xuất
gia, tuân giữ
giới luật kỹ lưỡng và tu
hành rất tinh
tấn, chẳng bao lâu đạt
được quả Thánh vô
lậu và có thần
thông đệ nhất trong Ni
chúng thời bấy giờ.
Đó đều do sự hướng dẫn khéo léo của Phật, vì đã thấu tột được căn
cơ của chúng
sanh, nên sự hướng dẫn của Đức
Phật luôn luôn mang lại kết quả tốt
đẹp, chứ vào thời này thì không hy
vọng gì đâu!
- Phải chi
Phật còn tại
thế thì đỡ cho ta biết mấy cô nhỉ!
- Tuy
nhiên trước đó Phật không
chấp nhận cho người nữ xuất
gia đâu nghe em!
- Sao vậy hở cô?
- Vào thời ấy người tu thường ở trong rừng sâu hoặc ở trên non cao, họ hành
thiền và nghỉ dưới
gốc cây, như thế làm sao người nữ chịu cho nổi!
- Vậy duyên
cớ nào Phật cho người nữ xuất
gia hở cô?
- Ban
đầu là do di
mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề, dì ruột cũng là mẹ kế của Thái
Tử Tất
Đạt Đa. Sau khi Thái
Tử tu
hành đã thành
đạo rồi, Vua Tịnh
Phạn nhiều lần thỉnh
Phật về hoàng
cung thuyết
pháp, do đó Di
mẫu thấm
nhuần giáo
lý và phát
tâm xuất
gia rất dũng
mãnh, tuy
nhiên cầu
xin lần nào bà cũng bị Phật từ chối nói rằng chưa phải lúc.
Cho đến khi Đức Vua băng hà, nhiều hoàng phi, công
nương, công
chúa đều muốn theo Hoàng hậu xuất
gia. Bấy giờ, Di
mẫu đã cùng với năm trăm công
nương quý
tộc thuộc họ
Thích Ca tự ý cạo
tóc, đắp
y nhuộm, cởi bỏ hết đồ trang sức và đi chân
không tìm đến nơi Phật đang trú ngụ. Bà nói: “Chúng ta phải chứng
tỏ cho Đức
Thế Tôn biết, người nữ cũng có khả năng tu
tập và chịu
đựng được tất cả những khó khăn, gian khổ của đời
sống tăng sĩ, người nữ cũng có thể làm được những việc khó làm, nhẫn được
những việc khó nhẫn. Người nữ cũng có đầy đủ ý
chí, nghị
lực và nhiệt huyết của bậc trượng phu".
Rồi họ đầu trần chân đất, ăn ngày một bữa, ngày đi đêm nghỉ, từ thành
Ca-tỳ-la-vệ đến thành Tỳ-xá-ly, mất hơn năm mươi lăm ngày đường. Vì là những công
nương quý
tộc, chưa từng phải đi bộ nên chân họ sưng vù, rướm máu, nhưng ngọn lửa quyết
tâm trong họ vẫn sáng bừng. Các mệnh phụ này không hề ái
ngại ôm bát xin
ăn dọc
đường như bao nhiêu tu
sĩ thời đó. Họ không hề nao núng, lùi bước trước khó khăn, tất cả những
gì họ đang làm đã thể
hiện thái
độ xả bỏ ngã
chấp tuyệt
vời chỉ có ở những hành
giả cầu
đạo chân
chính.
Vào một sáng tinh mơ Ngài A-nan ra hồ lấy nước, thấy họ sắp hàng đứng trước cổng
từ bao giờ. Cảm
phục và xúc
động trước nhiệt tình cầu
đạo ấy, Tôn
giả A-nan đã ba lần nài
nỉ Đức
Phật cho nữ
giới gia
nhập Tăng
đoàn. Phái nữ ngày nay được xuất
gia, chính là nhờ ơn
đức của Tôn
giả A-nan.
- Vậy những vị mệnh phụ đó tu có chứng
đạo không cô?
- Sao lại không hả Dương! Bên nữ lúc đó có bảy mươi vị đạt đạo, còn có mười mấy
vị thượng
thủ xuất sắc. Sau đó có nhiều bà hoàng nữa ở các nước lân
cận, nghe
tin Phật cho phái nữ gia
nhập Giáo
đoàn, họ bèn rủ nhau xuất
gia rất đông. Nói chung, nhờ có nền tảng tri
thức, người hoàng
tộc rất dễ thâm
nhập Phật
pháp.
Về sau cũng có các vị nữ
giới thuộc tầng lớp dân dã có hoàn
cảnh đặc
biệt xin xuất
gia và về sau đều chứng
quả A-la-hán, như Tỳ-kheo-ni Pàtacàrà chẳng hạn. Nàng là là con của một
thủ khố ở thành Xá
Vệ. Cha
mẹ nàng định gả nàng cho con trai một nhà giàu
có trong xứ, nhưng vì đã trót yêu người đầy tớ trong nhà, nên nàng đã bỏ
nhà trốn theo anh ta đến một làng xa. Khi sắp hạ sanh đứa con đầu lòng,
theo tục lệ thời ấy, nàng đòi về quê mẹ, anh chồng không cho, nhưng nàng vẫn
trốn đi, tuy
nhiên đến nửa
đường thì nàng đã hạ sanh một bé trai nên đành phải quay lại.
Đến đứa thứ hai, nàng không đợi chồng đưa đi mà tự bế con đi. Anh chồng khi hay
tin liền đuổi theo, may mà kịp để giúp đỡ nàng. Lại một
lần nữa nàng hạ sanh dọc
đường. Thế nhưng, tối đêm ấy trời bỗng nổi giông tố lớn, mưa ào ạt và gió
thổi dữ
dội, người chồng phải vào rừng chặt cây che chòi cho ba mẹ
con nàng trú ẩn. Nhưng không may bị rắn
độc cắn chết tại chỗ. Nàng đau
khổ khôn xiết, sáng ra dù muốn dù không nàng cũng phải đưa hai con về
nhà cha
mẹ. Nhưng cơn mưa đầu hôm đã làm mực nước sông dâng cao và cầu đã gãy,
không còn con
đường nào khác để qua sông.
Tự biết sức yếu, nàng bèn đưa từng đứa qua sông. Nàng ẵm đứa mới sanh qua trước,
đặt nằm trên bờ cỏ, lấy khăn che phủ ấm, rồi lội trở
lại bế đứa lớn. Khi mới ra được giữa dòng nàng bỗng nghe có tiếng chim
rất lạ. Quay lại nhìn thì hỡi ôi nàng thấy con diều hâu đang quắp đứa bé bay
lên, hoảng hốt nàng hét đuổi, nhưng chim vẫn không buông thả. Đứng ở bên này bờ
nghe tiếng nàng, đứa con lớn tưởng mẹ gọi nên đã lội xuống nước đi ra. Sức nước
quá mạnh đã cuốn phăng đưa bé chưa tròn hai tuổi.
Quá đau
khổ khi chỉ trong một ngày một đêm mà nàng đã bị mất đi người chồng yêu
quý và hai đứa con thơ
dại. Nàng khóc lóc thảm
thiết, thất thiểu lê bước về nhà cha
mẹ. Giữa đường, gặp người quen trong làng đã cho nàng biết tin cơn mưa
bão đêm qua dìm chết cha
mẹ và anh trai nàng dưới mái nhà sụp đổ và sáng nay người trong làng vừa
mới hoả
táng họ xong.
Trước nỗi khổ đau dồn đập, nàng hoá điên
dại, tự xé rách y
phục, đầu tóc rối bời, cười nói thê
thảm đi trên đường phố, lần
hồi đến trước cổng Kỳ
viên Tịnh
xá. Tại đây, những vị nữ
cư sĩ đã thay y
phục cho nàng và đưa nàng đến gặp Phật. Đức
Thế Tôn đã thuyết một bài pháp về sự khổ của kiếp sống luân
hồi. Ngài nói bốn câu kệ:
“Nước chứa trong bốn biển
Ít hơn nước mắt người
Bao khóc than sầu
khổ
Sao người còn hủy hoại”.
Nàng Pàtacàrà dần
dần tỉnh
táo, Phật nói tiếp:
“Chồng con cùng quyến
thuộc
Không phải nơi
nương tựa
Khi thân hoại mạng
chung
Bà con dù huyết thống
Không che
chở được mình
Thấy rõ sự
thật này
Kẻ trí sống giới
đức
Thì mau chóng thành
tựu
Con đường đến Niết Bàn”.
Khi nghe xong bài
kệ, nàng bừng tỉnh
ngộ, cầu
xin Phật cho
phép được xuất
gia. Qua bao ngày tinh
tấn, miên mật trong Thiền
định, một hôm nhân lấy nước rửa chân, Tỳ
kheo ni Pàtacàrà bỗng thấy tột nghĩa sanh
tử, chứng
ngộ được sắc
không, không mảy
may buồn khổ nào còn ràng
buộc được cô.
Nhờ kinh
nghiệm bi ai thống
khổ của bản
thân nên sau khi chứng
đạo, Tỳ
kheo ni Pàtacàrà đã hướng dẫn được rất đông những phụ
nữ có hoàn
cảnh đau
khổ thuộc các giai
cấp thấp trong xã
hội. Khi nghe nữ Tôn
giả thuyết
pháp họ đều giác
ngộ, xin xuất
gia theo nàng tu
học và đều chứng
quả A
La Hán.
- Làm gì có một cuộc
đời mà phải chịu nhiều khổ sở như thế!
- Sao lại không hở Trà Mi! Ngay trong
đời này cô còn nghe và biết có người khổ đau còn hơn vậy nữa kìa. Nhưng
với Pàtacàrà vào thời đó, người ta cũng thắc mắc như Trà Mi vậy và đã hỏi ngay
nàng: “Vì sao cô phải chịu khổ đến thế?” Nữ tôn
giả Pàtacàrà đã chứng
quả nên biết rất rõ, lý
do nào mình phải chịu khổ như vậy.
- Thế
cô ấy nói sao hở cô?
- Trà Mi phải biết chúng
ta đang sống ở đây chứ không phải một
đời này thôi đâu, mà nó liên
hệ đến nhiều đời trước và việc
làm nào ngày nay ta gây tạo sẽ đưa đến đời
sau ta sẽ nhận lấy quả
báo, nhân nào quả nấy, dù tốt hay xấu chẳng sai chạy tí nào. Cho nên khi chứng
đạo rồi Tỳ
kheo ni Pàtacàrà đã thấy rõ hành động ở nhiều kiếp
trước của mình, nên bà đã kể lại rất rõ
ràng:
"Trong một kiếp quá
khứ, ta có chồng nhưng không có con, người chồng bèn cưới thêm thiếp,
không bao lâu người thiếp đã có thai. Vì sợ chồng thương vợ bé hơn mình, ta đã giả
bộ ngọt ngào với cô này và cho cô uống những thứ thuốc để làm hư thai. Cứ
hai ba lần như thế người thiếp biết được âm
mưu thâm độc ấy nên không nhận quà của ta nữa. Nhờ giữ
gìn cẩn
thận, sau cô hạ sanh được một bé trai. Nhưng người vợ cả thật độc
ác, đã tìm
cách làm cho em bé chết. Người thiếp quá đau
khổ đã khóc lóc với chồng. Khi bị chồng gạn hỏi phân xử, ta đã buột miệng
thề: “Nếu tôi có giết con cô thì sau này chồng tôi sẽ bị rắn cắn chết, con tôi
đứa chết trôi, đứa bị quạ ăn, cha
mẹ và anh em tôi sẽ bị nhà cửa sập đè chết, tôi sẽ nhận chịu nỗi khổ đó
trong cùng một ngày cho
đến điên
dại.” Vì lời
thề độc địa ấy mà ngày nay ta phải chịu đền trả
quả báo.
Nhưng này các con! Không phải ta chỉ chịu đền trả trong một
đời này thôi đâu, mà đã trải
qua trăm ngàn kiếp, ta với người vợ lẽ kia cứ gieo ân
oán phải sanh làm thú
vật để ăn nuốt con lẫn nhau, gây khổ đau cho nhau, không sao kể xiết. Các
con, ngày nay ta đã sáng mắt rồi, con mắt của trí
tuệ, nhìn lại sự mê
muội của chúng
sanh, cứ mãi mê gây tạo tội
ác, ta phát rùng
mình thương
xót đến rơi nước mắt. Các con, Phật dạy: Có được thân người rất khó, lại
đầy đủ các căn, không bệnh tật, đầu óc tỉnh
táo sáng
suốt thì thật là đại phước. Cho nên các con hãy cố
gắng làm tất cả những điều lành, những điều có thể đem hạnh
phúc đến cho mình và cho người, ở hiện
tại và tương lai. Hãy lánh
xa, chừa
bỏ những điều xấu ác, vì nó sẽ là quả khổ
không thể tránh được ở đời này và đời sau”.
- Thật là rùng
rợn, thật là rùng rợn!
Trà Mi đưa hai tay ôm lấy mặt mình, kêu lên thảng thốt. Thùy Dương cũng nói:
- Ghế sợ quá, khủng khiếp quá! Nếu
không biết rõ điều này thì ta đã nhúng tay vào tội
lỗi mất rồi. Ôi! Quả
báo thật là kinh
khủng. Cô ơi! Nếu mọi
người ai cũng hiểu
rõ được điều này, thì chẳng ai còn dám gây tội
lỗi nữa đâu.
- Đúng thế, những người hiểu
rõ luật
nhân quả rồi, chắc
chắn là họ không bao giờ khởi
tâm nghĩ đến tội
ác, huống gì nói đến thân làm. Về ba
nghiệp: thân, miệng, ý họ giữ
gìn rất cẩn
thận, cho nên ta đừng ngạc
nhiên khi thấy tại sao trong một đất nước, xã
hội mà lại có lắm thành
phần giai
cấp khác biệt như thế. Kẻ thì thông
minh sáng
suốt, người thì ngu
si đần
độn; kẻ thì giàu
sang sung
sướng, người thì nghèo
đói khổ sở; kẻ thì thân
thể tốt
đẹp mạnh khoẻ, người lại xấu
xí bệnh tật suốt
đời v.v... Bởi vì mỗi người tự gây tạo và nhận chịu lấy kết quả hành động
của mình, trồng cam thì được cam, trồng ớt thì được ớt; cay hay ngọt, ngon hay
dở, tốt hay xấu đều do tự nơi mình. Tất cả đều ở trong tay mình, không ai ban
phước hay thưởng phạt, mà chỉ có mình tự làm, tự chịu, cho nên người có
trí không bao giờ họ làm điều sai quấy.
- Có những việc
làm xấu ác do mình không biết, vô
tâm gây nên, có phải chịu quả
báo không?
- Vẫn phải chịu thôi, vô
tâm thì có quả
báo vô
tâm. Khánh Linh có học một chuyện về quả
báo vô
tâm như thế này:
"Có một chú
tiểu nọ, một hôm ngồi chơi dưới
đất, chú cầm que củi khô gạch gạch trên đất ôn lại những chữ Hán mình đã
học, vô tình chú làm đứt đôi thân của một con trùng nhỏ, khiến con trùng quằn
quại đau
đớn rồi chết. Chú biết ngay là mình đã phạm
tội vô
tâm sát
sanh. Chú thành
tâm ăn
năn sám
hối và cầu
nguyện cho con trùng, bỏ thân trùng được sanh làm người giàu
sang danh
giá và biết tôn
kính Phật
pháp. Nhờ sự thành
tâm chú
nguyện ấy, con trùng
không mang tâm oán
hận, nó thoát xác trùng, liền đầu
thai vào cung vua làm Thái
Tử. Về sau, vua cha băng hà, Thái
tử lên kế
vị là một minh
quân rất mực hiền
đức. Tân Quốc
Vương rất kính
trọng Tam
Bảo, ngài thường
thân cận học
hỏi với các bậc Trưởng
lão, Hòa
Thượng. Trong các bậc cao
tăng bấy giờ, nhà vua có nhân
duyên đặc
biệt với Hoà
Thượng Giới
Đức, vua tôn Ngài làm Thầy và thường
xuyên thưa thỉnh về Phật
pháp.
Một hôm, vua sai tướng sĩ đến thỉnh Hòa
Thượng Giới
Đức vào cung bàn chuyện. Hoà
Thượng trước khi đi bèn gọi đệ
tử căn dặn mọi
việc. Ngài bảo: “Duyên hóa
độ của ta đến đây hoàn mãn, ta nay đi trả nợ xưa”.
Khi vào đến hoàng
cung, vì vua đang đánh cờ, tướng sĩ không dám quấy
rầy, nên Hoà
thượng ngồi đợi ở ngoài, thấy Hoà
thượng đợi đã
lâu mà vua vẫn mải
miết bên bàn cờ, một viên hầu cận đã bạo gan đến thưa với vua: "Tâu bệ
hạ Hòa
Thượng đã đến”. Vua lúc đó đang say mê nước cờ nên không nghe tiếng thưa
của viên hầu cận. Nước cờ đang hồi gây cấn, vua đi một đòn quyết
định và phấn khích thốt lên “sát…” rồi đập mạnh con cờ lên bàn ấn
định chiến thắng. Tướng sĩ lui ra tuân
theo lệnh vua đưa Hòa
Thượng ra xử tử mà không hề biết lý do! Trước khi chết Hòa
Thượng vẫn điềm
nhiên tự
tại, Ngài nhắc lại với những người có mặt xung
quanh về câu
chuyện của kiếp xưa, khi Ngài là một chú
tiểu đã vô tình giết hại một con trùng, con trùng ấy nhờ sức chú
nguyện và sự
sám hối chí
thành của chú
tiểu mà nó không mang
theo oán
hận về người đã vô tình giết nó, lại được sanh làm bậc đế vương. Hoà
thượng nhờ mọi
người nhắn lại với vua là Ngài hoan
hỷ trả nghiệp, xin nhắc vua hãy yên tâm và nhớ lấy đức trị nước.
Sau khi vãn cuộc chơi, vua hỏi tướng sĩ:
"Hòa Thượng đã đến chưa?"
Tướng sĩ thưa:
"Đã tuân
theo lệnh vua đem đi xử tử rồi".
Vua nghe mà hỡi ôi, bủn
rủn cả tay chân! Ngài thật khổ đau
thương tiếc và hối
hận. Tướng sĩ tâu lại lời của Hòa
Thượng nhắn nhủ vua. Từ đó về sau làm việc gì vua cũng hết
sức dè dặt cả trong ý
tưởng vô
tâm.
- Việc nhân
quả rõ
ràng quá cô hả! - Thùy Dương nói.
Trà Mi bảo:
- May mà Hòa
Thượng tu nên biết rõ quả
báo, vui
lòng chấp
nhận, chớ gặp mình chắc là kêu
oan, rồi than trời trách đất dữ lắm đó.
- Cô ơi! Có khi nào mình gây tội nhỏ mà phải chịu đền trả nặng nề, hoặc ngược
lại, có không cô?
- Có chứ! Tùy
theo tâm của ta cả.
- Tạo tội thì vậy, còn tạo phước thì sao?
- Cũng
thế, tâm ta thế nào thì nó phản ánh thế đó, hãy xem
như mình đứng trước một tấm gương. Hễ mình cười thì gương cũng cười mà
mình khóc thì gương cũng khóc, tấm gương nhân
quả rất công
bằng và vô
tâm.
- Thế thì làm sao có thể nói, gây ít trả nhiều hoặc gây nhiều trả ít được?
- Đã nói là tuỳ tâm nặng nhẹ của ta mà. Để Khánh Linh kể câu
chuyện này thì các em có thể hiểu: “Hồi Đức
Phật còn tại
thế, có hai vợ chồng người kia rất nghèo
khổ, gia
tài của họ vỏn vẹn chỉ có một tấm khố rách. Hễ người chồng vấn khố đi xin
ăn thì người vợ phải chui vào đống rơm núp, ngược lại nếu người vợ đi xin
thì người chồng cũng phải làm thế.
Một hôm trên đường ăn xin, người vợ gặp xa giá của vua
Ba Tư Nặc, đang chở đầy hàng hoá và thực
phẩm đến Tịnh
Xá để cúng
dường Phật và chư
Tăng. Bà nhìn lại thân
phận mình và thầm nghĩ: "Ta ra đời nhằm thời Phật tại
thế, thật là hy
hữu. Được cúng
dường Phật và chúng
Tăng là phước báu lớn vô
kể, vậy
mà ta không tạo được một chút phước lành nào cả, bởi thân nghèo
đói thật là cơ khổ". Thế rồi bà buồn bã quay
về than
thở với chồng. Người chồng cũng đầy thiện
tâm, nên khi nghe vợ than liền bảo: “Vậy thì tại sao ta không cúng
dường cái khố rách này; gia
tài chúng
ta còn có gì ngoài nó đâu?" Người vợ lo
lắng bảo: "Không có nó thì ắt phải chết
đói thôi, làm sao ta có thể đi ăn xin?" Ông chồng cương
quyết: "Chúng ta có sống cũng chẳng ích
lợi gì, chi bằng ta làm một chút phước
thiện rồi có chết cũng hả dạ”. Thế là hai vợ chồng cởi tấm khố rồi chui
vào đống rơm ẩn, chỉ thò đầu ra, chờ chư
Tăng đi khất
thực ngang qua bèn gọi lớn: “Bạch thầy Sa Môn! Xin đến đây cho chúng con
thưa ạ!” Đoàn người khất
sĩ bèn tiến về phía ấy, hai vợ chồng dâng tấm khố rách lên lòng đầy thành
kính thưa rằng: “Bạch Thầy, vợ chồng chúng con hôm nay xin dâng vật mọn
này lên cúng
dường Đức
Như Lai, xin ngài hoan
hỷ thọ nhận và trình thưa lại giùm với Đức Phật”. Các Thầy Tỳ
Kheo chắp
tay nhận tấm khố rách và chúc lành cho hai người.
Khi tấm khố rách được mang về Tịnh
Xá và trình lên Phật, giữa Pháp
hội đông đúc, Đức
Phật vô
cùng tán
thán công
đức của hai vợ chồng người ăn xin và bảo: “Đây là vị đại
thí chủ bậc nhất trên đời”. Các Tỳ
Kheo, Phật
tử, Vua và quần thần, ai cũng ngạc
nhiên về chuyện ấy. Biết tâm
niệm của đại
chúng, Phật bèn kể rõ hoàn
cảnh của hai vợ chồng người nghèo kia và bảo: “Tấm khố này tuy xấu, rách,
nhưng nó gói trọn tài
sản lẫn sinh mạng của hai vợ chồng người ăn xin kia. Bố
thí, cúng
dường như thế thì còn ai hơn chăng?”
Nghe Phật kể rõ mọi chuyện ai
nấy đều cảm
động. Các bà Hoàng Hậu, Hoàng Phi bèn cởi chuỗi
ngọc, châu
báu và áo khoác đẹp của mình, rồi sai người đem đến đống rơm để tặng đại
thí chủ bần cùng kia, còn các bậc vua quan, trưởng
giả cũng đem hàng hoá, thực
phẩm và tiền bạc, sai gia
nhân mang
đến tặng họ. Chỉ nội trong ngày ấy, hai vợ chồng nghèo
khổ kia bỗng trở nên giàu
có lớn. Phước báu hiện
tiền ngay trong
đời hiện
tại đã lớn lao như thế và Phật còn cho
biết năm trăm đời về sau hai vợ chồng ấy thường sanh ở cõi
trời hưởng sự vui
sướng tột bậc.
Trà Mi có thấy gây tạo ít mà hưởng quả nhiều chưa? Như chúng
ta gieo xuống đất một hạt
giống, thì khi nó đâm hoa kết trái, lúc thu hoạch phải gấp bội chứ. Mảnh
khố rách so với năm mười cỗ xe hàng hoá, thực
phẩm của vua có thấm vào đâu. Nhưng với tấm lòng kia thật cảm
động cả đất trời.
- Hay thật! Tội phước gì cũng đành rành cả, chỉ tại ta không biết nên cứ sống
càn làm bậy, chỉ chờ đến khi quả
báo tới
nơi mới ăn
năn hối
hận thì đã muộn
màng - Thùy Dương nói như
tự nhắc nhở.
Trà Mi lo sợ hỏi:
- Cô ơi! Nếu mình lỡ gây tội rồi, đi rửa tội có hết không cô?
- Như một tảng đá lớn bỏ xuống giếng sâu rồi nhờ mọi
người xúm nhau cầu
nguyện mong cho nó nổi lên, phỏng nó có nổi lên được không?
- Chắc là không rồi, vì nó quá nặng – Trà Mi bần thần đáp
- Người tạo nghiệp xấu cũng vậy, tự thân họ đã gây tạo rồi, thì họ phải chìm
đắm, không ai có thể cứu vớt nổi trừ khi tự
tâm họ ăn
năn sám
hối, cải
thiện dần
dần khi trả hết nghiệp xấu cũ. Họ sẽ trở nên lành tốt nhẹ nhàng. Nên đối
với người tạo tội, ta chỉ có thể giảng
giải cho họ hiểu, để họ tự cải đổi tâm
tánh và hành động, trở
lại tích
công bồi đức thật nhiều thì quả lành kia sẽ chờ đón họ.
- Nếu người ta nguyền rủa, chửi mắng mình, mình có phải gánh chịu những thứ
xấu xa mà họ nguyền rủa ấy không cô?
- Như dầu đổ vào nước, dù mọi
người có muốn nó chìm thì nó cũng không chìm được. Cũng
thế, người sống có đạo
đức, không thể vì lời
nguyền rủa mà có thể xấu đi được. Ví dụ như người ta cho mình một món quà
mà mình không nhận, thì quà sẽ còn nơi họ, chứ làm sao về mình được, chỉ sợ mình
nhận (có nghĩa là mình nguyền rủa lại) thì quà ấy về mình.
Ở Thiền
viện, Hoà
thượng có dạy: “Người ta dẫu chửi mình là chó mà mình vẫn đi hai chân,
như thế là không đúng rồi, cần chi phải cãi lại cho mệt. Người ta dẫu chửi mình
là trâu, bò mà mình chẳng có lông, sừng, chẳng ăn cỏ, đủ biết họ nói sai rồi,
cãi chi nữa cho tốn hơi”. Nhà chùa tu như vậy đó, còn Phật thì lại càng tùy
thuận chúng
sanh hơn nữa. Cho dù đó là con dê, mà chúng
sanh bảo là con ngựa Phật cũng chẳng thèm cãi làm gì. Bởi vì Phật biết
tất cả đều là giả
danh, là tên đặt để gọi, để phân
biệt cho khỏi lẫn
lộn, chứ thực
tình nó đều giống nhau cả, đều không có ngã thật, tại
vì chúng
sanh trôi lăn trong
vòng sanh
tử, đời
đời kiếp
kiếp vô
minh phiền
não đã che mờ chơn tánh nên cứ nhận giả cho là thật, nhận giặc cho là
con, vọng
tưởng điên
đảo không làm sao kể xiết.
- Như thế thì tu thật có lý vô
cùng.
Thùy Dương tán thành. Trà Mi hỏi:
- Cô ơi! Tu để được gì hở cô?
- Để biết rõ mình không là gì cả, mà là tất cả.
- Sao kỳ lạ vậy hở cô?
- Có nhiều cái kỳ lạ hơn nữa nhưng đó là sự
thật.
- Con không hiểu!
- Đến chỗ này không phải để hiểu mà là để sống.
- Sao lúc nãy cô nói con đều hiểu.
- Giáo
pháp nhà Phật ví
như biển cả Dương ạ! Từ cạn đến sâu, từ chỗ tắm lội được đến chỗ không
dám đặt chân xuống. Tuy vẫn cùng một vị mặn, vị giải
thoát, nhưng chỗ không đặt chân đến được, nơi đó mới thật sự
tích chứa trân
bảo, châu
báu, còn trong bờ chỉ có vỏ sò, vỏ ốc, người đi biển rành không bao giờ
lầm lộn. Người học Phật cũng
thế, những pháp còn nói còn hiểu được chưa phải là pháp rốt
ráo tối
thượng.
Nghe lời giải
thích ý
nhị của Khánh Linh, Thùy Dương và Trà Mi đều im
lặng suy
nghĩ.
Như Cõi Mộng | Bảo Trâm