Nhân Hiện Tượng Minh Tuệ Điểm Qua Những Ngộ Nhận Về Phật Giáo
tuhientuong
Trần Kiêm Đoàn
Mùa Phật
Đản và An
Cư Kiết Hạ năm nay (PL 2568 – TL 2024) sự xuất
hiện độc đáo của Tu
sĩ Minh
Tuệ đã gây nên một hiện
tượng sôi nổi của quần
chúng “quan tâm” đến Phật
giáo, tạo nên những phản
ứng nóng bỏng với số lượng vỡ bờ!
Trong cảnh tranh
tối tranh sáng, vàng thau lẫn
lộn, nhìn rõ mặt nhau thật khó. Chưa
bao giờ có trước đây, những trang mạng tiếng Việt cùng tập trung vào một
đề tài cuốn hút về tu
sĩ và sinh
hoạt của một tôn
giáo nhanh và rộng đến như thế.
Hiện tượng Tu
sĩ Minh
Tuệ tuyệt
nhiên không phải là một sự
tình cờ hay lạm động theo chiều hướng tích
cực hay tiêu
cực tuyệt
đối như những cách nhìn mang đầy tính thị
phi của những thuyết âm
mưu (conspiracy theories) để chê bai, tấn công, minh
oan, chối
từ trách
nhiệm. Còn vọng
tâm đi xa
hơn nữa là sự chế tác những tin
vịt giật gân như “Tu sĩ Minh
Tuệ là một người do phe nầy hay phe nọ dựng lên” với mục
đích xa vời nào khác… để thu hút người vào trang mạng của mình (câu view,
câu like…) nhằm thu lợi từ các cơ
quan chủ quản.
Quan điểm về trường
hợp Tu
sĩ Minh
Tuệ, cùng tác
giả là người đang viết những dòng nầy đã có dịp trình bày qua hai bài
viết:
1. Tu
sĩ Minh Tuệ… giọt nước tràn ly.
2. Tu
sĩ Minh Tuệ hoàn thành công hạnh
Mục đích của bài viết nầy chỉ mong được chia sẻ và góp ý với đại
chúng sự hiểu
lầm và suy
diễn quá dễ
dãi về tinh
thần, nội dung và giới
luật đạo
Phật một cách phiến
diện diễn
tiến qua một số sản phẩm bài viết, bài đọc, bài nói… đang được lưu
hành rộng
rãi. Để hỗ trợ quần
chúng thành
tâm và thiện
ý có một cái nhìn gần gũi và xác thực hơn về Đạo
Phật; cũng như góp ý với những nhân vật tôn
giáo khác (như một số tu
sĩ các tôn
giáo bạn) nên gia
công tìm
hiểu về Phật
giáo cẩn
trọng và nghiêm túc hơn trước khi có những bài viết, bài nói vội
vàng và một chiều để bình phẩm và bày tỏ thái
độ về những vấn
đề nhạy
cảm tôn
giáo trong thời điểm hiện
tại.
ĐẠO PHẬT Ở ĐÂU GIỮA DÒNG
TÂM LINH TÔN
GIÁO TOÀN CẦU
Thế giới có khoảng 10.000 tôn
giáo xuất
hiện từ thời Thượng
Cổ, nhưng 85% dân số thế giớp tập trung vào 5 tôn
giáo lớn: Ấn
Độ giáo (Hinduism), Phật
giáo (Buddhism), Thiên
Chúa giáo (Christianity), Do
Thái giáo (Judaism), và Hồi
giáo (Islam). Trong số đó, Phật
giáo là tôn
giáo duy
nhất xuất
hiện với nhân
loại cùng
lúc 3 vai
trò thiết yếu của nếp
sống tâm
linh, đạo
lý và xã
hội:
- Siêu tôn
giáo: Phật
giáo nhập
thế với căn
cơ bản
thể luận (ontology) Tánh
Không và Duyên
Khởi. Đó là sự phủ nhận một đấng Toàn
Năng hay Thượng
Đế mà uyên nguyên khởi đầu là hư
vô hay bất
định. “Thần linh” trong đạo
Phật là sự hợp duyên từ
Không do công
năng duyên
khởi mà thành nên có cả ba
đời (quá
khứ, hiện
tại, vị
lai) mười
phương Phật với hằng
hà sa số chư Phật và thánh
chúng. Do đó, cách nhìn “đạo Phật vô thần” là do phát xuất từ thói
quen qua nếp nghĩ bám chấp vào một đấng siêu hình chủ
tể muôn loài không chứng
minh được bởi sự thiêng
liêng huyền nhiệm có hay không đều nằm ngoài tầm tri
kiến của con
người. Riêng Tánh
Không, một khởi thủy uyên nguyên và hiện
tiền, vừa xa thẳm trừu
tượng vừa thực
tại trong từng hạt
bụi không khí của hơi
thở vào ra, là chỗ dựa vững
vàng và khoa học nhất của tri
thức luận Phật
giáo.
- Triết
lý: Phát xuất từ
vũ trụ quan và nhân
sinh quan, tri
thức con
người hình thành những nếp nghĩ, cách nhìn, lối suy
luận riêng gọi là triết lý. Triết lý
Phật giáo đặt căn
bản trên Tam
pháp Ấn: Khổ, vô
thường, duyên
khởi (hay vô
ngã). Tuy gọi là “triết lý” cho hợp vị với nhu cầu tri
thức quá nhiêu khê và phức
tạp của con
người, nhưng triết lý
Phật giáo là một Dòng
Tâm có sẵn trong mọi
người. Một vị đại
học giả ôm
đồm trên giá sách với Tam
tạng Kinh điển hay một nông
dân mù
chữ chỉ biết niệm “A Di
Đà Phật” và biết sống theo đạo
lý “ở hiền gặp lành” đều bình
đẳng trước Đạo
Phật như Tu
sĩ Minh
Tuệ được đại
chúng hiểu và thương kính như Ca
Diếp ngày
xưa bởi do Tâm chứ không phải bằng Lý.
- Giáo
dục: Phật
giáo là một hệ
thống giáo
dục hướng đến mục
đích giúp muôn loài hữu
tình diệt
khổ để tiến
tới xây
dựng một nếp
sống an vui và hạnh
phúc ngay trong kiếp sống nầy; cùng với sự luân
lưu năng
lượng Luân
Hồi cho bao kiếp đời
sau. Phương
tiện giáo
dục trong Phật
Giáo với những phương
tiện thiện xảo như thiền
định, quán
niệm, thuyết
pháp, tụng kinh… tùy
căn cơ của mỗi người và hoàn
cảnh riêng biệt để cùng tạo ra cùng
lúc nếp
sống lành
mạnh và năng
lượng tương tác của con
người và vũ
trụ thiêng
liêng. Do đó đức
Phật Thích
Ca là một vị Thầy, một bậc chân
sư (Bổn sư
Thích Ca) chứ không phải là một vị tối linh
thần ban
phước hay giáng
họa.
Bởi vậy, Trí
Tuệ Bát Nhã là căn
cơ của thế
giới tri
thức Phật
Giáo mà nếu chỉ nhìn qua cái hiểu đời thường thì chỉ mới thấy được giọt
nước long lanh trên đại
dương mênh
mông vô
tận tan loãng chân
không: Bát
Nhã 24 tập, 600 cuốn thu
gọn thành 200 chữ, rút
lại thành 10 chữ (Ma
ha Bát Nhã Ba la Mật đa Tâm kinh) và quy hướng thành Không. Trí
Tuệ Bát Nhã hiểu được trực tiếp bằng Tâm
Không. Tu
sĩ Minh
Tuệ tự nhận: “Con là người tập
tu, tập học giảm tham, giảm sân, giảm si. Con không tự nhận con là gì cả mà chỉ
tu cho con để biết sống tốt
hơn thôi…Con không biết nói pháp hay giảng
đạo gì cả mà chỉ biết ‘làm theo lời Phật dạy’. ” (Lược trích video
ngày 18-6-2024). Một điệu sống tịnh
hạnh, biết đủ, vô cầu như thế là tự trang bị tinh
thần “quán tự tại” đi sâu vào Bát
Nhã mới mong đạt “ngủ uẩn đều không” để dứt điểm chặt đứt mọi sự khổ ở
đời… “độ nhất
thiết khổ ách”! Tu
sĩ Minh
Tuệ là một hành
giả đang đi
theo lời Phật và hồn
nhiên như cây cỏ ứng
dụng phương
tiện thiện xảo trong 84.000 pháp
môn (hay vô
lượng pháp
môn tu) để -- rất vô
tư -- ứng
hiện Bát
Nhã cho chính mình ngay trong từng sát
na đương niệm hiện
tiền. Tu
sĩ Minh
Tuệ cố
gắng tu theo hạnh
Đầu Đà mà chỉ có ngài Ca
Diếp là đệ
tử duy
nhất trong số 1250
đệ tử đồng tu thời Phật còn tại
thế. Trong bài viết Tu
sĩ Minh Tuệ hoàn thành công hạnh… người viết có tô đậm điều nầy và mong đại
chúng phát
tâm từ
bi “cúng dường Thanh Tịnh” cho một đối tượng mang biểu
tượng chân
tu. Mọi phản
ứng và thái
độ ứng xử tích
cực nhất đối với Tu
sĩ Minh
Tuệ trong lúc này là tạo một môi trường thanh
tịnh để người chân
tu có điều
kiện tu
hành rỗng lặng, không bị quấy
rầy nội
tâm cũng như ngoại
cảnh. Mong thay!
Những khuynh hướng ngộ
nhận Phật
Giáo phổ
thông nhất:
NGỘ NHẬN VỀ PHƯƠNG
TIỆN: CÁI ĂN
Đạo Phật là một tôn
giáo nhập
thế. Nếu
không có Khổ thì đức
Phật không có lí do giáng trần độ
thế. Biển khổ mênh
mông nên cứu
khổ cũng có vô
số phương
tiện ứng
dụng tùy
nghi. Nhưng phương
tiện tối
thắng vẫn là thiểu
dục tri túc, tức là biết đủ để xa
lìa ham
muốn. Bậc tu
hành xưa
nay vẫn an
nhiên và hạnh
phúc tự nhận mình là Tỳ
Kheo, Tỳ
Kheo Ni (nữ).
Tỳ kheo: Gốc tiếng Phạn (Bali: bhikkhu, Phạn: Bhiksu), có nghĩa là Khất
sĩ, người đi xin. Trên thì xin pháp của chư Phật, để nuôi
dưỡng pháp
thân; dưới thì xin cơm của đàn
na tín
thí, nuôi
dưỡng thân
mạng của mình để duy
trì mạch sống mà tu
hành; đồng
thời giúp diệt
trừ tâm tham
danh, tham
lợi của mình. Mỗi ngày xin được gì thì ăn thứ đó tuyệt
đối không phân
biệt ngon hay dở, mặn hay chay trong miếng ăn hoặc thí
chủ giàu nghèo. Thức
ăn xin được chỉ dùng một bữa trong ngày, không được để qua đêm. Tỳ
kheo giúp thí
chủ trồng phước
đức.
Tầng lớp người chỉ xin cơm mà chẳng xin pháp hay độ phước cho ai, xin càng nhiều
để tích trữ càng tốt là ăn
mày, hành
khất, khất cái.
Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni là những tu
sĩ theo dòng Phật
giáo Nguyên Thủy (Tiểu
thừa hay Nam truyền). Thời Phật
giáo phát triển (Đại
thừa hay Băc truyền) thì mỗi chùa đếu có bếp hay cách nấu thức
ăn riêng. Thực
phẩm do tu
sĩ tự túc trồng lấy hay từ sự cúng
dường của Phật
tử tại
gia và đại
chúng.
Nói tóm
lại, trong giới
hạn của bài viết này, phần “ngộ nhận về cái ăn” người viết chỉ muốn trình
bày một ý nhỏ về cái ăn theo tín lý, tín
điều đạo
Phật là các hình
thức khất
thực, tự túc, ăn
chay, ăn
mặn đều là phương
tiện tùy
nghi, không
chấp nhặt vào hình
thức cố định nào mới đúng là Phật
giáo chính
thống.
NGỘ NHẬN VỀ ĐƯỜNG TU: KHỔ
HẠNH
Kể từ thời xuất
hiện kinh Vệ
Đà (Veda) và Áo
Nghĩa Thư (Upanishad), gần cả nghìn năm trước khi Đức
Phật Thích
Ca ra đời, Ấn
độ đã có những ông Đạo tu
khổ hạnh trên núi Tuyết
Sơn.
Khổ hạnh (asceticism) là con
đường tự luyện thân
tâm bằng những hình
thức tự chịu
đựng sự đày
đọa thể xác hay trấn áp tinh
thần nhằm mục
đích loại
bỏ sự an vui, hưởng thụ của đời
sống mà những kẻ tu
khổ hạnh tin là để giúp gột sạch tội
lỗi nơi con
người. Những nhà
tu khổ hạnh tin rằng con
người tội
lỗi là do đời
sống hưởng thụ về thể
chất lẫn tinh
thần gây nên. Do đó họ phải làm ngược lại mới mong rủ sạch tội
lỗi trần gian. Khổ
hạnh xuất
hiện dưới hai hình
thức: Khổ
hạnh thể xác và khổ
hạnh tinh
thần. Bằng những cách thế tự đầy đọa tinh
thần và thể xác nhiều khi rất khủng khiếp mà ngày nay sử sách còn để lại
là một
thể thức có từ thời tôn
giáo cổ
sơ.
Trong quá trình tu
chứng của Đức
Phật Thích
ca, ngài cũng đã trải
qua một thời
kỳ tu
khổ hạnh với nhiều nhóm đạo
sĩ khác nhau, họ chủ trương chỉ có con
đường tu
khổ hạnh mới đạt đạo, hết khổ. Sa
môn Tất
Đạt Đa đã tìm vào động đá để bắt đầu cuộc tu
tập của mình. Ban
đầu là sự tiết
chế ăn
uống cho
đến khi mỗi ngày, phần ăn chỉ có nhúm hột mè và vài ngụm nước, tự khống
chế mọi cử
động, tự cắt đứt mọi suy
nghĩ cho
đến khi thân
thể khô héo, da
bọc xương, cận kề bên cái chết.
Sau 6 năm tu
khổ hạnh, Sa
môn Tất
Đạt Đa nhận
ra đó không phải là con
đường đúng hướng dẫn đến giác
ngộ mà chỉ là tự diệt oan
uổng. Con
đường dục
lạc và khổ
hạnh đều là cực
đoan nên chẳng đưa hành
giả tới đâu; chỉ có lối Trung
Đạo mới mong tìm
ra đường giác
ngộ, giải
thoát. Bởi vậy, Ngài tới bờ sông Ni Liên Thuyền (Nairangana) gần thành
phố linh
thiêng Ca
Da (Gaya), nhận một bát sữa cúng
dường khởi đầu cho một lối
tu hành an
tịnh, không thái
quá mà cũng chẳng bất cập để đi sâu vào tuệ
giác thiền
tịnh cho tới ngày đắc
đạo dưới cội cây
Bồ Đề.
Gần đây, với sự xuất
hiện của Tu
sĩ Minh
Tuệ “Bộ hành
khất sĩ khổ hạnh”, dư
luận tập trung nói đến hạnh
Đầu Đà và ngộ
nhận đó là hạnh tu duy
nhất, điển hình và cao khiết nhất của đạo
Phật. Thật ra, trong thánh
chúng đệ
tử 1250 vị, chỉ có duy
nhất ngài Ca
Diếp là tự phát
nguyện tu theo hạnh
Đầu Đà. Đây là một lối
tu khổ
hạnh với 13 điều quy
ước xả bỏ hết thảy nhu cầu và phương
tiện sống đời bình
thường như đã được trình bày ở phần trên. Với trải nghiệm thực
tế lối
tu khổ
hạnh mà chính Đức
Phật đã tu
hành trong
vòng 6 năm, Đức
Phật đã khuyên Ca
Diếp chuyển
đổi lối
tu du
phương khổ
hạnh qua tịnh tu khất
sĩ như chính Đức
Phật và các Tu
sĩ khác, nhưng Ca
Diếp luôn bạch
Phật là căn
tính của mình chỉ hợp với cách tu Hạnh
Đầu Đà và một
mình theo lối
tu trì đã chọn cho
đến ngày chứng
đạo. Phật
giáo sử liệu đã chứng
minh rằng, tu
Khổ Hạnh là một trong nhiều cách tu của đạo
Phật, không nhất
thiết phải theo nếu căn
cơ của mình không hạp.
Nếu ở những khung cảnh Phật
giáo như Ấn
Độ, tỉnh Bihar, nơi có Tứ
động tâm Phật
tích hay Tích
Lan, Thái Lan, Cam Bốt, Lào… hình
ảnh những đoàn du tăng khổ
hạnh tay ôm bình
bát, lưng và vai mang túi đựng áo, đi dưới mưa nắng với đầu trần, chân
đất từ vài ba vị hay vài ba chục vị đi chậm rãi hay vội
vàng thành từng nhóm, từng đoàn khất
thực hoặc cắm lều ngủ trên vùng đất hoang, làng mạc hay sơn cốc qua đêm
có thể tìm
thấy nhiều nơi. Nhưng trong khung cảnh Phật
giáo Việt Nam ngày nay với Phật
giáo Bắc truyền phổ
biến, hình
ảnh tu
hành gần với khổ
hạnh càng ngày càng vắng
bóng.
NGỘ NHẬN VỀ HÌNH
TƯỚNG: CHÙA TO TƯỢNG LỚN
Đại chúng đã nắm bắt tức
thời những địa điểm tạm dừng chân hay an
trú qua đêm của Tu
sĩ Minh
Tuệ như hốc núi, bụi cây, vườn hoang, nghĩa địa… để tạo ra sự phản cảm
với khung cảnh chùa viện Phật
Giáo to lớn, đẹp
đẽ ở nhiều nơi.
Nếu lên online để tìm khoảng 50 ngôi chùa Phật
giáo đẹp
đẽ và tráng
lệ nhất của thế
giới thì sẽ thấy không có một ngôi chùa Phật
giáo nào của Việt
Nam có tên trong danh sách cả. Dữ
kiện nầy, nói lên một thực trạng đáng buồn rằng, lấy khái niệm “chùa to
tượng lớn” để mô
tả khía cạnh bị tha hóa bởi vật
chất cho giới tu
sĩ Phật
giáo Việt Nam thì rất thiếu công
bằng. Nếu có chăng hiện
tượng “thiền môn bất tịnh” khi nói về điệu sống của giới Tăng
Ni Việt
Nam thì cần nhận rõ rằng, nguyên
nhân sự bất
tịnh của nếp sinh
hoạt chùa viện Việt
Nam hiện nay là do 2 nguyên
nhân chính:
1. Một số “sư thầy” gây rối Phật
môn bởi suy
đồi pháp
tánh, tuy không nhiều về mặt số lượng nhưng thường ở vị
trí nắm quyền
lực cứng và mềm trong tay, trực tiếp hay gián
tiếp điều khiển sinh
hoạt nhà chùa đã khiến cửa
thiền thành bất
tịnh. Trong lúc đó, đại
đa số Tăng
Ni truyền
thống thì ngược lại, luôn lấy tinh
thần “tăng già hoà
hợp, tứ
chúng đồng tu” chỉ muốn yên thân ẩn nhẩn tu
hành vì úy ngại lên
tiếng. Bởi thiếu sự đấu tranh xây
dựng nội bộ nên phần lớn cơ sở chùa viện thành đơn
vị gia
đình như mái chùa truyền
thống là nơi “che chở hồn dân tộc” chứ chẳng bao giờ là chốn nghị
trường, đại
hội cờ quạt thuyết
pháp, diễn
văn. Nếu có chăng hướng bất
tịnh thường là do một thiểu
số chuyên quyền gây nên và làm những điều khuất tất giữa Đạo và Đời, “bần
tăng và thí chủ”.
2. Cảnh “Sư tử trùng
thực sư
tử nhục” - Chỉ có vi
trùng của sư
tử mới ăn được thịt của sư
tử mà thôi. Tình
trạng vong thân, tha hóa từ bên trong được hiểu
ngầm như “pháp nạn tự thân” của chùa viện Việt
Nam đã khiến quần
chúng có những lối nhìn chưa thấu đáo về Đạo
Phật nên phải bám trụ vào một dẫn
chứng điển hình chân
tu trong Phật
giáo qua pháp
thân bộ hành
khổ hạnh của Tu
sĩ Minh
Tuệ.
3. Nói đến quan hệ “chùa to tượng lớn” và thanh
tịnh cửa
thiền, tưởng cũng nên giở lại giáo sử Phật
giáo, phần nói về Trưởng
giả Cấp
Cô Độc mua Kỳ
Viên của Thái
tử Kỳ Đà với giá vàng
ròng trải kín trên mặt đất. Chốn Kỳ
viên Tịnh
xá cao quý vàng son do thí
chủ nhiệt thành cúng
dường huy hoàng là thế nhưng Đức
Phật cùng thánh
chúng vẫn ngày ngày ôm bình
bát, bước chân trần khất
thực. Hình
ảnh Đức
Phật được kể lại trong sách sử quá từ
bi, thanh
thoát và giản dị: “Sau khi thọ
dụng hết thức
ăn khất
thực được, Ngài tự rửa sạch bình
bát, để lên giá, rồi rửa sạch chân tay, bước vào thiền
đường, trải tọa
cụ, sửa thẳng áo
choàng, ngồi
kiết già và nói pháp.” Hình
ảnh kỳ vĩ nhất của Đức
Phật là cung cách
sống hòa
hợp và đơn
giản như mọi
người mặc
dầu đang ở thế
Thiên Nhân
Sư và được cung thỉnh
an toạ chốn Kỳ
Viên Tịnh
xá đất trải vàng
ròng. Càng về sau, hàng vương tôn, lãnh chúa, phú
gia càng cúng
dường phương
tiện, Phật và thánh
chúng thọ
dụng nhưng không bao giờ dính mắc vào phương
tiện; tâm
thanh tịnh, pháp tương đồng nên gần nửa thế kỷ du
hóa, Đức
Phật và chúng đệ
tử vẫn an
nhiên giữ nếp thanh
quy, sống đời tịnh
hạnh.
NGỘ NHẬN VỀ HIỆN
TÌNH PHẬT
GIÁO
Càng bội phục và ngợi ca nếp thanh tu của Tu
sĩ Minh
Tuệ, tâm
lý bất phục đối với cảnh chùa viện rộn ràng lễ
hội càng tăng nên tâm
lý và thái
độ kính pháp, trọng tăng càng theo đó mà giảm sút; đưa đến sự ngộ
nhận rằng, Phật
giáo đang suy vong tới thời
kỳ “loạn pháp”. Thật ra, số “tăng nhơn” không còn xứng đáng đảnh
lễ trước Phật
Đài và đáng tẩn
xuất ra khỏi chốn thiền
môn cộng với số phàm
tăng “tà môn loạn khẩu” là con số chỉ cần đếm trên hai bàn tay cũng đủ.
Mảng nhân sự tiêu
cực không đáng
kể nếu đem so với số liệu tương
đối là 54.000 tu
sĩ trên tổng
số chùa viện 19.000 đơn
vị. Thế
hệ tăng
ni kế
thừa trong cả nước hiện đang có tới 42.000 học
tăng, học ni thuộc thế
hệ trẻ đang theo học tại 4 học viện Phật
Giáo được đào
tạo từ Sơ
đẳng tới cấp Thạc
sĩ. Theo
dõi những chương
trình tu
học ngắn hạn và dài hạn được tổ chức tại nhiều chùa viện trong cả nước sẽ
thấy được từ
hàng chục ngàn đến hàng chục vạn người Phật
tử đủ mọi lứa tuổi, trình
độ và hoàn
cảnh xuất
thân thành
tâm tham
dự. Cần khách quan và công
bằng để nhận
định rằng, trong ba ngôi Tam
Bảo (Phật, Pháp, Tăng) thì chỉ có Tăng
Bảo đang là đối tượng bị quần
chúng quan chiêm với sự hoài
nghi và băn khoăn giữa thánh và phàm, chánh và tà, chân và giả…
Với hình
ảnh khất
sĩ thuần
túy, ngôn
ngữ khiêm hạ và hành
trạng tròn đầy công
hạnh của Tu
sĩ Minh
Tuệ càng đánh động được tâm
thức kính ngưỡng chân tăng, thì lại càng kích động thái
độ phê phán nghiêm
khắc của đại
chúng đối với một số tăng
ni bại
hoại nghiệp tu chứ không thể nhìn qua lăng kính phê phán hay coi
thường Phật
giáo nói chung được. Bởi thông tin giới
hạn, thời
gian quan
sát cấp
bách và dụng
công chưa đủ để tìm
hiểu Đạo
Phật nên mọi sự phê phán Phật
giáo do ngộ
nhận nhất
thời cần được thận
trọng đón nhận để chân
thành góp ý hơn là đôi co phản biện chẳng về đâu!
Trước sự thách thức của những giá
trị và tác
động mới như thời
cuộc, chính trị, kinh tế, xã hội… đạo
Phật cũng như bất cứ cơ sở tâm
linh và nhân
sinh nào khác, cần
phải có một sự chuyển
biến tiệm
tiến hay cấp
thời cho phù
hợp với tiến độ
khoa học kỹ thuật, truyền
thông đại
chúng và nhu cầu tinh
thần, tâm
linh, tôn
giáo trong thời
đại mới. Đứng lại là thụt lùi, lạc
hậu. Không thay đổi để tịnh hóa hợp
lý, hợp tình và hợp thời là chấp
nhận buông tay bại cuộc!
Cám ơn Tu
sĩ Minh
Tuệ và hiện
tượng Minh
Tuệ đã tình
cờ hay có chủ trương nhập cuộc làm dấy lên một phong
trào quần
chúng và một cuộc dấn thân tìm
hiểu đạo
Phật. Phản
ứng và phản ánh phong
trào quần
chúng nhất
thời bao giờ cũng có ưu
điểm và mặt hạn
chế của nó: Ưu
điểm là hình
tượng hóa và khắc họa được những nét tích
cực nhất về mặt thiểu
dục tri túc, gây
dựng bản
tâm trong
sáng của một tu
sĩ Phật
giáo. Nhưng mặt hạn
chế là sự đồng
hóa dễ
dãi Đạo
Phật với hiện
tượng rực
rỡ nhất
thời. Chính mặt hạn
chế đã tạo ra những ngộ
nhận về Phật
giáo như đã điểm xuyết ở phần trên.
Nếu được nói lên sự suy
nghĩ của một Phật
tử cao tuổi, đến với đạo
Phật từ thời Oanh Vũ GĐPT, tôi có thể phát
biểu bằng tín
tâm và trách
nhiệm tinh thần rằng, đạo
Phật ngày nay đang cần những tấm gương Minh
Tuệ như một dẫn
chứng cụ
thể để thực
hiện hạnh thanh tu của từng thành viên và cá
nhân thích
hợp. Nhưng về đại thể, cần quan
tâm đồng
thời với nỗ
lực phát triển và hiện
đại hóa
Phật giáo toàn
diện.
Thay đổi, chấn
chỉnh, chấn
hưng, hiện
đại hóa hay bất cứ một hình thái nào khác tương
tự đối với Phật
giáo Việt Nam lúc nầy đều là cần
thiết để giữ mạng mạch Phật
giáo không bị hàng tục tăng ngang tầm với “giặc thầy chùa” làm loạn cửa
thiền.
Phật dạy trong kinh: Vạn
pháp do tâm tạo. Mong giữ tâm bớt tham
luyến, thân ít bệnh
khổ, ý đừng điên đảo… là tự độ, thấu đạt cảnh
giới Niết Bàn tự
tại.
Sacramento, ngày khởi đầu mùa Hè tại Cali 21-6-2024
Trần
Kiêm Đoàn
thuvienhoasen.org