Ý nghĩa biểu tượng của những tác phẩm điêu khắc Đức Phật đản sinh ở Gandhāra
Ý nghĩa biểu tượng của những tác
Ý nghĩa biểu tượng của những tác phẩm điêu khắc Đức Phật đản sinh ở Gandhāra
Tiến sĩ Ghaniur Rahman
- Nghiệp Đức dịch
Nghệ thuật điêu khắc Gandhāra được chứng minh là một trong những “ngôn ngữ” đẹp
nhất của ngôn ngữ tâm linh Phật giáo. Loại ngôn ngữ này đã đóng một vai trò hiệu
quả như một phương tiện truyền bá thông điệp của Đức Phật. Gandhāra đã tạo ra và
sử dụng một loại ngôn ngữ biểu trưng thiêng liêng được trang bị bằng các ký
hiệu, biểu tượng và hình ảnh có ý nghĩa, có khả năng giải thích thông điệp
thiêng liêng của Phật giáo một cách hiệu quả. Nghệ thuật điêu khắc Gandhāra là
phong cách nghệ thuật Phật giáo phát triển ở vùng Tây Bắc Pakistan và miền Đông
Afghanistan ngày nay, khoảng từ thế kỷ I đến thế kỷ VII SCN. Nghệ thuật Gandhāra
đại diện cho một số dòng tư tưởng bởi vì nó tiếp xúc với các luồng văn hóa và
nghệ thuật khác nhau từ Ba Tư và thế giới cổ đại Hy Lạp-La Mã, và những luồng
văn hóa này đã ảnh hưởng lớn đến phong cách của nó và tạo thành nên bản sắc của
nó.
Một trong những khía cạnh thú vị của nghệ thuật điêu khắc Gandhāra là trình bày
các tình tiết trong cuộc đời của Đức Phật, thể hiện một cái nhìn sâu sắc về Bậc
Đạo sư. Những tường thuật thú vị nhất là trình bày những sự kiện kỳ diệu đã xảy
ra trong cuộc đời của Đức Phật Thích Ca khi Ngài còn là Thái tử, hoặc những điều
kỳ diệu do Ngài thực hiện với tư cách là một Đạo sự siêu việt. Bậc Đại sĩ không
bao giờ muốn thuyết giảng giáo pháp của mình bằng cách thực hiện thần thông,
nhưng khi cần thiết, Ngài đã thực hiện một số phép thần thông để hoàn thành sứ
mệnh của mình qua đó chuyển hóa càng nhiều người càng tốt theo Chánh pháp để họ
có thể thoát khỏi vòng luân hồi khổ đau.
Phương tiện nghệ thuật đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá giáo pháp
đến với nhiều người. Thông qua tranh tượng, người Phật tử có cơ hội biết được
cuộc đời của Bậc Đạo sư của họ. Ngoài ra, các biểu tượng và hình ảnh nghệ thuật
còn khơi dậy trong tâm người tín đồ lòng tôn kính đối với Đức Phật, nhờ vậy họ
tích tập được phước đức và hướng đời sống của mình theo tấm gương Ngài.
Theo J. Irwin:
“Các nghệ sĩ Gandhāra chủ yếu làm việc nhằm chuyển tải các bản kinh, và những
gì họ mang lại cho chúng ta là những tường thuật văn học trên đá - chứ không
phải một nghệ thuật nói ngôn ngữ thẩm mỹ của chính nó”.
Những gì đặc trưng nên nghệ thuật điêu khắc này là cách thức rất khác biệt mà ở
đó tác phẩm điêu khắc được thể hiện. Nghệ thuật điêu khắc Gandhāra kể lại cuộc
đời của Đức Phật Thích Ca một cách độc lập, không hoàn toàn giống cũng không
hoàn toàn khác phong cách Ấn Độ và cổ đại.
Một đặc điểm khác của nghệ thuật điêu khắc Gandhara là trình bày liên tiếp các
câu chuyện phần lớn theo sơ đồ tuyến tính chiều ngang.
Các đặc điểm quan trọng khác là vật liệu được sử dụng và kiểu thức hoàn toàn
khác biệt so với những nơi khác cũng như các trường phái trước đây và đương đại
ở Ấn Độ. Mặc dù có những tác phẩm bằng vữa ở giai đoạn sau, nhưng vật liệu nổi
bật nhất được sử dụng là đá phiến màu xanh đen. Không giống như các trường phái
khác ở Ấn Độ, Đức Phật của trường phái Gandhāra có chiếc mũi Hy Lạp thon nhỏ và
khoác một chiếc y có nếp gấp theo phong cách Hy Lạp hóa.
Sau khi giới thiệu ngắn gọn về nghệ thuật điêu khắc Gandhāra, chúng ta tiếp tục
tường thuật về sự đản sinh của Đức Phật theo kinh điển Phật giáo và nghệ thuật
điêu khắc Gandhāra.
Sự đản sinh của Thái tử Tất-đạt-đa
Hoàng hậu Ma-da (Māyā), trong khi đứng dưới gốc cây vô ưu trong vườn
Lum-tỳ-ni (Lumbīnī) và nắm một nhành của nó, đã hạ sinh Thái tử
Tất-đạt-đa (Siddhārtha). Đó là một trong nhiều sự kiện kỳ diệu đã xảy ra
trong cuộc đời của Đức Phật Thích Ca. Ngài được sinh ra từ hông bên phải của
hoàng hậu và được hai vị thần Bà-la-môn giáo quan trọng nhất là Phạm Thiên (Brahmā)
và Đế Thích (Indra) đón lấy.
Có những điểm quan trọng cần lưu ý và hầu hết các kinh sách đều thống nhất:
Hoàng hậu Ma-da đã sinh Thái tử trong khi viếng thăm khu vườn; việc sinh hạ
không diễn ra trong cung điện Kapilavāstu; rằng hoàng hậu Ma-da đang đứng khi
sinh con; và rằng bà đã nắm một cành cây bằng tay phải vào lúc hạ sinh Thái tử.
Hoàng hậu Ma-da, trước khi mang thai Đức Phật tương lai, đã chọn đời sống tu tập
và quyết định tránh xa mọi thú vui nhục dục. Chính trong thời kỳ này, bà đã mang
thai Bồ-tát và ngoài ra, bà cũng mong muốn được ở một nơi yên tĩnh như một khu
rừng hay khu vườn. Mong muốn này đã đưa bà đến khu vườn Lâm-tỳ-ni, và chính vào
thời điểm ấy sự đản sinh kỳ diệu của Bồ-tát đã diễn ra.
“Như Aurva (Ưu-lưu) sinh ra từ đùi, Prthu (Tý-thâu) sinh ra từ tay, Mandhatr
(Man-đà) hiện ra từ đầu, Kaksivat (Già-xoa) sinh ra từ nách, cũng vậy Ngài sinh
ra từ hông phải.
Khi đến đúng thời điểm, Ngài xuất ra khỏi thánh thai; Ngài xuất hiện như thể từ
trên trời giáng xuống, vì Ngài không đến thế giới qua cánh cửa cuộc sống; và vì
Ngài đã thanh tịnh bản thể mình qua nhiều kiếp nên Ngài sinh ra không vô minh mà
hoàn toàn tỉnh thức.
Với ánh hào quang và sự vững chãi của mình, Ngài xuất hiện giống như mặt trời
buổi sáng mai, và mặc dù vậy, ánh sáng rực rỡ ấy không làm hoa mắt mà khi nhìn
vào lại như ánh trăng”.
Việc thể hiện của tình tiết này nơi các tác phẩm điêu khắc Gandhāra
Trong các sự kiện liên quan đến cuộc đời của Đức Phật Thích Ca, cảnh đản sinh là
cảnh được miêu tả phổ biến nhất ở nơi các tác phẩm điêu khắc Gandhara. Ở nơi các
tác phẩm điêu khắc này, hoàng hậu Ma-da được miêu tả với ba tư thế khác nhau khi
hạ sinh Thái tử:
1. Chân phải đỡ cơ thể với chân trái cong về phía trước bắt chéo qua chân phải.
2. Chân phải đỡ cơ thể và chân trái bắt chéo ra sau chân phải.
3. Bà đứng mà không bắt chéo chân trên hoặc dưới nhưng cơ thể bà hơi nghiêng về
phía bên trái, như vậy để lộ hông bên phải cho Thái tử xuất sinh.
Trong khi đứng trong tư thế này hoặc tư thế khác được đề cập này, bà nắm một
cành cây vô ưu trong tay phải vào giây phút hạ sinh Thái tử. Tư thế này luôn
được mô tả theo một cách thức giống nhau trong tất cả mọi mô tả. Sự xuất hiện
của Bồ-tát cũng luôn được mô tả theo một cách thức như một luật lệ cố định, mặc
dù các đặc điểm hình thể của Ngài thì khác nhau. Trong hầu hết các tác phẩm điêu
khắc, Ngài được thể hiện bằng những dấu hiệu đặc biệt của một vĩ nhân. Có thể
thấy rõ vầng hào quang và nhục kế (uṣnīṣa) trong hầu hết các tác phẩm
điêu khắc; tuy nhiên, có những bức phù điêu khác miêu tả Thái tử sơ sinh không
có tóc trên đầu giống như những đứa trẻ sơ sinh khác.
Em gái của hoàng hậu là Ma-ha-ba-xà-ba-đề (Mahāprajapatī) luôn được mô tả
phía bên phải hoàng hậu. Một nữ hầu, đứng bên phải bà Ba-xà-ba-đề, cầm một cành
cọ hoặc một chiếc lông công. Nữ hầu này trong một số tác phẩm khác được miêu tả
với một bình nước và một hộp tròn nhỏ, cùng một cành cọ hoặc một chiếc lông công
nhưng không có bình đựng nước. Một nữ hầu khác khi được mô tả theo không gian
sẵn có sẽ cầm một chiếc gương phía sau bà Ba-xà-ba-đề.
Nhân vật đón hài nhi bên trái được xác định là Đế Thích (Indra/Sākra).
Phạm thiên (Brahmā) cũng có mặt trong dịp này, được trình bày đứng phía
sau thần Đế Thích. Cả hai được mô tả chủ yếu trong cảnh đản sinh, mặc dù đôi khi
chỉ có Đế Thích được mô tả còn Phạm thiên thì không. Người điêu khắc cảnh này
dường như chỉ khắc họa những nhân vật quan trọng nhất và loại bỏ những người hầu
cận con người và chư thiên khác do vì không gian của khung hình không cho phép.
Tuy nhiên, sự hiện diện của hàng ngàn chư thiên được đề cập trong kinh sách vào
dịp Thái tử nhập thai và đản sinh.
Vì các vị thiên được xem là vô hình và có thể được trình bày bằng sự hiện diện
tối thiểu theo đòi hỏi của các dịp khác nhau, trong khi con người phải được nhìn
thấy, nên những người hầu cận được chú trọng nhiều hơn. Có lẽ Đế Thích đã được
coi trọng hơn vì ngài là thiên vương và do đó là sự lựa chọn phù hợp hơn để đón
nhận Thái tử. Niềm vui trên cõi trời thỉnh thoảng cũng được miêu tả. Ở nơi một
số bức phù điêu, vào lúc Bồ-tát đản sinh, chư thiên được trình bày đang đánh
trống và chơi đàn hạc.
Sau khi xem xét những tác phẩm điêu khắc này, những khác nhau về một số kiểu
thức trong cùng một cảnh có thể gợi ra hai điều: 1. Các cảnh được mô tả khác
nhau tùy vào không gian khung hình có thể được sử dụng; 2. Có các xưởng khác
nhau mà ở đó các nghệ nhân làm việc theo những yêu cầu của khách hàng của họ.
Càng có nhiều trung tâm quan trọng thì càng có nhiều phong cách. Việc nghiên cứu
các phong cách khác nhau này có thể đưa chúng ta đến việc phát hiện sự tồn tại
của các trung tâm thủ công khác nhau và để tìm ra vị trí, sự kế thừa, niên đại,
nguồn gốc ban đầu của chúng, cho dù các nghệ nhân có nguồn gốc Ấn Độ, nước ngoài
hay cả hai.
Ý nghĩa biểu tượng ở nơi các tác phẩm điêu khắc
- Hoàng hậu Ma-da
Theo kinh sách Phật giáo, từ thời điểm Đức Phật tương lai nhập thai, bốn thiên
thần đã canh gác để bảo vệ cả Đức Phật tương lai và mẹ Ngài. Không có tư tưởng
tham dục nào khởi sinh trong tâm bà và bà không hề cảm thấy mệt mỏi. Và sau khi
hạ sinh Thái tử được bảy ngày, hoàng hậu qua đời và sinh vào cõi trời Đâu Suất.
Hoàng hậu Ma-da đôi khi được xem như một ảo ảnh (māya: ảo giác, ảo ảnh,
hư ảo). Khi những Phật tử về sau đưa Đức Phật lên tầm mức cao nhất, điều tự
nhiên là họ tránh khái niệm Ngài có một người mẹ là con người bình thường, và do
đó dường như như họ xem bà như một ảo ảnh được tạo ra để tạo thành phương tiện
cho sự chuyển đổi của Đức Phật tương lai từ cõi trời sang thế giới loài người.
Ngài được sinh ra một cách khác thường bởi vì Ngài xuất sinh từ hông bên phải
của người mẹ, trong khi bà đang đứng, không giống như những con người khác: “Lại
nữa, mẹ của Bồ-tát sinh Ngài trong khi đứng. Và Bồ-tát, chánh niệm và tỉnh giác,
xuất ra từ hông bên phải của mẹ mình mà không làm tổn hại bà”.
Cách thức sinh được tường thuật trong kinh điển Phật giáo và nghệ thuật Gandhāra
có thể nhằm mục đích thể hiện sự thanh tịnh của Đức Phật trái ngược với sự sinh
(bất tịnh) của con người bình thường. Nhưng đồng thời cũng gán cho mẹ Ngài một
thân phận bí ẩn.
Ngài có thể đến thế giới con người mà không cần người trung gian (mẹ con người),
nhưng vì Ngài đến thế giới con người mà chính nó là ảo ảnh, nên Ngài phải chọn
phương tiện ảo ảnh của con người. Như vậy, ngang qua điều này Ngài muốn cho nhân
loại thấy rằng sự giác ngộ có thể đạt được và mọi người đều có khả năng giải
thoát khỏi luân hồi sinh tử.
Sau khi Thái tử chào đời bảy ngày, mẹ của Ngài qua đời, hay nói cách khác là
phương diện ảo ảnh đã bị dập tắt sau khi chân lý và ánh sáng trí tuệ được sinh
ra. Điều này cũng tượng trưng rằng khi một ánh sáng được thắp lên thì bóng tối
biến mất. Khi Đức Phật tương lai đến như một ánh sáng trí tuệ cho thế giới hiện
tượng, bóng tối và ảo ảnh bắt đầu tan biến, và sự tan biến mang tính tượng trưng
đầu tiên của ảo ảnh, bóng tối hay vô minh là māyā.
Ở nơi các tác phẩm điêu khắc Gandhāra, trong khi hạ sinh Thái tử, hoàng hậu
Ma-da luôn được trình bày là đang nắm cành cây vô ưu bằng tay phải.
Điều này tượng trưng cho việc bà đang thể hiện sự tôn kính các thần cây
(Yākṣa/Yākṣini) và cũng để tạo điều kiện thuận lợi cho Thái tử được sinh ra từ
phía hông bên phải của bà. Các Yākṣa/Yākṣinī luôn được tượng trưng bằng cây cối.
Hoàng hậu Ma-da đôi khi cũng được coi là một Yakṣini, người xuất hiện dưới tên
gọi và hình thù đó để tạo điều kiện thuận lợi cho Đức Phật tương lai đến trần
gian. Trong trường hợp này, Bồ-tát đã đến thế giới loài người thông qua một
phương tiện bán thần linh nhưng ở trong hình thù của một con người, điều đó cần
thiết để nói với con người về khả năng thành công trong việc đạt được sự giải
thoát (Niết-bàn). Hình số 1 là một ví dụ điển hình về Yākṣini và sự tương đồng
của vị này với hoàng hậu Ma-da vào thời điểm bà hạ sinh Bồ-tát.
- Yākṣīṇī
Vào thời điểm Thái tử chào đời, hoàng hậu Ma-da được trình bày trong tư thế điển
hình của một Yākṣīnī (nữ thần cây). Như vậy, nhà điêu khắc đã nâng bà lên ít
nhất là ngang hàng với vị thần đó.
Các Yākṣā và Yākṣīnī đều phục tùng Đa Văn Thiên vương (Vessāvana) ở khu
vực phía Bắc thế giới. Tầng trời thứ nhất, ngay phía trên cõi người, là tầng
trời của Tứ đại Thiên vương (Mahārāja). Những vị Đại Thiên vương này, như
kinh điển đề cập, đã viếng thăm Đức Phật Thích Ca như đã được nêu trong kinh
A-sá-nang-chi (Atānātiya sutta) của Trường bộ. Mặc dù các
Yākṣā được đề cập là có niềm tin vào Đức Phật và đã viếng thăm Ngài, nhưng theo
cùng một bài kinh, hầu hết các Yākṣā đều chống đối giáo pháp.
Cây cối được coi là nơi ở của các Yakṣā và nó cũng được nối kết với nhiều nghi
lễ sinh sản. Đó là lý do tại sao nhiều phụ nữ tìm kiếm con cái hoặc các cặp vợ
chồng mới cưới thường tìm đến cầu khẩn ở một cội cây nào đó. Theo truyền thống
Phật giáo, sau khi giác ngộ, Đức Phất đã đảnh lễ cội cây nơi Ngài đã tọa thiền,
và cội cây ấy về sau trở thành một biểu tượng thiêng liêng của Phật giáo.
Về cội cây mà hoàng hậu Māyā đã nắm nhành của nó khi hạ sinh Thái tử, có người
cho rằng đó là một cây vô ưu (aśoka), cũng có người cho rằng đó là cây
sung (plakśa), nhưng cũng có người cho rằng đó là cây sa-la (śala).
- Những người hầu
Trong nghệ thuật điêu khắc Gandhāra, những người hầu cận được miêu tả là:
Ma-ha-ba-xà-ba-đề, em gái của hoàng hậu Ma-da, người đã nuôi dưỡng Thái tử sau
khi mẹ Ngài qua đời; bên cạnh Ba-xa-ba-đề, một hoặc hai nữ hầu khác cũng có mặt,
một trong số họ hầu như được miêu tả với chiếc lá cọ hoặc lông công, cùng một
người hầu gái khác cầm một bình nước hoặc một chiếc hộp nhỏ. Đôi khi một trong
số họ cầm một chiếc gương.
Người phụ nữ với chiếc lá cọ hay chiếc lông công có thể được xem là người hầu
điển hình để quạt cho người chủ của mình nhằm giảm bớt cái nóng của mùa hè Ấn
Độ. Sự hiện diện của càng nhiều người tham dự càng tốt nhằm thể hiện sự giàu
sang mang tính biểu tượng và đẳng cấp cao.
Sự hiện diện của chư thiên
Khi Đức Phật tương lai rời cõi trời để đến thế giới loài người, vô số chư thiên
đã có mặt, và khi Ngài ngang qua người mẹ ảo ảnh để đến thế giới loài người, lại
có mặt những vị thiên nổi tiếng nhất, trong số đó có Đế Thích (tượng trưng cho
hành động) và Phạm thiên (tượng trưng cho tri thức) đã có mặt để tiếp đón Đức
Phật tương lai và tạo cho dịp này tầm quan trọng cần thiết. Đó cũng là một lời
nhắc nhở cho hài nhi rằng sự hiện diện của Ngài đã được định sẵn để đạt được mục
tiêu cao cả mà cuộc hành trình của Ngài đã bắt đầu.
- Phạm thiên (Brahmā)
Phạm thiên như là một thiên thần không thể bị nhầm lẫn trong các bức phù điêu mô
tả cảnh đản sinh của Đức Phật sơ sinh. Thần mang một chiếc khăn xếp (krobylos-jāta)
trên đầu. Thần được miêu tả cả có và không có râu. Thần cũng được trình bày như
một Bà-la-môn (Brāhmaṇa).
Sự hiện diện của Phạm thiên trong cảnh Thái tử đản sinh tượng trưng cho một số
phát triển ở trong giáo thuyết Phật giáo. Vào thời điểm nghệ thuật được sử dụng
như một công cụ truyền bá, đã có những thay đổi căn bản trong Phật giáo và
Bà-la-môn giáo.
Sự có mặt của Phạm thiên là một thông điệp gửi đến những người Bà-la-môn rằng
ngay cả vị thần tối cao của họ cũng đã hoan nghênh và ủng hộ việc Đức Phật Thích
Ca đến với thế giới loài người. Phạm thiên không chỉ chào đón Ngài vào lúc Ngài
chào đời mà còn cầu thỉnh Ngài dạy cho con người và chư thiên chân lý mà Ngài đã
khám phá ra sau khi đạt được giác ngộ.
Các Phật tử cũng trình bày các vị thần Bà-la-môn giáo như là đệ tử của Bậc Đạo
sư. Như vậy, các vị thần Bà-la-môn được đặt ở một vị trí thấp hơn Đức Phật. Tuy
nhiên, vấn đề quan trọng là, đối với các Phật tử cũng như những người theo Ấn
giáo, Phạm thiên, Đế Thích, v.v. đều được xem là những vị thần. Có vẻ như, một
mặt các Phật tử đang cố gắng thiết lập tính ưu việt của mình và mặt khác họ đang
cố gắng hòa giải với những người Bà-la-môn giáo.
Điều này một mặt cho thấy xã hội thời kỳ đó đã trải qua một quá trình thay đổi
lâu dài và có một sự khoan dung nhất định trong xã hội; mặt khác, các học thuyết
Phật giáo và Vệ-đà đã phát triển thành những triết lý hoàn chỉnh và cả
hai hầu như được nhà nước bảo trợ. Với nền tảng này, các Phật tử Đại thừa đã tận
dụng tối đa lợi thế để truyền bá giáo pháp theo nhiều cách khác nhau. Thông qua
nghệ thuật, như chúng ta đã thấy ở trước, họ nói với dân chúng theo Ấn giáo rằng
các vị thần của họ đã chấp nhận Đức Phật là thầy của họ và họ cũng nên làm như
vậy.
- Đế Thích (Sākra/Indra)
Ở nơi tình tiết đản sinh của Đức Phật Thích Ca được miêu tả trong các tác phẩm
điêu khắc Gandhāra, thần Đế Thích hầu như được mô tả đang đón nhận Thái tử sơ
sinh. Đế Thích, vua của chư thiên, đội khăn xếp và thường không có râu. Nhưng
đôi khi thần được trình bày có râu. Theo Grünwedel, Đế Thích có râu đã được các
nghệ sĩ tạo kiểu theo hình mẫu cổ điển Hy Lạp - đó là hình mẫu của Thần Zeus
(Jupiter). Nhưng theo C. Sivaramamurti, thần cũng được mô tả không có râu trong
tác phẩm điêu khắc Gandhāra và hình mẫu của Đế Thích đó là hình mẫu của một
Bà-la-môn trẻ tuổi.
Những Phật tử coi Đế Thích là Thiên chủ của cõi trời Tam thập tam (Trāyastriṃṣa).
Ngài ngự trong điện Tối thắng (Vejayanta), cưỡi voi Erāvaṇa (Sanskrit:
Airāvata). Thay vì là Purandara, kẻ hủy diệt các thành phố như trong thần thoại
Hindu, ngài là Purindada, người ban tặng các thành phố. Vũ khí của ngài là tia
sét (vajra) và ngài luôn quan sát để bảo đảm sự an ổn cho thế giới.
Đế Thích được cho là đã diện kiến Đức Phật Thích Ca vào nhiều dịp. Khi Thái tử
Tất-đạt-đa lần đầu tiên cắt bỏ mái tóc của mình, chính Đế Thích đã nhặt tóc ấy
và cất giữ nó trên cõi trời Tam thập tam. Thức ăn mà nàng Sujāta dâng cho Bồ-tát
được Đế Thích đặt đầy cam lồ vào đó. Khi Đức Phật từ cung trời Đao lợi trở lại
trái đất tại thành phố Sankāṣya sau khi giảng pháp cho mẹ Ngài và các vị thiên
khác ở đó, chính Đế Thích là người đã tạo ra ba chiếc thang để Ngài đi xuống và
thậm chí còn cùng với Đại Phạm thiên tháp tùng theo Ngài. Theo lời nguyện của Đế
Thích trong kiếp trước khi là Chuyển luân Thánh vương, thần nhận trách nhiệm là
vị hộ pháp và do đó thần là người bảo vệ Tăng đoàn Phật giáo.
Kết luận
Có nhiều phiên bản khác nhau về nơi Thái tử xuất sinh: từ sườn phải, dưới cánh
tay phải hoặc hông phải. Trong mọi trường hợp, như Isao Kurita tường thuật,
“điều này có liên quan đến một truyền thuyết trong xã hội Ấn Độ cổ đại rằng,
giới vua chúa (kṣātriya) sinh một đứa trẻ từ cánh tay phải (biểu tượng
cho sức mạnh quân sự) hoặc sườn bên phải”. Nhưng trong tác phẩm điêu khắc
Gandhāra, phương thức miêu tả duy nhất cho thấy Bồ-tát xuất hiện từ sườn bên
phải, ngay phía trên hông phải.
Những tác gia Phật giáo về sau, giống như các nghệ sĩ, dường như đã thu hẹp
những khác biệt giữa Phật giáo và Bà-la-môn giáo hoặc ít nhất đã cố gắng dung
hòa chúng với tôn giáo cũ. Văn bản mà trên đó nghệ thuật Phật giáo đặt cơ sở
dường như đã chịu ảnh hưởng các Vệ-đà. Ví dụ, về sự ra đời của Đức Phật,
họ đã tìm kiếm một phương thức sinh thể hiện sự vĩ đại của Ngài và câu trả lời
đã được tìm thấy ở Rig-Veda, ở đó thần Indra đã từ chối sinh ra theo cách
thông thường và nhất quyết sinh ra từ sườn bên phải của người mẹ. Có lẽ các Phật
tử đã dựa theo câu chuyện này và do đó Đức Phật sơ sinh thường được mô tả là
xuất sinh bên hông phải của người mẹ.
Tầm quan trọng của nghệ thuật điêu khắc Gandhāra như một ghi chép về lịch sử,
phương tiện giao tiếp và truyền bá đã được thể hiện rõ ràng từ những gì được
thảo luận ở trước. Khi xem qua kinh sách, chúng ta có thể hiểu ý nghĩa và mục
đích tại sao nó được viết. Khi xem qua các câu chuyện nghệ thuật, chúng ta thấy
những hình ảnh và biểu tượng khác nhau, chúng không chỉ gợi nhắc chúng ta về sự
kiện này hay sự kiện khác. Ngoài ra, chất liệu được sử dụng, kiểu dáng và trang
phục của các hình tượng cho chúng ta biết về văn hóa, kinh tế, tôn giáo và cuối
cùng là những ảnh hưởng từ các nền văn hóa và môi trường khác.
Nghệ thuật điêu khắc Gandhāra được chứng minh là một ngôn ngữ biểu đạt rất hiệu
quả trong giới nghệ thuật thế giới. Nó là một nghệ thuật, được dùng như một công
cụ truyền bá một tôn giáo, đã phát triển mạnh mẽ cách đây hơn hai nghìn năm và
nó vẫn là một công cụ để thuật lại lịch sử của tôn giáo, triết học và các khía
cạnh khác của xã hội thời đó. Tác phẩm điêu khắc Gandhāra hoàn thiện về chức
năng và thẩm mỹ đến mức nó đã được chứng minh là một trong những thành viên quan
trọng của các nền văn minh lịch sử thế giới trong quá khứ và hiện tại.
Nguồn: academia.edu